← Quay lại trang sách

HƯ CHIÊU VÀ THỰC CHIÊU

Tôi xin kể tiếp ưu tiên thứ hai, việc chỉnh đốn nề nếp học đường của tôi.

Ở miền Nam, trước 1975, có một nguyên tắc hành chánh rất chặt chẽ. Bất cứ hồ sơ nào có chứng chỉ học trình hay giấy chứng nhận quan trọng đều được nơi nhận gửi bằng văn thư 'mật' về cơ quan cấp phát. Cơ quan nầy xác nhận thật hay giả rồi gởi trả lại, cũng bằng văn thư 'mật'.

Chứng chỉ học trình là một giấy tờ quan trọng. Nó dùng để xin việc làm, thi vào các trường chuyên nghiệp hay dạy nghề. Quan trọng hơn, nó còn dùng để xin hoãn dịch, vấn đề sinh tử ở thời chiến.

Khi tôi mới về trường để đứng lớp, tôi đã nhiều lần thấy các cô nhân viên văn phòng rất khổ cực khi phải xác nhận một chứng chỉ học trình. Từ nhiều năm rồi, hồ sơ học sinh chất đống lộn xộn trong mấy cái tủ khổng lồ, mỗi năm một nhiều thêm. Sổ cái để lưu thì quá sơ sài và thiếu sót, không đủ để tham khảo. Hồ sơ chi tiết thì không được phân loại nên xác nhận được một chứng chỉ mất rất nhiều thì giờ, có khi cả ngày lục lọi vẫn không tìm ra. Nếu không xác nhận được thì kết quả chắc chắn sẽ rất bi đất đối với học sinh cũ của trường.

Do đó, công việc của tôi là phải sắp xếp lại đống hồ sơ hỗn độn đó. Trường rất thiếu thốn nhân viên nên phòng Giám học chỉ có một thư ký. Rất may, thư ký đó là một chị thông mình, cần mẫn, ngăn nắp.

Tôi và chị làm việc suốt nhiều tháng ròng rã: tuôn tất cả học bạ ra, kiểm tra lại có đủ chữ ký và con dấu chưa, xếp lại cho từng em; mỗi em có bảy học bạ nếu học liên tục từ lớp sáu cho đến lớp mười hai, hoặc ít hơn nếu bỏ học nửa chừng. Mỗi học bạ đều được cấp một chứng chỉ. Lập cho mỗi em một phiếu dày ghi tất cả các chi tiết cần thiết của học bạ. Phiếu đó là hồ sơ gốc. Các học bạ đều trả lại cho học sinh. Các em đang học thì gởi thẳng lên văn phòng để nhận. Học sinh cũ đã rời trường thì nhờ chi Thông tin Thủ Đức phát thanh để thông báo.

Công việc được xúc tiến suôn sẻ một thời gian khá dài thì có một người lạ mặt đến xin gặp tôi. Không chút dè dặt, anh ta giới thiệu luôn là dân áp phe chuyên nghiệp, chuyên cung cấp các chứng chỉ giả cho các hồ sơ về quân dịch.

Ở chế độ cũ, nếu có chứng chỉ lớp chín, lớp mười thì học trường Hạ sĩ quan ra trung sĩ, có chứng chỉ lớp mười một thì học Liên trường Võ khoa Thủ Đức ra thiếu úy bảo an, không có gì cả thì làm binh nhì. Chứng chỉ lớp mười một đang học thì được hoãn dịch một năm.

Anh chàng nầy quả thực là chuyên nghiệp. Anh thấy đây là áp phe cực kỳ quý giá và hiếm có vì dễ gì tìm được một trường trung học lập lại hồ sơ gốc trong nhiều năm trước cho học sinh. Chứng chỉ giả mà có hồ sơ gốc thì biến thành thứ thiệt, hoàn toàn hợp lệ; thứ nầy rất cao giá.

Là dân áp phe chuyên nghiệp nên anh vào đề ngay: mỗi chứng chỉ, bất cứ loại nào cũng tính cho tôi một trăm ngàn đồng, tương đương với hai lượng vàng. Nếu tôi bằng lòng, anh ta sẽ đặt ngay từ năm mươi đến một trăm cái, trả tiền trước một phần ba, nhận hàng xong trả nốt, rồi đặt đợt khác.

Ngạc nhiên và tò mò, tôi cứ để cho anh ta nói. Anh hạ giọng và tiếp tục ba hoa:

- Tôi có đường dây rất lớn. Nếu ông giám học chịu vào thì có thể được đặt hàng từ vài trăm đến một ngàn cái.

Tôi cho rằng anh nầy là dân áp phe thứ thiệt nhưng con số anh ta đưa ra quá lớn nên tôi chẳng biết anh ta nói thực hay lòe để dụ tôi hợp tác. Sự dụ dỗ của anh ta thực độc địa vì tôi có thể thu lợi hàng ngàn lượng vàng chứ có phải ít đâu. Mà đâu phải là điều phi lý hay lường gạt. Tôi biết chắc, dụ được tôi và trả tiền cho tôi sòng phẳng, anh ta cũng còn lời nhiều vô số kể. Con nhà giàu có thể bỏ ra hơn một chục lượng vàng để được hoãn dịch hoặc đi học trường sĩ quan khi không thoát được quân dịch; đó là chuyện thường tình. Do đó, nếu phải bỏ ra hai lượng vàng để mua một chứng chỉ hợp lệ, chắc chắn anh ta sẵn lòng. Đối với tôi, một nhà giáo nghèo, chưa sắm nổi một mái nhà riêng, lời đề nghị của anh ta quả thực là hết sức hấp dẫn và việc thực hiện nằm trong tầm tay của tôi. Vì vậy, nếu cứ để anh ta tiếp tục dụ dỗ, có thể tôi sẽ sa ngã mất. Do đó, tôi đứng dậy chìa bàn tay phải ra và nói:

- Thôi, ông nên đi chỗ khác mà tìm áp phe đi. Tôi nghèo thực nhưng mối lợi mà ông vừa nói chưa đủ để mua cái lương tâm của tôi đâu.

Câu nói quá lịch sự đó của anh thầy giáo làm anh ta hiểu lầm là tôi đòi thêm nên mắt sáng lên:

- Thế ông giám học muốn thế nào?

Bỗng nhiên cơn giận bùng lên một cách đột ngột, tôi gằn giọng:

- Muốn thế nào hả? Muốn kêu cảnh sát đến còng tay ông.

Anh ta cười gượng, nhìn quanh rồi đứng dậy đi ra. Tôi chẳng thèm nhìn theo, cúi xuống với công việc đang bừa bộn. Tôi đang bận rộn và anh ta đã làm mất thì giờ quý báu của tôi. Tôi chúi mũi vào đống hồ sơ nhưng cảm thấy trí óc không còn thảnh thơi nữa. Nghĩ đến món lợi quá lớn, nghĩ đến cuộc sống thanh bần của vợ con, tôi cảm thấy lương tâm mình có vẻ không chịu ở yên trong cái vỏ bọc của nhà giáo nữa.

Tôi bước ra sân, đi một vòng, nhìn vào các lớp, trông thấy những mái đầu xanh cắm cúi trên trang sách giáo khoa, trông thấy những đôi mắt thơ ngây và trong sáng chăm chú nhìn thầy cô giảng bài, tôi thấy mình không thể nào có hành động phản bội lại những hình ảnh cực kỳ tôn quý đó. Thế là cái lương tâm nhà giáo mỉm cười trong lòng tôi.

Tôi trở về văn phòng với bước chân thực nhẹ nhàng. Tôi ngồi vào bàn và sực nhớ lại, khi nãy, trước khi ra khỏi phòng, anh chàng áp phe có nhìn quanh. Điều đó làm tôi nhớ chuyện Tây du ký mà tôi đã đọc hơn một lần lúc còn bé. «Bồ Đề Tổ sư muốn dạy phép riêng cho Tôn Ngộ Không nhưng không muốn cho ai hay biết. Giữa đám đồ đệ, tiên sinh gõ lên đầu con khỉ già ba cái. Hiểu ý, con khỉ đợi đến canh ba thanh vắng mới đến yết kiến và học được 72 phép để về sau đại náo thiên cung».

Tôi đoán anh ta sẽ đến nhà riêng của tôi là nơi thanh vắng. Vì thế, trưa về, tôi dặn người nhà là nếu có ai hỏi tên tôi thì mời vào còn ai hỏi ông giám học thì bảo qua văn phòng gặp trong giờ hành chánh. Từ giữa trưa hôm đó, tôi bận việc đi Sài Gòn đến tối mịt mới về. Bước vào nhà, tôi nghe nói, khi nãy, khoảng sáu giờ chiều, có người đến tìm tôi. Theo lời người nhà mô tả nhân dạng thì đúng là anh chàng áp phe chuyên nghiệp đó.

Chuyện xảy ra như thế làm tôi rất lo lắng. Tôi đã quá căng thẳng và mệt mỏi vì nhiệm vụ hàng ngày. Anh hiệu trưởng thường hay đau ốm phải đi nằm bệnh viện, một mình tôi phải tả xung hữu đột. Tôi đã bỏ bớt nhiều giờ dạy thêm ở trường tư nên thu nhập của gia đình sụt giảm, sự chi tiêu phải hết sức dè sẻn. Trong những ngày rất bận rộn vì công việc và lo lắng cho sự sống, tôi biết mình sẽ không thể nào chịu đựng nổi nếu bị dây dưa vào vụ chứng chỉ giả dù tôi đã thẳng tay xua đuổi anh chàng áp phe. Tôi cần phải giữ sự an lành để hoàn thành công việc cho đến ngày được giải nhiệm. Tôi âu lo vì hiểu rằng kẻ gian có lắm mưu mô, không chắc gì đã bỏ cuộc. Tôi tin sự ngay thẳng của các nhân viên phòng Học sinh vụ (tức phòng Tổng giám thị) và phòng Học vụ (tức phòng Giám học) nhưng dù sao đề phòng cẩn mật vẫn hơn. Tôi muốn ngày tôi nhận được giấy từ nhiệm đúng theo nguyện vọng, tôi sẽ ngẩng cao đầu bàn giao công việc cho người khác một cách ung dung tự tại, và thanh thản trở về với nhiệm vụ đứng lớp của mình. Liệu có được như vậy hay không?

Tôi đã suy nghĩ nhiều ngày đêm và để tìm được biện pháp, tuy hơi trễ. Tôi xin kể câu chuyện sau đây để chứng mình biện pháp của tôi cũng có phần hữu hiệu.

Sau khi tôi hoàn tất việc sắp xếp hồ sơ học sinh khá lâu thì một hôm, cô nhân viên phòng Học sinh vụ mang qua cho tôi một chứng chỉ lớp mười hại do một nơi khác gởi đến xin xác nhận. Cô nói với tôi, giọng có vẻ cộc lốc, khác mọi ngày:

- Ông giám học xem có phải chữ ký của ông hay không?

Tôi nhìn kỹ và trả lời:

- Đúng, chữ ký của tôi.

Cô nhìn xoáy vào mắt tôi, nghiêm giọng nói:

- Không có trong hồ sơ gốc!

Tôi giật mình, nhìn kỹ sáu số thứ tự trên đầu tờ chứng chỉ và trả lời:

- Em nầy học lớp Mười A3 chứ không phải lớp Mười hai A3, cô về truy lại hồ sơ gốc đi.

Cô nhìn tôi, vẻ mặt vừa ngạc nhiên, vừa hoang mang. Tôi cười, lấy ngón tay chỉ vào số 12A3 và bảo:

- Xem kỹ chỗ nầy. Nếu cần, xuống phòng thí nghiệm mượn kính lúp trông rõ hơn.

Một lát sau, cô trở lại, vẻ mặt cùng nụ cười đầy thiện cảm. Cô nói với tôi với nét vui vẻ và lễ phép hơn hẳn lần trước.

- Thưa ông giám học, chứng chỉ bị cạo sửa hết sức tinh vi. Số 10 thành số 12. Tôi và anh tổng giám thị phải dùng kính lúp mới nhận ra được. Em nầy có tên trong sổ gốc, lớp 10A3. Mà sao ông Giám học mới nhìn qua lại biết ngay?

Tôi cười, không trả lời. Cô hỏi tiếp:

- Bây giờ làm sao?

- Cô viết công văn phúc đáp cho nơi nhận hồ sơ biết chứng chỉ đã bị cạo sửa. Thế thôi. Không làm gì thêm nữa, mất thì giờ của mình. Mặc kệ, họ muốn làm gì thì làm.

Cô ra khỏi phòng. Tôi biết cô vẫn còn thắc mắc. «Tại sao ông giám học biết?». Tôi đã im lặng để bảo vệ bí mật nghề nghiệp. Hôm nay thì chẳng cần phải bảo vệ nữa. Bí mật đó thế nầy:

Khi ký tên, tôi dùng màu mực trong lạ mắt, làm cho mọi người cho rằng đó là màu mực đặc chế riêng của ông giám học để phòng ngừa giả mạo chữ ký. Thực ra, chẳng có đặc chế gì cả. Tôi mua một bình mực xanh đổ chung với bình mực đỏ, xong hút vào bút máy dùng ký tên. Mọi người chỉ chú ý vào màu mực, tôi yên tâm vì đó chỉ là «hư chiêu».

Đó là hư chiêu vì, nếu chỉ căn cứ vào màu mực để bảo vệ chữ ký của mình thì thực là ấu trĩ. Kẻ gian có thể làm bạc giả với màu sắc vô cùng phức tạp thì màu mực của tôi có nghĩa lý gì. Chữ ký của tôi lại rất đơn giản nên kẻ gian chỉ cần bỏ ra vài ngày tập ký vài ngàn lần thì đến ngay tôi cũng không phân biệt được thực giả. Vì vậy, màu mực chỉ là hư chiêu; còn thực chiêu là gì?

Tôi ra ba chiêu liên tiếp.

Chiêu thứ nhất là ghép chặt hai con dấu «Giám học» và «tên tôi» vào nhau, ở giữa có một khoảng trống dành cho chữ ký. Thông thường, hái con dấu «chức vụ» và «tên giới chức» rời nhau, đóng hai lần trên và dưới chữ ký nên khoảng cách thay đổi tùy tờ giấy. Ở tờ giấy do tôi ký, khoảng cách nầy cố định, nhìn vào dễ biết. Nếu cần thì lấy thước mà đo để xác nhận. Chiêu nầy chỉ làm cho tôi an tâm độ ba mươi phần trăm mà thôi.

Chiêu thứ hai: Giấy tờ đưa tôi ký thì trước đó, nhân viên phải đóng dấu chức vụ và họ tên, ghi ngày cấp phát. Nếu cấp phát ngày mồng một của tháng thì tôi chấm vào ngay dưới mẫu tự 'G' của chữ 'GIÁM HỌC' và bắt đầu ký. Nếu là ngày hai của tháng thì chấm vào đuôi chữ 'I' mà ký; ngày ba thì dưới chữ 'A', vân vân... Thế là an toàn đến 99,5 phần trăm, còn lại 0,5 phần trăm là do ngẫu nhiên không đáng kể. Đó là thí dụ giản dị hóa cho dễ hiểu còn chính xác thì hơi phức tạp hơn vì chữ GIÁM HỌC chỉ có bảy mẫu tự còn một tháng có đến ba mươi hoặc ba mươi mốt ngày.

Hai chiêu trên giúp tôi nhận ra ngay chữ ký thực sự của tôi trong chứng chỉ mà cô T đưa qua. Còn tại sao tôi biết ngay chứng chỉ bị cạo sửa, lớp 10A3 thành lớp 12A3, thì đó là do chiêu cuối cùng sau đây.

Cái máy mà tôi dùng để đánh số thứ tự trên chứng chỉ, mỗi lần nhấn xuống thì cho ra 6 chữ số. Tôi biến sáu chữ số đó thành một mật mã.

Chữ số đầu tiên cho biết năm cấp chứng chỉ. Thí dụ số 3 ứng với năm cấp là 1973.

Chữ số thứ hai cho biết năm học. Thí dụ, số 9 là niên khóa 1969-70.

Chữ số thứ ba cho biết cấp lớp. Thí dụ, số 9 cho biết chứng chỉ đang cấp là lớp Chín.

Chữ số thứ tư cho biết lớp. Thí dụ, số 4 cho biết học sinh học lớp A4.

Hai chữ số cuối cùng là số thứ tự trong sổ điểm, ứng với tên học sinh theo thứ tự ABC. Nếu hai số cuối đó là 01 thì tên học sinh nhất định phải khởi đầu bằng mẫu tự A hoặc B, hoặc C. Nếu số cuối là 40 thì mẫu tự nằm trong khoảng R đến Y...

Thí dụ, học sinh Nguyễn văn H., học lớp Mười A3, năm học 62-63, chứng chỉ cấp ngày 10-10-1971 thì sáu chữ số trên đầu chứng chỉ như sau là đúng: 120315.

Chữ số thứ ba là 0 được tôi dùng để chỉ lớp 10. Trong chứng chỉ mà cô T. đưa cho tôi có chữ số nầy mà bên dưới ghi lớp 12 thì tôi biết ngay là giấy của kẻ gian rồi.

Tôi rất tin tưởng vào sự an toàn của 3 thực chiêu nầy, chỉ tiếc rằng tôi áp dụng quá trễ, lúc sắp hoàn tất công việc nên chỉ thực hiện được trên một số ít chứng chỉ mà thôi. Vì vậy, trong thời gian ngắn mà tôi làm giám học, với một hư chiêu và ba thực chiêu đó tôi chỉ đánh trúng địch thủ một lần như tôi vừa kể trên đây. Chỉ một lần thôi nhưng tôi cũng được an tâm và hài lòng.

Người thầy thuốc thực sự có lương tâm thì không mong có bệnh nhân nhiều để mình chữa bệnh. Tôi cũng thế, tôi không muốn có nhiều vụ gian lận để có dịp áp dụng ba thực chiêu của mình.

Khi tôi vui miệng kể lại chuyện nầy thì có người bảo rằng làm giám học thì có gì ghê gớm lắm đâu mà phải đầu tư trí óc hung thế và trong xã hội nếu có vài trường hợp gian lận thì đã đến đỗi nào.

Quả thực, tôi cũng biết rằng «giám học» là một chức vụ quá nhỏ so với các chức vụ có tính «quốc gia đại sự». Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ câu chuyện Hàn Tín giữ kho lương thực của Lưu Bang ở Hán Trung, trong truyện Tàu «Hán Sở tranh hùng». Hàn Tín có tài kinh bang tế thế, có khả năng bình thiên hạ, nhưng khi nhà vua cho một chức quan rất nhỏ là thủ kho, ông ta cũng đã thi hành nhiệm vụ hết sức tận tâm, không chút nào sơ suất. Đó là hành động của người quân tử.

Tôi không phải là quân tử nhưng vì đọc nhiều sách Tàu, tôi muốn học theo phong cách người quân tử. Cho nên bất cứ việc gì, dù lớn dù nhỏ, tôi cũng phải làm hết sức mình.

Thế mà việc giáo dục đâu phải là việc nhỏ để chúng ta có thể cẩu thả được. Hơn ai hết, người làm giáo dục không được phạm lỗi lầm. Ở các lĩnh vực khác của xã hội, sự sai sót có tác hại gần như tức thì và có thể khắc phục hậu quả dù phải tốn công tốn của. Lĩnh vực giáo dục thì không như thế. Sai lầm ngày nay sẽ gây tác động xấu rất lâu về sau và một khi hiệu quả tai hại đã biểu hiện thì vô phương cứu chữa.

Ngoài ý nghĩ cho lợi ích xã hội sau nầy, tôi cố gắng làm việc cũng vì phẩm cách cá nhân và lòng tự trọng của mình. Đặc biệt trong chuyện cấp chứng chỉ, tôi cần phải đề phòng nghiêm túc và cẩn mật để cho cuộc sống sau nầy của tôi không bị phiền phức và rắc rối do quá khứ. Được như thế thì trong tương lai, tôi mới giữ được sự ung dung tự tại và luôn luôn có thể thản nhiên nhìn thẳng vào mọi người, kể cả ông to nhất nước.

Nhắc lại chuyện chứng chỉ, tôi vẫn còn thấy hài lòng và hãnh diện rằng mình đã thắng được một sự cám dỗ không phải là nhỏ. Giờ đây xã hội có nhiều người ăn tiền rất bẩn thỉu. Tôi mong rằng chuyện đó không bao giờ xảy ra cho nhà giáo. Trong lòng mỗi thầy cô đều phải khắc đậm 4 chữ «lương sư hưng quốc». Trách nhiệm của mỗi thầy cô đối với tiền đồ Tổ quốc quan trọng thay và vinh quang thay!