← Quay lại trang sách

Đoạn thứ nhất - 1 -

Năm 1924, một hôm cuối tháng mười, tầu Amiral Pointy của hãng Chargeurs Réunis nhổ neo chạy. Sài-gòn với tất cả những cái buồn thảm của một bầu giời đông rủ xuống bến Sáu Kho.

Ngày hôm ấy là một ngày sương mù. Cảnh vật phủ một mầu bạc. Ngọn gió bấc vì vèo thổi như cắt da những cu-li, chỉ một manh áo rách, đang khuân vác ở dưới bến. Và càng làm tê lòng những hành-khách đã tê lòng vì cảnh biệt ly, đang đứng ở trên tầu. Những làn sóng biếc, nhô lên ngụp xuống, như đú-đởn với làn hơi nước trắng phau. Vài con thuyền tam-bản, dăm chiếc ghe mành, đi lại trên mặt nước trong bầu sương mù, như vẽ cho những khách chưa từng trông thấy bể, một cảnh lung-linh trong mộng. Lâu-lâu, những hồi còi của những tầu rời bến hay vào bến rúc lên inh-ỏi: như những tiếng rú của những con kình nghê, thừa một ngày sương mù, loài người không thể trông thấy, ở những hang bí-mật kéo nhau ra đùa rỡn. Rặng núi miền Đông-triều, Uông-bí thường ngày lừng-lững bao vây hải-cảng, như một bức tràng-thành kiên cố, bây giờ không nhìn thấy. Những cây hàng trụi lá, lác đác trên bến, giơ cành khẳng-kheo như những bộ xương khô. Thỉnh thoảng, một cơn gió mạnh từ phương bắc kéo lại, giật những chiếc lá còn sót ném xuống mặt đường, rồi lại thổi cho chạy trên mặt đá gồ-ghề. Lá chạm nhau, lá chạm đá, rào-rào như những tiếng than vãn thì-thầm của một cảnh vật đã bị mùa đông đem cái buồn và cái rét đến khuấy rối và làm cho tê-tái, ê-chề.

Cảnh thảm-đạm mênh-mông của bến Sáu Kho hôm ấy thật đã gieo một mối ảo-não vào lòng người và đã chịu ép mình nằm trong câu thơ nhà thi-sĩ mà một hành khách đang khe khẽ ngâm:

Sương buồn ôm kín non sông…

Người hành khách ấy trạc hai mươi, cao, gầy, mặt xương xương, hai má hơi hóp, tảng trán lớn và phẳng với hai con mắt sáng trông rất dữ, nếu không có một nụ cười lúc nào cũng như sắp nở ở trên làn môi. Cặp mắt ấy với làn môi ấy, là hai sức mạnh trái ngược nó điều-hòa cho khuôn mặt có một vẻ hoạt-động và đem lại cho một cái hồn mà người ta gọi là cái duyên. Hai con mắt long lên như mắt vọ, nhìn ai khiến cho người ta phải ngượng, phải ghét, phải khó chịu là biểu-hiệu của một nghị-lực mãnh-liệt và một thông-minh “ tàn-nhẫn ”. Thì làn môi kia lại có vẻ trẻ con nhí-nhảnh, hóm-hỉnh, nó phát-lộ một tính-tình dễ-dàng vui-vẻ. Nhìn khuôn mặt ấy, nhìn kỹ con mắt, làn môi ấy, người ta như nhìn thấy sự dung-hòa của một cái “sức mạnh nó tính-toán” với một một cái sức mạnh nó yêu đời, chỉ muốn vui đời.

Cặp mắt nhìn thì làn môi liền chữa ngay cái nhìn ngổ-ngáo, sống-sượng, hỗn-láo, dữ-dội, lạnh-lùng của cặp mắt. Mà làn môi cười, thì cặp mắt liền chữa ngay cái cười trẻ con dí-dỏm, nhí-nhảnh, khờ-khệch của làn môi.

Cặp mắt ấy, làn môi ấy là tất cả người thiếu-niên ấy. Nó cho ta nhận thấy một sức sống bí-mật cấu-tạo nên bởi sự hòa-hợp của khối óc rộng-rãi và thông-minh với một trái tim đầy sinh-lực.

Với cặp mắt ấy, làn môi ấy, người thiếu niên như đem “ phô ” cả trái tim và khối óc lên trên mặt. Trái tim như lúc nào cũng nhủ: yêu đời đi, vui đời đi, lăn xả vào những cuộc hành-lạc đi, hiến mình cho những sự cám-dỗ thiên-nhiên đi. Nhưng khối óc vội vàng đem sự tính toán đến ngăn-cản và khuyên-bảo: phải coi chừng cái gai nấp dưới cánh hoa, phải coi chừng sự trượt chân khi bước trên thảm nhung, phải đề phòng cái cạm bẫy ẩn trong liễn mật! Đó, cái cớ nó làm cho khuôn mặt kia trông lúc nào cũng vừa đăm chiêu khắc-khổ vừa hớn-hở hoài-nghi.

Đi đứng nhanh-nhẹn, dáng-điệu dễ-dàng, cơ-thể là ảnh-hình của một sức mạnh nó bắt ai muốn khinh nhờn thiếu niên trước phải nghĩ ngay đến sự có thể làm được của cái sức mạnh ấy. Sức mạnh mà đứng một mình thì chỉ là một con thú. Sức mạnh mà lại được đưa dắt bởi những ánh sáng của một khối óc thông-minh tính-toán giỏi thì chỉ là sức mạnh đáng sợ. Nhưng nếu cái sức mạnh đã thông minh ấy lại còn biết nghe theo những tiếng gọi sốt-sắng và huyền-bí của trái tim thì là một sức mạnh hoàn toàn.

Thiếu niên mang trên cơ-thể cái sức mạnh hoàn toàn ấy. Tuy thiếu niên chỉ là một thiếu niên hai mươi tuổi, nhưng là một thiếu niên biết tin ở như tài lực mình, biết nghĩ đến ý nghĩa đời sống của mình mà dám nhìn tương-lai bằng đôi mắt bình-tĩnh, dám chờ những bất ngờ nó xẩy đến cho đời mình một cách can-đảm, có cái hoài-bão kỳ-vọng cho đời mình, một cuộc sống đầy-đủ, dù gian-lao.

Đội một cái “ cát-két ” sọc, mặc một bộ dạ xám, thiếu-niên trông ra dáng một con người lịch-sự đã hiểu bí-quyết của sự ăn mặc và biết đem những sự tiện-lợi của y-phục dùng trong những trường-hợp của đời mình.

Đang đứng tựa chấn song nhìn bể, nhìn giời nhìn cảnh biệt-ly ở chung quanh mình và đang ngâm:

Sương buồn ôm kín non sông,

Tình buồn thấm đượm trong lòng…

thì bỗng tầu “ súp-lê ”. Hai người bạn cùng đi với thiếu-niên, dáng chừng đã từ-giã xong với người nhà, bỗng chạy đến vỗ vai, hỏi:

– Không có ai ra tiễn chân anh à?

– Không.

Thiếu-niên nói một cách không đau đớn, không oán-hờn. Rồi vùng cười to:

– Anh Hoành, anh không còn nhớ câu chuyện nhà, tôi kể với anh hôm nọ à? Tôi đã giẫm lên bực cổng nhà tôi mà thề như Tô Tần xưa kia: “ Bất thừa xa mã, bất quá thử kiều ”. Tôi đi, tôi có cho ai biết đâu mà hòng có ai đi tiễn. Mà đi tiễn thì làm gì? Bất quá có người đi tiễn thì chẳng qua cũng chỉ làm phí mấy giọt nước mắt như anh Phong kia.

Thiếu-niên vừa nói, vừa giơ tay chỉ một người mặc quần áo tím đứng cạnh.

– Anh Phong, ai ra tiễn anh mà phải mủi lòng mà khóc thế?

– U tôi đấy. Năm nay u tôi đã già.

– Thì anh bổ vào trong Cao-Mên ba năm rồi lại về, việc gì mà phải khóc?

– Nhưng tôi là nhớn mà các em tôi còn bé.

– Thế thì lại khác. Anh có quyền khóc một mình mà không ai có quyền cười anh cả. Chắc cụ thương anh lắm?

– Cha mẹ nào chẳng thương con.

– Anh nói thật hay nói dối? Tôi xét thấy thầỵ mẹ tôi chẳng thương tôi một chút nào cả. Hay là thầy mẹ tôi có thương tôi mà tôi không biết. Nhưng cứ như lòng tôi cảm thấy thì hình như không. Mà lại có phần ghét, thứ nhất từ hồi vì việc bãi khóa ở trường Bưởi mà tôi bị đuổi. Các cụ ghét tôi hơn có lẽ vì tôi không đỗ được cái “đíp-lôm” như điều sở nguyện của các cụ.

– Thì anh xin đổi đi Cao Mên, tuyệt nhiên các cụ không biết?

– Tôi bỏ nhà đi đã gần năm nay cơ mà. Có biết, các cụ cũng chẳng đi tiễn vì từ khi tôi bị đuổi, thầy mẹ tôi đã thề coi tôi như hạt máu rơi rồi.

– Các cụ giận thì nói thế, chứ cha mẹ khi nào từ được con.

– Cha mẹ chẳng biết có từ được con không, nhưng chắc-chắn là con không bao giờ từ được cha mẹ. Từ khi tôi bị đuổi về ở nhà, thầy mẹ tôi bạc đãi và riếc móc hất hủi tôi một cách cay độc khiến tôi không thể ở nhà được, phải trốn ra Hà-nội tìm việc làm nuôi sống. Thế mà tôi cũng vẫn không oán hờn. Tôi chỉ oán tôi là đã không biết khéo ăn ở để cho cha mẹ thương. Lúc tôi đỗ giây-thép, tôi có viết giấy về nhà, các cụ chẳng giả nhời. Mà tôi xin đổi sang Cao-Mên, tôi cũng viết giấy về báo tin, các cụ cũng chẳng giả nhời nốt.

Câu chuyện vừa đến đấy, thì một người đàn-bà ở cửa buồng hạng ba đi lại chỗ ba người đứng.

– Chị Hoành cũng khóc đấy à? Sao đỏ con mắt thế kia? Ai ra tiễn chị đấy?

– Cả nhà ra tiễn. Nhưng tôi nhớ nhất em tôi. Tôi đi chắc nó buồn lắm.

– Lại một tang chứng làm cho tôi tủi. Các anh chị và các em tôi không hiểu tại làm sao chẳng ai yêu tôi cả. Có lẽ tại tôi tính nóng và hay nói thẳng. Có lẽ tại tôi không biết cách làm cho họ nhìn thấy lòng tôi yêu họ, nên họ không yêu tôi.

– Anh em bố mẹ thì việc gì phải thớ lợ. Yêu tự nhiên yêu, thương tự nhiên thương, có lẽ số anh xung-khắc với anh em cha mẹ.

– Có lẽ thế. Có lẽ cái số kiếp tôi phải hiu-quạnh thế. À chị, trong ca-bin chúng ta chỉ có bốn người thôi đấy chứ? Hay có ai nữa?

– Có một người nữa làm ở Văn-tự cũng đổi vào Cao-mên. Ca-bin chúng mình ở có năm cút-xét, giá anh Phong đem cả chị ấy đi. Có phải cánh giây-thép ta được ở riêng một ca-bin, tiện-lợi không?

– Tôi còn phải để nhà tôi ở nhà hầu cụ tôi và trông coi các em bé, không thể đem đi được.

Tầu chạy gió rét. Nói chuyện được một lúc thì vợ chồng Hoành vào ca-bin. Chỉ còn Phong với thiếu-niên.

Phong liền nắm tay thiếu-niên mà bảo:

– Bây giờ chúng ta sang đồng đất nước người lẽ cố-nhiên là hoạn nạn hay lo buồn ta phải đùm-bọc lấy nhau. Tôi vẫn biết anh ít tuổi nhưng khôn hơn tôi với Hoành nhiều. Dù thế cũng xin anh cho phép tôi khuyên anh một câu là anh nên bỏ những tư-tưởng đen tối ở trong đầu anh đi. Anh cứ nghĩ vơ-vẩn như thế, nào có ích gì? Tôi sinh trong một gia-đình êm-ấm, được mẹ già yêu đương, được các em quý mến, tôi càng hiểu cái buồn gây ra cho anh bởi gia-đình anh. Nhưng anh cứ nghĩ kỹ mà coi, anh cứ buồn âm-thầm như thế thì gia đình anh có biết mà hồi tâm lại thương anh đâu? Âu bằng cứ quên phăng cái buồn ấy đi cho nó nhẹ mình. Vào đồng đất nước người đã là một cái buồn. Lại thêm cái buồn ấy ở trong lòng thì sống làm sao được! Vào Cao-mên, nến ta cùng được ở Phnompenh thì tôi với anh, ta ở ăn cơm trọ nhà vợ chồng Hoành. Tôi sẽ làm cho anh quên. Anh Vĩnh, nếu anh coi tôi là một người bạn thân thì anh nên nghe tôi.

– Tôi vẫn biết nhời anh nói là phải, nhưng anh không nhớ khi người ta hai mươi tuổi….

Vĩnh nói đến đấy im. Phong cứ nhìn Vĩnh chầm-chầm.

– Khi người ta hai mươi tuổi mà phải sống cái đời hiu-quạnh như tôi đã sống, thiết-tưởng là đá cũng phải buồn. Vì anh ở trong một hoàn-cảnh sung sướng, nên anh không hiểu những cái khổ không tên tuổi của loài người và những sự cần dùng của trái tim. Vì lòng anh lúc nào cũng được ấm-áp bởi cái nhìn săn sóc nâng niu của một bà mẹ yêu anh, nên anh không hiểu cái khổ cô-độc của một thằng bé-con. Tôi sống mười chín năm ở trong gia đình mà tôi đối với cả nhà chỉ là một người ngoài. Hồi bé tôi hay nghịch ngợm. Người ta không hiểu những cần dùng của tuổi trẻ, người ta cho tôi – và yên chí – là tôi mất dậy. Tính tôi nóng, thẳng và khái ; những cái bất công, tôi không chịu được, người ta cho tôi là bất-hiếu. Tính tôi bướng, không chịu nhục, bị đòn tôi chỉ cắn răng chịu chứ không lạy xin, người ta cho tôi là mặt sứa gan lim.

– Cha mẹ nóng thì nói thế.

Vĩnh không để ý đến câu đàn-giải.

– Nhiều khi tôi thấy lòng tôi cần phải yêu-đương, tôi muốn gần cha mẹ và tỏ lòng yêu cho cha mẹ biết, thì anh có biết người ta nhận cái lòng yêu tôi một cách tàn-nhẫn thế nào không? Tôi còn nhớ mãi, cách đây mười năm, một hôm tôi đi học về, tôi thấy cái đời hiu quạnh khổ quá, tôi cần yêu và được yêu lắm, tôi thấy mẹ tôi ngồi vá áo, tôi liền lại gần, ngồi cạnh, rồi tôi ngả đầu vào đầu gối mẹ tôi. Mẹ tôi củng vào đầu tôi một cái thật mạnh rồi du tôi ra mà mắng:

– Thằng quỷ-sứ mày làm cái trò khỉ gì đấy? Có lẽ hôm nay mày hết cấp nghịch rồi đấy!

– Có lẽ mẹ anh không hiểu anh.

– Ấy chỉ vì cái chỗ không hiểu nhau ấy mà đời tôi khổ. Nhưng lạ, sao các anh em chị em, thầy mẹ tôi hiểu hết, mà duy không hiểu có một mình tôi. Ở nhà, ai nghịch cái gì, làm hỏng cái gì là người ta đổ lỗi cả cho tôi. Mà tôi vốn có tính khinh những hèn hạ, tôi không thèm cãi lại. Đánh chán mỏi tay, tôi cũng chẳng cần. Những việc nhỏ-mọn xẩy đến cho anh tôi, hay em tôi, nhiều khi thầy mẹ tôi chỉ mắng qua hay chỉ cười, nhưng đối với tôi thì đòn đánh vô kể. Tôi còn nhớ: một hôm, tôi làm vỡ cái liễn sứ cổ, thầy tôi vác guốc đánh tôi chảy cả máu đầu. Mẹ tôi thấy thế chạy lại lấy khăn lau toan lau cho tôi, nhưng vì tức sẵn, tôi du mẹ tôi ra, xuống nhà chẳng nói năng gì.

– Cái đó là lỗi tại anh.

– Thì bao giờ tôi cũng vẫn nhận là lỗi tại tôi, chứ tôi có đổ lỗi cho ai đâu. Hình như cái kiếp tôi sinh ra là chỉ để cho người ta hiểu lầm hay không hiểu. Tôi học thì rất khá, nhưng cái số tôi không may. Tôi học sau anh tôi hai năm mà tôi theo kịp. Ở lớp nhất, bao giờ tôi cũng giỏi hơn anh tôi, nhưng đến khi thi bằng cơ-thủy thì tôi trượt mà anh tôi đỗ. Anh tôi lại thi đậu vào trường Bưởi. Anh có biết khi mẹ tôi được tin anh tôi đỗ, mẹ tôi riếc tôi thế nào không? Mẹ tôi chỉ tôi mà bảo:

“ Cái mặt thằng giời đánh này, ngày sau chỉ ăn mày, ăn xin mà thôi. Đẻ những giống như mày chỉ thảm-bại cho cái bụng!”

Rồi mẹ tôi lại quay sang chị tôi:

“ Trông mặt mà đặt hình-dong thật. Mày trông nó – nó đây là anh tôi – hai vai rộng rãi, ba-đình nở-nang, có phải công-danh cứ bước băng băng không? Còn cái mặt khó đăm đăm như đồ chó chết này thì chỉ chết đường chết chợ thôi.”

Tôi nhớ, nhớ mãi câu mẹ tôi riếc tôi. Mà tôi xét ra sở-dĩ thầy mẹ tôi ghét tôi chỉ vì tôi nghịch ngợm, tôi cương-trực và tôi xấu giai lắm.

– Anh không xấu. Ai trông anh mà bảo anh xấu giai là người ấy mù.

– Tôi đem so-sánh hình-dung tôi với anh tôi, thì tôi thấy anh tôi trắng, hai má phinh-phính, trên khuôn mặt nhiều cái dễ yêu hơn tôi. Tôi nhìn cái nhìn trừu-mến của mẹ tôi đối với anh tôi và cái nhìn ghét bỏ của mẹ tôi đối với tôi thì tôi cũng đủ hiểu là tôi xấu giai lắm.

– Không, tôi đã bảo rằng không. Anh có một khổ mặt quắc-thước nó đi đôi với tính-nết anh. Nếu tôi mà là con gái thì tôi phải lấy những người như anh, mà không thể nào yêu những người trắng trẻo có cái vẻ đẹp ủy-mị như anh Hoành. Đàn-ông phải có cái vẻ đẹp đàn-ông. Đàn-ông mà có cái vẻ đẹp như đàn-bà là nghĩa thế nào? Chính chị Hoành thường khen anh có vẻ lắm. Nhưng có bao giờ con gái yêu anh không?

– Tôi nhớ mang-máng thì hình như không. Tôi có đi hát một vài lần, tôi có nhân tình phiệu với một vài cô đầu, nhưng thế sao gọi là yêu được. Hiện bây giờ, tôi chẳng còn nhớ hình-ảnh của một người đàn-bà nào mà tôi đã quen biết từ trước. Yêu theo tôi hiểu, thì nó phải nồng-nàn và tuyệt-đối như trong những lúc tôi tưởng tượng, giá tôi được mẹ tôi yêu tôi như thế. Nhưng hình như mẹ tôi không yêu tôi bao giờ cả. Tôi nhớ rõ ràng không bao giờ tôi ngồi nói chuyện được với mẹ tôi đến ba câu, trừ những khi mẹ tôi đánh tôi, bắt tôi nằm hỏi tội tôi. Kể những tội lỗi mà mẹ tôi kể ra thì nhiều lắm. Có lẽ vì thế mà mẹ tôi không yêu được tôi chăng?

– Anh cứ nghĩ vơ-vẩn mà nói thế, chứ có lẽ nào mẹ lại không yêu con. Mà một người con như anh thì đáng yêu lắm.

Vĩnh nói một cách chua chát:

– Đáng yêu, đáng yêu ở chỗ mặc toàn quần áo cũ của anh tôi. Anh ạ, tôi còn nhớ mãi cái Tết tôi được mẹ tôi may cho tôi một cái áo alpaga mới. Cái kỷ-niệm ấy tôi giữ, giữ mãi để sau này nếu tôi lập một gia-đình, tôi sẽ tránh những sự bất-công như thế. Mẹ tôi may cho tôi và anh tôi mỗi người một cái áo alpaga lót. Nhưng mẹ tôi hà-tiện, phòng chúng tôi lớn, nên may dài. Chúng tôi mặc dài như lễ-sinh. Nhưng anh tôi hơi cao và lớn hơn, mặc cái áo của tôi thì vừa. Thế là anh tôi chiếm cái áo của tôi. Anh cứ tưởng-tượng cái áo ấy anh tôi mặc đã dài thì sẽ biết tôi mặc đến đâu. Nó gần chấm đất. Ấy thế mà mẹ tôi bằng lòng để cho anh tôi mặc cái áo may cho tôi và bắt tôi mặc cái áo may cho anh tôi. Mẹ tôi bảo xấu như tôi thì mặc cái gì phí cái ấy đi. Tính tôi đã bướng, thấy mẹ tôi bất-công thì chẳng nói năng gì đem cái áo xuống bếp đốt cháy ra gio.

– Chắc anh phải một trận đòn.

– Thì đã hẳn, một trận đòn dừ-tử! Tôi xét ra hình như mỗi gia-đình phải có một người con chịu phần thiệt-thòi nhất, và để hứng đỡ những cái không hay gây ra bởi tính xấu của cha mẹ. Phải có một người con xấu số chịu lấy những bất công trong khi cha mẹ bực mình. Tôi nhớ mỗi khi thầy mẹ tôi gắt-gỏng hay có cái gì bất-như-ý là y như lôi tôi ra. Mà dù thầy mẹ tôi không lôi tôi ra thì các anh em chị em cũng du tôi ra để đỡ đòn.

– Tôi tưởng anh có phải là con vợ lẽ đâu.

– Không là con vợ lẽ mà tôi bị ghét mới lạ chứ. Tôi sưu-tầm trong lịch-sử thì thấy có nhiều trường-hợp giống như cái cảnh tôi. Đấy anh xem mẹ Trịnh-vương đời Chiến-quốc chẳng thương con trai út hơn anh là gì.

– Phải lại còn muốn cho em chiếm được ngôi vua của anh nữa. Nhưng Trịnh-vương có dám vì thế mà oán mẹ đâu?

– Tôi có dám oán mẹ tôi đâu.

– Thế sao anh nhớ mãi những chuyện cũ làm gì? Anh gàn quá.

– Anh bảo tôi gàn là anh lầm. Tôi nhớ những chuyện cũ không phải là để oán cha mẹ mà là để nếu sau này tôi có lập một gia-đình mà tôi có con thì tôi sẽ yêu chúng nó đều nhau. Tôi nhớ, là để nếu sau tôi có làm cha thì tôi tránh cho con tôi những sự đau-khổ mà cha tôi đã gây ra cho lôi. Tôi nhớ, là để khi tôi có vợ, tôi sẽ bảo cho vợ tôi biết rằng: sự yêu-đương của cha mẹ cần cho con hơn cơm áo. Tôi nhớ, là để sau này tôi cố làm cho con tôi trong khi thiếu thời, khỏi mắc phải cái cảnh cô-đơn buồn thảm như tôi. Chinh cái tuổi hai mươi mà lòng tôi đang khao-khát yêu-đương này, tôi lại thấy sự ấy là cần lắm. Tôi nghĩ lại những lúc thiếu-thời tôi bồi-hồi như mới thoát một ác-mộng. Và tôi băn-khoăn tự hỏi sao tôi có cái sức sống dai để sống cho qua những ngày buồn thảm như thế? Tôi nhớ, tôi phải nhớ mãi để làm những bài học sau này hòng gây hạnh-phúc cho con. Anh đừng bảo tôi bất-hiếu đâu. Tôi dám chắc cái lòng anh em chị em tôi yêu thầy mẹ tôi không mạnh bằng tôi. Nhưng tôi không thể làm những cái bơ-vơ nhỏ-nhen để cho cha mẹ tôi hiểu thì làm thế nào! Tôi tưởng chữ hiếu không phải ở chỗ tâng bốc, nâng-giấc hay cúi đầu vâng lời cha mẹ như một con chó. Mà chính là chỗ phải làm sao cho dương-danh hiển thân trong con đường danh-dự. Thầy mẹ tôi cứ ta thán rằng: không đỗ nổi cái đíp-lôm vi thầy mẹ tôi cho cái bằng ấy là cái vinh-quang đệ nhất của đời người. Rồi anh xem. tôi không chịu đứng cái địa-vị này mãi đâu. Chẳng qua bây giờ không có kế dung thân thì bơ-vơ đấy thôi. Anh là người bạn thân, tôi mới dám nói. Không phải tôi khinh cái nghề làm thầy ký, nhưng tôi xét thấy nó không đủ trả lời cho những ước-vọng của lòng tôi.

– Tôi biết, tôi biết lắm. Tôi cứ nhìn anh ngày nào đi làm về cũng chịu khó xem sách, tôi cũng đủ rõ là anh còn ao-ước nhiều cái lắm. Mỗi người một chí-hướng. Tôi, tôi thích cái đời yêu ổn, gia-dĩ tôi cũng không muốn làm cho tôi phiền lòng, tôi tự lấy cái địa-vị ngày nay lấy làm đủ. Còn anh, nếu anh chưa cho là đầy-đủ thì anh có quyền mơ-ước những cái khác. Khi người ta mới có hai mươi tuổi, người ta có quyền hoài-bão đủ tất cả những cái cao-xa.Thứ nhất cái người hai-mươi tuổi ấy lại là anh.