NHỮNG ÔNG THẦY NHÓC CON
Vào năm 1955, tôi bị bắt vì «tội hoạt động cho Việt Cộng». Không oan chút nào nên tôi bị đưa về giam ở khám Tân Hiệp, cách trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng ba cây số. Khám có năm trại nằm hai bên một sân rộng. Tôi ở trại đầu tiên từ cổng đi vào. Trong trại, có gần một chục học sinh đang học trung học thì bị bắt, hầu hết vì tội rải truyền đơn chống chính phủ. Bọn trẻ rất tinh nghịch và quậy phá, bị mấy cụ già chửi mắng mãi. Tuy mắng nhưng các cụ vẫn thương. Thỉnh thoảng, các cụ gọi chúng tôi đến để cho cái kẹo hay cái bánh. Chúng tôi đều hiểu rằng mình là nguồn an ủi của các cụ trong cái cảnh «nhất nhật bằng cả thiên thu».
Tuy nhiên, cuộc sống trong tù thì quá dài và quá chán nên bọn con nít cũng không thể nào bỏ được những trò vui con trẻ. Vì hay nghịch ngợm nên các anh lớn tuổi tập trung chúng tôi vào một khu ngay cửa trước, còn các cụ già thì nằm mãi tít đằng cửa sau, gần buồng vệ sinh. Các cụ vừa ý lắm vì xa được đám con nít ồn ào và gần nhà cầu, thuận tiện về đêm.
Tuy thế, các cụ vẫn không yên. Trong ngày, ngoài giờ lao động, chúng tôi vẫn thường lân la đến chỗ các cụ để tìm đề tài chọc phá.
Trong trại, có một anh kể chuyện hay lắm. Hết Tây du đến Tam quốc, hết Tam quốc đến Tây Hớn, hết Tây Hớn đến Thuyết Đường... Anh kể cho bọn con nít nghe từ ngày nọ qua ngày kia, từ đêm nọ qua đêm kia. Chúng tôi mê anh lắm và chúng tôi cũng thuộc lõm bõm vài chuyện mà anh kể.
Một hôm, tôi rủ mấy đứa lân la đến chỗ các cụ nằm và ngồi quây quần bên nhau. Tôi nói to với các bạn, cốt cho các cụ nghe:
- Tụi bây thích nghe tao kể chuyến Tàu không?
Cả bọn reo lên:
- Thích, thích, kể đi.
Tôi bắt đầu với những chuyện thực hấp dẫn, tình tiết rất đúng với những gì mà tôi đã được nghe kể cách đó mấy ngày. Trí nhớ của tôi cũng khá, lời kể của tôi cũng không tệ, các bạn con nít im lặng ngồi thưởng thức, nghiêm trang một cách khác thường. Vừa kể, tôi vừa liếc qua thấy các cụ lắng nghe và tỏ vẻ thích thú. Có cụ còn se sẽ nhích lại cho gần chúng tôi hơn.
Khi thấy «cá đã ăn mồi» nghĩa là các cụ đã theo dõi một cách say sưa, tôi bắt đầu kể chuyện nọ xỏ vào chuyện kia, kể một cách trơn tru, một cách nghiêm túc, không ngừng lại chút nào. Tôi cho Hàn Tín đấu với Châu Do, cho Trương Lương lập mưu hại Tư Mã Ý, cho Triệu Tử Long múa trường thương đánh một trận long trời lở đất với... Tiết Đinh San. Loạn xà ngầu. Dã sử của Trung Quốc bị nhồi trộn lung tung, theo kiểu nhồi đủ thứ để làm nhân thập cẩm của bánh trung thu.
Các cụ chịu hết nổi phải thét lên. Một cụ vùng đứng lên. Bọn con nít ùa bỏ chạy khi thấy cụ vớ chiếc guốc cầm lăm lăm trong tay.
Có nhiều lúc, trại giam quá tải. Chỗ nằm trên bệ xi măng và dưới đường đi đều chật hết. Phải treo võng từ bên này sang bên kia.
Lúc bấy giờ, trại còn là vách ván, có thể dùi bất cứ chỗ nào để xỏ dây võng qua. Thỉnh thoảng, có người cạy ván chui ra để vượt ngục. Nếu băng qua được hàng rào mấy lớp kẽm gai, lọt ra bên ngoài thì thoát. Nếu không thoát được thì bị bắt trả lại cho PSE tức là Police Spéciale de l'Est (Cảnh sát Đặc biệt Miền Đông), trụ sở tại bót Catinat rất nổi tiếng.
Vì là vách ván nên giăng võng rất dễ dàng. Lúc đầu, võng giăng một tầng, kín từ đầu đến cuối trại. Vẫn chưa đủ chỗ ngủ nên giăng thêm tầng thứ hai, rồi tầng thứ ba. Hết, vì tầng thứ ba là gần đụng mái nhà rồi. Nằm bên dưới nhìn lên ba tầng võng, lúc đầu cũng ớn lắm. Cứ nghĩ, tầng cao nhất bị đứt, rơi xuống làm hai tầng dưới đứt theo thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho người nằm trên bệ xi măng.
Tất cả các cụ già đều nằm dưới cùng vì không dám leo cao. Chín giờ rưỡi đêm, khi đèn chớp ba cái, tất cả đều phải im lặng và bắt đầu ngủ. Đám trẻ vô tư thường ngủ trước, các cụ vẫn thao thức. Vài cụ len lén mở nắp lon Guigoz chứa thức ăn do gia đình tiếp tế. Các cụ im lặng nhâm nhi, vừa ăn, vừa mơ tưởng đến mái ấm gia đình.
Bỗng một cụ, quờ quạng thế nào để cho một cái lon rơi xuống, đánh «cảng» một tiếng to, thức ăn đổ tung tóe. Bọn con nít đồng loạt la to: «mèo, mèo», theo kiểu nhà quê đuổi mèo ăn vụng. Sẵn bực mình vì lon thức ăn bị đổ, dơ cả chỗ ngủ, lại bị mấy đứa con nít hỗn láo gọi là mèo ăn vụng, cụ không dằn dược, quát to:
- Mèo cái mồ tổ cha tụi bây chớ mèo.
Thế là cả trăm tiếng cười vang lên một lúc. Một anh nằm ở tầng ba cười hăng quá làm võng đứt. Rầm, rầm, hai cái dưới đứt theo, cái trại vách ván rung rinh như bị động đất. Nhiều anh trên các võng khác hét tướng lên, phóng xuống đất. Người nằm dưới cùng bị đạp đau vùng dậy la ỏm tỏi. Cả trại, từ đầu đến cuối đều náo loạn.
Từ văn phòng của nhà tù, viên giám thị trực kéo còi báo động. Lính chạy rầm rập, kẻng các vọng gác đánh liên hồi để thị uy. Tù nổi loạn rồi! Tù nổi loạn rồi!
Lách cách, lách cách, tiếng lên cò súng ngay trước cửa trại. Rẻng, rẻng, tiếng ổ khóa khua. Rồi im lặng, căng thẳng, hồi hộp... Thình lình, cánh cửa nặng nề mở ra, mấy họng súng đen ngòm và nhiều đèn bấm chói mắt chĩa thẳng vào.
Có tiếng thét ra lệnh: «Tập họp điểm danh». Mọi người vùng dậy tức thì, mở võng, cuốn chiếu. Loáng một cái, trại trống trơn phía trên cao, chỉ còn lố nhố người bên dưới.
Tù nhân nhanh chóng ngồi vào hàng.
«Một, hai, ba...», người trước đưa một tay khỏi đầu đếm xong đến người sau. Người cuối hàng hô «hết» để hàng kế bên bắt đầu. Hàng bên trái xong đến hàng bên phải. Đủ cả, không thiếu người nào và chẳng có ai bị thương. May quá.
Cánh cửa trại lạnh lùng đóng lại, tiếng ống khóa rổn rảng. Tù nhân lại trải chiếu mắc võng trong im lặng. Các cụ nằm xuống thở dài, còn bọn con nít nhìn nhau, nhe răng ra mà không dám cười thành tiếng.
Đó, bọn con nít phá phách nghịch ngợm như thế, nhưng bỗng một hôm trở thành những ông thầy dạy học, thực là lạ lùng! Câu chuyện đầu đuôi thế nầy:
Do đề nghị của đại diện tù, giám đốc nhà giam cho phép các trại tổ chức học văn hóa, từ lớp bình dân học vụ cho đến cuối bậc tiểu học. Tất cả bọn học sinh con nít chúng tôi đều được mời vào ban giảng huấn, đứa nào cũng hí hửng vì sắp được «làm thầy». Đứng đầu ban giảng huấn là một giáo sư trung học tư thục ngoài đời. Đó là ông thầy thực sự, còn lại là toàn bộ bọn con nít chúng tôi.
Chúng tôi họp bàn rất sôi nổi. Chúng tôi quyết định đồng loạt khai giảng với toàn bộ năm lớp bậc tiểu học, căn cứ theo chương trình của bộ giáo đục bên ngoài, tuy nhiên môn học thì có phần uyển chuyển. Ngoại trừ lớp chống mù chữ ra, còn lại thì toán và quốc văn là hai môn bắt buộc, các môn khác thì tùy nghi, ai thích môn gì, cứ dạy môn đó. Giấy bút thì gởi tiền cho giám thị mua thoải mái, bao nhiêu cũng được, ai không có tiền thì những người khác hùn lại cho.
Môn toán và các môn khoa học tự nhiên khác thì rất ổn thỏa vì sách giáo khoa từ ngoài đưa vào khá dồi dào và đều dùng được cả. Riêng môn quốc văn thì gặp khó khăn. Sách giáo khoa bị hạn chế, một phần vì ban giám đốc nhà tù lười kiểm duyệt, lại sợ mấy tờ đầu là giáo khoa thiệt, nhưng một số tờ bên trong là tài liệu cấm. Mặt khác, các bài giảng ở sách giáo khoa tiểu học thì đều soạn cho trẻ em, không phù hợp tí nào với các lớp ở đây, gồm các học viện đáng tuổi cha, chú, bác, ông nội, ông ngoại của học sinh tiểu học ngoài đời.
Tuy nhiên, mọi việc cũng tạm thông qua. Ban giảng huấn con nít lúc đầu giành nhau dạy toán, về sau cũng biết nhường nhịn nhau để rải đều giảng viên cho các lớp và các môn học.
Mỗi khóa học là bốn tháng. Cuối khóa, có kỳ thi lên lớp; học đàng hoàng thì mỗi năm lên được ba lớp, học không đàng hoàng thì ở lại lớp. Lớp học được tiến hành vào ban đêm vì ban ngày mọi người phải lao động. Mỗi đêm học từ sáu giờ đến gần chín giờ, sau đó là giờ giới nghiêm tức là giờ ngủ của tù nhân. Mỗi tuần lễ học sáu đêm, thứ sau nghỉ đề liên hoan vì đó là ngày thăm nuôi, tù nhân nhận được đồ tiếp tế của gia đình.
Hầu hết trại viên đều ghi tên vào các lớp. Các cụ quá già thì không ghi tên, nhưng về sau thấy các lớp học cũng vui nên hầu hết các cụ theo dự thính, sĩ số thường xuyên xấp xỉ một trăm phần trăm!
Có năm lớp ở năm vị trí cách đều trên suốt bề dọc của trại. Trên nền dùng làm chỗ ngủ, học viên và thầy giáo ngồi thành vòng tròn. Khoảng trống ở giữa là nền xi măng làm bảng đen dùng cho giảng viên viết phấn để giảng bài.
Học trò gọi thầy là em hay cháu. Thầy giáo gọi học trò là anh, chú, bác hay ông, tùy người. Có nhiều trò gọi thầy là mày và xưng là tao. Tuy nhiên, mọi người đều có thái độ khá nghiêm túc trong việc dạy và học.
Các môn khoa học thì ổn cả, học viên chăm chỉ và tiến bộ rõ rệt. Hầu hết bỏ giấc ngủ trưa để làm bài tập. Có người thức dậy sớm để làm bài, có người vừa ăn cơm về là lập tức lôi tập ra học. Không khí sinh hoạt trong trại biến đổi hoàn toàn. Không còn những tiếng cười đùa ầm ĩ; các bàn cờ tướng tập thể ồn ào bị dẹp bỏ. Giảng viên rất phấn khởi, soạn bài thực kỹ lưỡng. Học viên thì chăm học, một phần vì hiếu học, một phần vì muốn tránh sự phê bình của mấy ông thầy con nít.
Trong giờ học, học viên chăm chú nghe giảng và tích cực phát biểu ý kiến. Chính sự nhiệt tình đó làm cho hầu hết các giờ quốc văn bị vỡ ngay sau tuần lễ đầu tiên. Nguyên nhân là thế nầy:
Học viên đã lớn tuổi, đa số là cán bộ, tuy trình độ văn hóa chính quy thấp nhưng ăn nói lý luận thì khiếp lắm. Thầy trò cứ cãi nhau như mổ bò và luôn luôn thầy cãi thua trò. Cãi thua thì thầy giận bỏ đi nằm nhắm mắt lại không dạy nữa. Có hôm tức quá không chịu nổi, thầy khóc bù lu bù loa làm các trò phải xúm nhau lại dỗ.
Rất may, từ đầu tôi được phân công dạy toán và địa lý thế giới ở lớp lớn nhất nên các giờ học tiến hành đều đặn không có gì rắc rối. Ông giáo sư tư thục dạy môn quốc văn ở lớp ba, nên chỉ ở lớp nầy, giờ quốc văn được xúc tiến tốt đẹp. Tuy nhiên, ông phải kiêm nhiệm trưởng ban giảng huấn nên đêm nào cũng phải bỏ lớp lo giải quyết việc các thầy dạy văn khác giận bỏ đi ngủ hay ngồi khóc rưng rức. Ông giáo sư tỏ ra hết sức lo lắng vì ông là trưởng ban giảng huấn lại là một thành viên trong ban lãnh đạo bí mật của trại, tôi đoán thế.
Tôi cũng rất lo lắng vì sợ vì phong trào học tập ngưng lại, «mất dạy» cũng buồn. Vì thích dạy nên trong các cuộc họp, tôi tích cực đóng góp ý kiến và được mọi người chú ý, nhất là ông giáo sư trưởng ban.
Buổi trưa cuối tuần, ông gọi riêng tôi ra sau hè để bàn bạc. Chúng tôi đi đến quyết định là hai chúng tôi nhận tất cả giờ quốc văn của các lớp, ngoại trừ lớp vỡ lòng mới học ABC nên chưa có gì để cãi cọ. Tôi chịu nhận hai lớp trên (lớp nhì và lớp nhất), ông giáo sư hai lớp dưới (lớp bà và lớp tư). Buổi chiều, ban giảng huấn họp lại để thông báo quyết định. Ngoài tôi ra, mọi thầy con nít khác đều dạy khoa học tự nhiên. Với quyết định này, giảng viên và học viên đều hoan hỉ. Về phần mình, tôi mất ngủ đêm đó vì lo lắng và vì suy nghĩ tính toán cho nhiệm vụ mới của mình.
Tôi biết chắc, soạn theo sách giáo khoa của trẻ em thì không phù hợp với người lớn; những câu hỏi soạn cho trẻ nhỏ, học viên sẽ phát biểu theo tính cách của người lớn thì giáo án bị vỡ là điều đương nhiên. Chính các bạn nhỏ của tôi đã vấp phải điều nầy. Những câu giải đáp của họ thực đúng với sách giáo khoa đã bị mấy ông học trò già mồm cãi băng, cho đến khi thầy bật khóc mới thôi. Vả lại, các bài văn (texte) của sách trẻ em có nội dung quá ấu trĩ nên không gây được hứng thú và nhiều khi đọc lên nghe thực buồn cười. Thí dụ, trong một bài học ở sách giáo khoa có câu hỏi: «Khi ăn xong, các em phải làm gì?». Với các cán bộ đã lõi đời, hỏi họ như thế, họ không đập cho là may.
Suốt đêm, tôi suy nghĩ thực nhiều và đến khuya, tôi đi đến một quyết định rất táo bạo là dẹp sách giáo khoa và tự tôi làm lấy hoàn toàn, kẻ cả «sáng tác» các bài văn.
Sáng hôm sau, tôi trình bày quyết định trên với ông giáo sư. Ông rất ngạc nhiên nhưng cuối cùng đồng ý và chân thành khuyến khích tôi. Tuy nhiên, ông cũng không tin lắm vào khả năng của tôi nên nói thêm:
- Em cứ làm thử một hai tuần xem sao rồi sẽ tính.
Thế là tôi lao vào công việc với tất cả lòng hăng hái của tuổi mới lớn lên.
Khó nhất là có một bài văn cho phù hợp. Khi đã có bài văn rồi thì sẽ soạn các tiết mục tiếp theo là: đại ý, dàn bài, phân tích từ ngữ và văn phạm, và cuối cùng đánh giá hình thức, nội dung. Các tiết mục tiếp theo nầy thì không khó lắm vì trong bao nhiêu năm ở trung học, tôi đã soạn hàng tuần các phần nầy theo sự hướng dẫn của giáo sư. Dạo đó soạn bằng tiếng Pháp, nay soạn bằng tiếng Việt, có lẽ cũng được, vì dù sao tôi cũng là người Việt Nam chính cống.
Vậy, việc khó nhất là tự sáng tác một bài văn trong hoàn cảnh không có bất cứ một tài liệu nghiên cứu nào trong tay. Cũng may, lúc đó, tôi còn quá trẻ, có gan làm liều, chứ lớn tuổi hơn, như bây giờ chẳng hạn, chắc chắn tôi không dám nghĩ đến điều đó.
Tôi bắt đầu công việc với một sự hứng thú lạ lùng. Chiều nay tôi phải dạy buổi đầu tiên và nhất định phải thành công. Nội ngày hôm nay tôi phải sáng tác cho xong một bài văn và soạn những tiết mục nói trên đây. Tôi phải làm công việc nầy dưới bếp vì tôi là tù nên không được bỏ công việc đã được chỉ định với bất cứ lý do gì, kể cả bị bệnh.
Tôi cần nói thêm cho độc giả rõ, nhiệm vụ hàng ngày của tôi. Đó là việc làm ở bếp tập thể, chung lo ba bữa ăn cho hơn một ngàn tù nhân. Mỗi ngày, nhà bếp tiêu thụ một luồng nước rất lớn, được lấy lên từ một giếng sâu. Nhóm lấy nước gồm sáu người: tôi và năm người khác cùng trại. Nhóm chia thành hai toán ba người, hai người kéo thùng nước lên bằng một sợi dây choàng qua một ròng rọc; người thứ ba đứng trên miệng giếng chụp thùng để đổ nước vào bể chứa. Hai toán liên tục luân phiên từ sáng sớm đến chiều tối.
Cứ trong phiên là tôi suy nghĩ và hết phiên là tôi lấy giấy bút ra ghi ngày. Làm việc trong điều kiện khó khăn như thế mà tôi cũng hoàn tất bài soạn trước bữa cơm chiều.
Sau khi tập họp điểm danh xong, giám thị đóng cửa bấm khóa bên ngoài là bên trong các lớp học bắt đầu. Tôi «lên lớp» với tâm trạng vừa hồi hộp, vừa lo lắng lại vừa háo hức. Lúc đầu, hình như tôi ăn nói hơi ấp úng, nhưng nhìn thấy học viên chăm chỉ nghe nên dần dần tôi lấy lại bình tĩnh và lòng hăng say, giảng bài một cách trôi chảy nên buổi học kết thúc tốt đẹp.
Tôi đã thành công! Hết giờ, học viên tỏ ý hài lòng, điều đó làm cho tôi vui sướng tột cùng. Đêm đó tôi lại mất ngủ, không phải vì lo lắng nữa mà vì hạnh phúc.
Tôi rất phấn khởi nên những ngày tiếp theo, năng suất trí tuệ của tôi rất cao, kho dự trữ bài soạn của tôi tăng dần, không bị cái cảnh sáng soạn cấp tốc để chiều tối lên lớp nữa.
Tuy nhiên, tôi không phải là văn sĩ chuyên nghiệp để có thể sáng tác liên tục. Tôi cố nhớ lại những bài học thuộc lòng trước đây khi còn đi học ngoài đời. Đó là những bài bằng tiếng Pháp, tôi dịch thoát ý sang tiếng Việt. Văn xuôi thì của các tác giả lãng mạn như Alphonse Daudet, Anatole France, George Sand v.v...
«Tôi kể cho anh nghe, những gì hằng năm gợi nhớ cho tôi, bầu trời lay động mùa thu...» (Je vous raconte ce que me rappellent tous les ans, le ciel agité d'automne... - Anatole France-).
Văn vần thì có thơ của Lamartine, Ronsard, Alfred de Vigny, Alfred de Musset v.v...
«Tiểu thư, nhìn đóa hoa hồng,
Sáng nay hé nở chào mừng bình minh.»
(Mignonne, allons voir la rose
Qui, ce matin, était déclose. - Ronsard)
Tôi cũng dùng cả những bài văn Việt ngữ của Tự lực Văn đoàn, Thanh Tịnh, Hà Mai Anh, những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, Tú Xương, Xuân Diệu v.v... Những tác phẩm Việt văn phần nhiều tôi không nhớ hết vì chỉ đọc do thích thú chứ không như những bài học thuộc lòng bằng Pháp ngữ của chương trình học trước đây của tôi. Vì vậy, các tác phẩm tiếng Việt nầy thì dẫy đầy những chỗ thiếu sót vì... quên. Những chỗ đó, tôi tự đắp vào cho đủ. Thành ra, bài văn, bài thơ như chiếc áo vá. Chiếc áo lành do các văn nhân thi sĩ làm ra từ đầu đẹp đẽ biết bao, rơi vào tay tôi trở thành áo rách lỗ chỗ và được đắp lại bằng những miếng vá tùm lum.
Thế mà, học viên rất chịu. Những bài sáng tác của tôi và những chiếc áo vá, tuy không có giá trị gì về văn chương nhưng chúng đã được hình thành bằng tất cả chân tình và tâm hồn của tôi. Tất nhiên tâm hồn của tôi và của học viên rất gần gũi và rất dễ truyền cảm cho nhau trong cảnh cá chậu chim lồng mà chúng tôi cùng chia sẻ. Chính vì vậy mà học viên chấp nhận bài văn và bài soạn của tôi. Đặc biệt, trong những bài sáng tác, tôi lấy khung cảnh thôn làng của đồng bằng Cửu Long mà tôi đã được sống trước đây, một vài hình ảnh nhẹ nhàng của cuộc kháng chiến chống Pháp mà tôi có tham dự. Điều đó làm cho học viên ưa thích.
Trong những giờ học với tôi, học viên vẫn giữ tính hay cãi. Người nầy đưa ý kiến rồi người khác phản bác. Rất nhiều lần tôi để họ tranh luận sôi nổi với nhau. Tôi ngồi nghe một cách chăm chỉ rồi kết luận một cách thực công bình. Họ thảo luận rất nhiệt tình, có khi đi đến chỗ đề nghị sửa đổi một đoạn trong bài văn. Dĩ nhiên là tôi sẵn sàng đáp ứng ngay vì bài văn chính là sản phẩm của tôi hoặc là miếng vá mà tôi đắp vào sản phẩm của người khác, cho nên sửa đổi hay không là quyền của tôi. Vì vậy, lớp học rất thoải mái và phát huy tối đa tính tích cực của học viên.
Kết quả của các lớp học rất khả quan. Cuối mỗi khóa đều có kiểm tra nghiêm túc và phát thưởng đàng hoàng. Qua mấy khóa, nhiều người đạt trình độ cuối bậc tiểu học.
Hứng chí, thừa thắng xông lên, chúng tôi bàn với nhau chuẩn bị mở thêm lớp đệ thất, bậc trung học, cho những người đã học xong tiểu học thì nổ ra một cuộc đấu tranh của tù nhân vì một lý do chính trị nên các lớp bị dẹp bỏ vĩnh viễn. Thực đáng tiếc!
Trong số học viên có một người rất chăm học, lớn hơn tôi vài tuổi, cùng trong nhóm kéo nước giếng ở nhà bếp. Tôi rất thích anh vì tính anh hiền lành và ca vọng cổ rất hay. Lúc nhỏ, anh chỉ được đến trường một vài năm vì gia đình rất nghèo lại sớm theo kháng chiến và bị bắt ở tù. Anh rất thông minh, học tiến bộ, lên lớp đều đều. Nhiều năm sau khi ra tù, tôi đang học năm cuối ở Đại học Sư phạm thì một hôm tình cờ gặp lại anh ở Sài Gòn, trên đại lộ Lê Lợi. Anh ôm tôi và nói với tôi một cách mừng rỡ:
- Trời ơi, mày là thằng Phá phải không?
Tôi gật đầu. Anh kéo tôi vào tiệm kem Mai Hương ở gần đó. Sau vài câu thăm hỏi, anh nói với giọng vừa phấn khởi, vừa nghẹn ngào:
- Bây giờ tao là soạn giả cải lương ăn khách lắm. Nhờ học với mày trong tù, tao có căn bản, ra tù tiếp tục học trung học nên mới được như ngày nay.
Anh nhất định rủ tôi về nhà ở chơi với anh một đêm. Sáng ra, khi từ giã, anh còn ôm tôi thủ thỉ:
- Mọi chuyện khởi đầu từ những bài học của mày. Tao còn nhớ rõ những lớp học dưới ánh đèn tù mù của trại giam, tao còn nhớ rõ giọng giảng bài của mày. Những giờ phút đó đau thương nhưng đẹp vô ngần.
Tôi cảm động siết tay anh, không ngờ ngày ấy mình đã làm được việc đến thế. Cho đến ngày nay, sau bao nhiêu năm dạy học, nhận được nhiều bằng khen, tôi vẫn không quên được những buổi dạy trong tù của tôi. Công việc càng khó khăn thì càng in đậm nét trong ký ức của mình. Tôi cũng thường đối chiếu những hoàn cảnh giáo dục khác nhau trên đất nước.
Khi lo cho nền giáo dục, người ta luôn chú ý đến ba việc và khi hoàn tất thì coi như xong nhiệm vụ. Thứ nhất là trường sở, thứ hai là sách giáo khoa, thứ ba là có đủ thầy cô được đào tạo chính quy và thường xuyên được tu nghiệp để củng cố và hiện đại hóa kiến thức. Với những lớp dạy trong tù mà tôi vừa kể thì cả ba điều kiện trên đều là số không mà việc học vẫn thành công ở một mức độ nào đó. Còn ngày nay, ở nhiều tỉnh thành, cả ba điều kiện trên đều đạt điểm mười mà nền giáo dục vẫn đi xuống một cách đáng lo ngại. Tại sao vậy? Theo tôi, còn một yếu tố thứ tư mà người ta không dám nói đến vì không có biện pháp giải quyết. Đó là lòng say mê nghề nghiệp của những người đứng lớp. Yếu tố nầy lại là then chốt. Quả thực, trong những lớp học trong tù, tôi đã lao vào với tất cả đam mê và tinh thần trách nhiệm, nhờ đó mà bù đắp những khiếm khuyết khác.
Ngày nay, còn nhiều thầy cô khi được hỏi lý do chọn nghề dạy học thì sẵn sàng trả lời rằng vì chẳng biết làm nghề gì khác và khi có dịp thì họ sẽ bỏ nghề ngay lập tức. Nghe trả lời như thế, tôi rất buồn phiền và không biết nói gì hơn với các thầy cô hiện đang đứng lớp.