- II -
Cái đời sống của Vĩnh ở Nam-vang trong mấy tháng trời, là cái đời của một thiếu-niên cố chết để gây sự-nghiệp. Ngày hai bữa đi làm và xem sách, có thể thôi. Vĩnh định-tâm cóp nhặt một món tiền khá to rồi thừa dịp nào xin làm bồi tầu sang Tây học. Học để làm gì? chưa biết. Nhưng hẵng làm sao cho sang tới Ba-lê, mà người ta ca-tụng là kinh-đô của ánh-sáng. Vì thế ngoài tiền cơm, Vĩnh chẳng tiêu gì. Phong ở chung với Vĩnh, thấy Vĩnh hà-tiện quá cũng phải kêu. Nhiều khi Phong rủ Vĩnh đi đường boong ăn cao lâu hay đi xem hát, Vĩnh đều từ chối. Phong gắt bảo:
– Thì tôi trả tiền cho anh, chứ tôi có bắt anh trả đâu mà anh sợ.
– Dù anh trả tiền, tôi cũng không đi. Lẽ thứ nhất mất thì giờ xem sách. Lẽ thứ hai tôi không thể ăn không của ai được. Anh hay người khác mời tôi đi, tôi xét có thể đãi lại được thì tôi mới đi. Tôi chưa có thể đãi lại được, vì tôi phải góp tiền đề đi Tây học thì từ-chối đi còn hơn. Lẽ thứ ba, bây giờ tôi chưa muốn hưởng những cuộc vui bởi tôi cho xem sách là vui nhất.
Phong mời nhiều lần, Vĩnh đều trả lời thế, nên từ đấy Phong cũng không mời nữa.
Xứ Nam-vang, thực-phẩm đắt đỏ mà nhà ở lại hiếm, nên Vĩnh và Phong phải ở chung với vợ chồng Hoành, một gian nhà chỉ kê được hai cái giường và một cái bàn, bốn cái ghế. Gian nhà ấy giá mười bốn đồng. Trước kia thì sự phí-tổn trong nhà chia làm bốn, hai vợ chồng Hoành một nửa và Phong, Vĩnh một nửa. Nhưng sau Vĩnh thấy thế thì thiệt hại cho Hoành là người cũng lương ít như mình, bèn tính cách xoay sang ở trọ và trả cho Hoành một tháng hai chục đồng. Vợ Hoành thấy thế bèn bảo chồng:
– Ai cứ bảo anh Vĩnh anh ấy bủn-xỉn, nhưng xem như việc này thì không phải thế.
– Đã đành tính anh ấy không bủn-xỉn, anh ấy dành tiền để đi Tây học.
Cái giao-tình của vợ chồng Hoành đối với Vĩnh từ đấy lại càng thân mà Vĩnh thì coi vợ Hoành như người chị gái mình, một người chị gái săn sóc và quý-mến em trai, chứ không phải chị gái chỉ ở cái tên không mà thôi.
Ở Nam-vang được sáu tháng thì Hoành được lệnh đổi đi Siemreap. Hoành nghe tin tái người. Mà Vĩnh cũng ái-ngại cho bạn bởi Vĩnh biết vì sự ăn-tiêu đắt-đỏ, Hoành hết tháng hết lương. Nay phải đi xa, lại dọn-dẹp đồ-đạc, thuê nhà cửa thì tiền đâu. Mà vợ Hoành lại gần đến tháng đẻ. Vĩnh muốn đem gần hai trăm bạc dành dụm giúp bạn, nhưng Hoành từ-chối:
– Số tiền ấy là cả tương-lai của anh, tôi vay mà tôi biết chắc rằng không trả được thì tôi không vay. Túng thì đành túng, đến đâu hay đó. Trời sinh voi trời sinh cỏ, có chết ai bao giờ.
– Vẫn biết thế, nhưng chị ấy gần đến tháng đẻ thì làm thế nào? Ở Siemreap anh chẳng quen thuộc ai, vì tôi nghe nói, chẳng có mống người Bắc nào. Một mình anh đã vậy, nhưng còn chị ấy thì sao cho tiện. Anh cứ cầm lấy, tôi vui lòng tí cho anh chị vay cơ mà.
– Anh vui lòng cho vay nhưng tôi không thể vui lòng nhận được. Giá sở bằng lòng cho anh thay cho tôi thì hay quá.
– Chúng ta thử lên xin xem.
Chiều hôm ấy, hai người lên nói thống-thiết thì ông Giám-đốc bằng lòng ngay. Được tin Vĩnh đổi lên Siemreap, các bạn người Sàigòn cùng sở mà Vĩnh mới quen ngỏ ý muốn viết thư gửi gấm với người nhà, nhưng Vĩnh đều từ chối:
– Tôi muốn sống với sự bất-ngờ. Cứ để mặc tôi lên trên ấy rồi sự bất-ngờ sẽ đem nhà ở lại cho tôi.
– Coi chừng trên ấy ít người Annam, không khéo thầy lại bị ở với Cao-mên ăn bô-hốc (prahok) (1).
– Bô-hốc thì bô-hốc miễn sống thì thôi.
Vĩnh yên-chí rằng Siemreap không có người Bắc-kỳ mà mình thì chẳng có một người Nam nào quen ở đây. Tất-nhiên là đêm đầu phải ngủ trọ. Ai ngờ khi xe Auto-ca vừa mới đỗ bỗng có một người trạc ngoài bốn-mươi đến trước mặt chàng cung-kính hỏi bằng tiếng Bắc:
– Tôi hỏi thế này thật là đường-đột, ông có phải là ông Vĩnh người Bắc đổi lên làm sở giây-thép trên này không?
– Chính tôi, nhưng sao ông biết? Ông là người Bắc phải không? tôi nghe ông nói toàn giọng Bắc.
– Vâng, tôi là người Bắc, lên buôn bán trên này đã hơn hai-mươi năm. Hôm qua có mấy thầy giây-thép người Nam đến chơi nhà tôi nói chuyện cho tôi biết rằng ông là người Bắc đổi lên trên này, nên tôi ra đón. Trên này chẳng có ai là người Bắc chỉ có một mình tôi. Thôi ông lại nhà tôi ở, người xứ-sở với nhau gặp nhau thì còn gì bằng.
Vĩnh thấy người đồng-hương xử với mình một cách sốt-sắng không thể từ chối. Chàng vào trình diện với ông chủ rồi theo về. Đi đường, ông người Bắc tỉ-tê nói:
– Tôi vào đây đã lâu năm, ít gặp người đồng xứ. Nên gặp ông tôi mừng lắm. Nhà tôi tuy là người Sàigòn, nhưng lấy tôi lâu năm thì cũng thành ra người Bắc. Thầy đừng ngại gì làm phiền vợ chồng tôi. Ta cứ coi nhau như người nhà. Mà chả người nhà thì cũng người nhà vì trong đồng đất nước người, ta gặp nhau là trở nên thân-thích rồi.
Về đến phố Chợ, ông người Bắc trỏ cái biển sơn vàng có kẽ hai chữ Nam-Phát Bazar Tonkinois mà bảo Vĩnh:
– Đấy tiệm tôi đấy.
Đến cửa đã có một người đàn-bà ăn mặc Sàigòn và hai cậu bé con trai ăn mặc rất sạch-sẽ đứng đợi.
Ông Nam-Phát đon-đả giới-thiệu Vĩnh với vợ rồi bảo hai con:
– Chúng mày không chào ông đi.
Vĩnh thấy hai đứa mặt mũi khôi-ngô đem lòng yêu, liền nắm tay đứa bé ước lên tám mà hỏi:
– Em lên gì?
– Em tên Định.
– Thế anh của em tên gì?
– Anh em tên Nam.
Cửa hàng đồ-sộ, nhà cửa rộng rãi bầy-hiện rất lịch-sự. Vĩnh biết ngay là một gia-đình giầu có.
Ông Nam-Phát đỡ va-li rồi đưa Vĩnh lên một cái buồng có giường tây, có bàn mà bảo:
– Đây, tôi đã để dành riêng cái buồng này chờ ông..
Vĩnh nhìn cái buồng lịch-sự, rồi nhìn ông Nam-Phát, cảm-động bảo:
– Tôi không ngờ lại được ông tiếp đãi một cách chu-đáo như thế này. Tôi đã làm gì mà ông cư-xử với tôi quá tử-tế thế?
– Ông là người Bắc. Thế là quá đủ rồi. Chính tôi đây phải ơn ông, phải ơn ông đã đem hình-ảnh xứ-sở đến cho tôi.
– Thế ông không năng về Bắc à?
– Tôi đã hơn hai mươi năm chẳng về bao giờ. Mà biết quê quán ở đâu mà về. Tôi mồ-côi cha mẹ, xiêu bạt từ nhỏ, quên cả quê-quán, chỉ còn nhớ mình là người Bắc và ở tỉnh Nam-Định, nên tôi đặt tên hai cháu là Nam, Định để kỷ-niệm quê-quán của tôi. Thôi, ông thay quần áo và rửa mặt rồi mời ông xuống xơi cơm.
Xuống nhà, Vĩnh đã thấy ở buồng ăn bầy ra một bàn tiệc đủ cả rượu ngon, vật lạ. Bây giờ, Vïnh mới hiểu cái lòng tha thiết của con người ta đối với xử-sở đã sinh ra mình.
Suốt bữa cơm, ông Nam-Phát đối với Vĩnh rất là sốt-sắng mà bà vợ đối với Vĩnh cũng rất là niềm-nở. Vĩnh bỗng thấy khoan khoái nhẹ-nhõm cả người. Cạn cốc rượu đầu tiên, câu chuyện bắt đầu:
– Ông bà buôn bán tôi xem ra phát-tài lắm?
– Cám ơn ông, nhờ trời cũng khá, nhưng phú-quý bất-quy cố -hương.
– Thế sao ông không về Bắc?
– Một lẽ, tôi chẳng còn nhớ quê-quán ở đâu mà về. Hai là nhà tôi quê-quán ở trong này. Tôi về Bắc sợ nhà tôi phiền về nỗi nhớ-nhung họ-hàng.
Vĩnh vốn là người thông-minh, không ưa những sự úp-mở nên chiều hôm ấy, trước khi lên buồng ngủ, bèn bảo ông Nam-Phát:
– Tôi ở đây chắc còn quấỵ-quả ông bà về nhiều, vậy xin ông bà làm ơn cho tôi biết…
Ông Nam-Phát là người từng trải đã hiểu ngay đại-ý của Vĩnh muốn nói, vội gạt đi:
– Ồ, tiền với nong, ông đừng ngại, ai lấy tiền cơm ông.
– Ông bà có bụng tốt ấy, tôi cũng xin đa-tạ. Nhưng giá tôi mà ở đây chơi dăm ba ngày hoặc một vài tháng thì ông bà không lấy đã đành. Nhưng tôi ở đây hàng năm, mà ông bà xử thế thì thiệt thòi cho ông bà nhiều lắm. Gia-dĩ như thế lòng tôi cũng áy-náy không yên.
– Chẳng có gì là thiệt-thòi, ông đừng ngại. Nhà thì của nhà, có ông chẳng qua thêm đũa thêm bát.
– Vâng, tôi vẫn biết thế, nhưng nếu ông bà cứ nhất định không lấy tiền thì có lẽ tôi cũng không dám ở đây nữa. Ừ, thì ông bà chả lấy nhiều thì lấy ít cho đủ số tiền tôi làm tổn-phí cho ông bà.
Ông Nam-Phát nghĩ một lát rồi bảo Vĩnh:
– Tôi thu-xếp thế này thì tiện-lợi cho cả hai bèn, nhưng không biết ông có bằng lòng không?
– Việc gì ông cứ nói.
– Tôi có hai cháu mà thầy giáo Cao-mên ở đây dạy chẳng ra thế nào, lại phải học bằng chữ Cao-mên lâu tấn-tới lắm. Giá ông có thì-giờ rỗi, ông xem-xét bài vở và mỗi ngày dạy cháu giúp tôi một bài thì hay quá. Mà như thế thì ông khỏi phải áy-náy...
Vĩnh đã toan không nhận, nhưng thấy người ta xử với mình thật là chí-tình không nỡ từ-chối, liền trả lời:
– Tôi tuy đi làm, nhưng khi về tôi còn bận xem sách. Tôi có bảo các cậu ấy chẳng qua chỉ có thể bảo buổi tối độ một vài giờ đồng-hồ thôi.
– Ồ, một giờ đồng-hồ là quá đủ rồi. Mà dù ông có bận xem sách nhiều thì cách một ngày ông bảo cháu một giờ cũng được.
Vĩnh ở đấy được hơn mười hôm, đối với vợ chồng ông Nam-Phát rất là tương đắc. Mà hai đứa trẻ thì quấn-quít tin yêu như anh cả.
Một hôm buổi chiều, Vĩnh đi làm về gần đến nhà thì thấy thằng Nam, thằng Định nắm tay một người con gái trạc mười lăm, mười sáu và gọi mình ríu-rít, rồi thằng Định chạy lại nắm tay chàng mà bảo:
– Chị con mới đi học ở Sàigòn về đấy.
Còn thằng Nam thì thì-thầm bảo chị:
– Thầy học em đấy. Thầy em chăm học lắm. Thầy em tử-tế lắm.
Đến gần, người con gái cúi đầu chào. Vĩnh cũng chào giả lại. Vĩnh còn dùng-dằng chưa biết có nên đứng lại nói chuyện hay vào nhà thì bà Nam-Phát đã chạy ra:
– Đấy cháu Hai nó học ở năm thứ nhất trường Nữ-học Sàigòn, mời được nghỉ hè về đấy.
– Cô Hai trông còn nhỏ mà học giỏi quá nhỉ? Không biết cô Hai bao nhiêu tuổi?
– Cháu nó mười sáu. Nó đỗ bằng Cơ-thủy năm ngoái.
– Cô ấy học giỏi như đàn-ông.Tôi nhớ tôi năm mười-lăm cũng mới đỗ bằng Cơ-thủy.
Thế rồi Vĩnh lên gác cũng chẳng để ý nhìn kỹ xem cô Hai đẹp hay xấu.
Nói rằng cô Hai xấu thì cố nhiên là không phải. Nhưng nói rằng cô đẹp thì cũng chưa đúng, bởi sắc đẹp của cô còn trong thời kỳ trứng nước, chưa thành hình rõ ràng. Cô người thon và tròn. Thật là cái dáng đẹp của người đàn-bà xứ Nam chứ không “tè bè” như người đàn bà xứ Bắc. Thắt đáy lưng ong, khổ mặt trái soan, chân tay nhỏ, nước da trắng, hai con mắt bồ-câu thùy-mị. Toàn thể ngần ấy cái, hứa một sắc đẹp lộng-lẫy về mai hậu.
Bữa cơm chiều hôm ấy, Vĩnh vào bàn ăn đã thấy người nhà ngồi đông đủ chỉ còn một ghế cạnh cô Hai là bỏ trống. Chàng đến ngồi đấy, chẳng thấy gì là nguợng vì chàng coi cô Hai như em gái mình.
Hôm ấy, cô Hai nói chuyện về sự học của mình ở Sàigòn cho cha mẹ nghe. Suốt bữa cơm, những tiếng cười giòn-giã vui như tết. Nếu một người hữu-tâm nhìn cô Hai nói, cô Hai cười, thì đã nhận ra bao nhiêu vẻ nên thơ, nhưng Vĩnh là người vô tình chẳng nhận thấy gì cả, hay chỉ nhận thấy cô Hai cười nói cũng như thằng Nam hay thằng Định cười nói mà thôi. Mà có lẽ cũng không còn hóm-hỉnh dễ thương bằng chúng nó nữa.
Tối hôm ấy Vĩnh đương đọc sách trên buồng thì ông Nam-Phát lên:
– Tôi biết ông bận đọc sách lắm. Nhưng giá ông có bụng tốt bỏ ra ít thời giờ dạy con cháu hộ tôi thì may mắn quá. Vì nếu ông không bằng lòng thì cháu ở chơi đây với tôi ít ngày lại phải về Saigon học tư, chứ chơi dưng thì quên hết cả chữ. Ông làm ơn dạy giùm cháu cho tôi trong ba tháng hè, rồi hết hè cháu lại đi Saigon.
– Ông nói thì tôi nể lắm chứ quả tình tôi bận lắm. Nếu tôi phải để nhiều thì giờ dạy học thì tôi còn thì giờ đâu xem sách nữa.
– Vàng, tôi biết thế, thì ông giúp tôi. Bởi cháu đi đằng-đẵng một năm, vợ chồng tôi nhớ cháu lắm. Tôi vẫn định cho cháu nghỉ học ở nhà buôn bán, nhưng cháu nhất định xin học đỗ đip-lôm mới thôi. À. mà tôi lấy làm lạ sao ông đã đỗ đi làm có lương rồi mà còn học để làm gì?
Vĩnh không muốn nói cái chí của mình cho ông Nam-Phát biết vì sợ ông không hiểu, bèn nói tránh:
– Tôi thích học thì học đấy thôi. Vậy từ nay buổi trưa khi ăn cơm xong, tôi sẽ dạy cô Hai từ mười hai giờ đến một giờ. Nhưng ông cho ăn cơm đúng mười một rưỡi thì mới được, chứ trễ thì tôi mất cả buổi trưa.
Trong hai tháng giời, Vĩnh dạy cô Hai rất là chăm chỉ. Cô Hai thấy Vĩnh rất nghiêm-trang, đứng-đắn thì đem lòng kính và sợ. Mà Vĩnh thấy cô Hai thông-minh ngoan-ngoãn cũng đem lòng mến. Buổi tối khi thằng Nam, thằng Định lên học thì cô Hai cũng theo lên ngồi đấy mượn tiểu-thuyết của Vĩnh xem hoặc làm những bài mà Vĩnh ra cho mình buổi trưa. Nhưng đến khi hết giờ học thì cô cùng theo hai em xuống. Mà ngoài khi dạy học, Vĩnh cũng chẳng nói chuyện gì với cô Hai bao giờ. Ngoài giờ học thì hai người chỉ gặp nhau ở buồng ăn. Cô Hai thấy Vĩnh nghiêm-nghị quá nên muốn gì cũng không dám nói. Mấy hôm đầu, cô Hai mới lên học thì gọi Vĩnh bằng ông, nhưng mấy hôm sau thì cũng theo hai em gọi bằng thầy. Chính Vĩnh cũng không thấy sự đổi thay trong cách xưng hô ấy.
Vĩnh chỉ học, chỉ nhận thấy có quyển sách, ngoài ra chẳng nhìn nhận thấy sự gì khác cả.
Nhận ra thấy sự khác ấy trước tiên là bà Nam-Phát. Bà thấy con gái bà đẹp ra, và nhiều khi ngồi ngẩn người ra hàng giờ không nói. Nhưng bà cũng chẳng hiểu duyên cớ vì đâu. Bà lấy làm lạ. Bà cho là con gái đến tuổi dậy thì đều như thế cả. Bà cũng không hiểu tại sao nhiều hôm con gái bà cười nói cả ngày mà nhiều hôm mặt cứ rầu rầu chẳng nói chuyện với ai.
Những hôm cô Hai cười nói là những hôm Vĩnh chấm bài cho cô rồi khen cô. Mà những hôm cô buồn là vì sau khi Vĩnh chấm xong bài, Vĩnh chẳng khen gì cô cả. Vĩnh không biết cái duyên do như thế, nếu biết thì chàng cũng chẳng hà tiện một lời khen vì bài vở ngày nào cô Hai cũng làm khá cả.
Một hôm buổi chiều chủ nhật, Vĩnh đang ngồi đính mấy cái cúc và khâu díu một đường áo sứt chỉ thì thấy cô Hai trang điểm rất lịch sự đẩy cửa vào.
– Hôm nay có phường xiếc lại, ba tôi biểu lên mời thầy đi xem.
Vĩnh chẳng ngửng đầu:
– Cô xuống nói với ông rằng tôi cảm ơn. Tôi bận lắm không đi được. Hà-nội, tôi đã xem mãi chán lắm rồi.
– Thầy bận gì, ba tôi đã lấy vé cả rồi mà.
Rồi thấy Vĩnh đang khâu, cô Hai vồn vã bảo:
– Thầy bận vá áo phải không? Để tôi đem xuống nhà vá cho. Thầy mặc quần áo đi.
Rồi cũng chẳng để Vĩnh giả nhời, cô Hai lại dằng lấy kim chỉ. Dằng vội vàng thế nào, kim đâm phải tay Vĩnh. Một giọt máu nổi lên trên da. Cô Hai trông thấy vội vàng cầm lấy tay Vĩnh đưa lên môi mút giọt máu. Mút xong khẽ buông tay Vĩnh ra mà bảo:
– Tôi xin lỗi thầy nhé. Thầy còn đau nữa không? Ở trường, chị em tôi ai nhỡ kim đâm phải tay cứ mút thế là khỏi buốt ngay.
Vĩnh cũng chẳng để ý đến cử chỉ ấy, chàng cho cô Hai vì tình thầy trò mà thương mình đấy thôi.
Cùng đi xem xiếc với cô Hai hôm ấy, Vĩnh cũng chẳng nhận thấy rằng cô Hai ăn mặc lộng lẫy hơn mọi ngày; mà bọn con giai trẻ ai cũng nhìn chầm chầm, và hình như họ thèm muốn cái địa-vị của chàng.
Tối hôm ấy, khi tan buổi học, cô Hai để cho hai em xuống trước, rồi hỏi Vĩnh:
– Thầy còn đau tay không?
Vĩnh thấy thế ái-ngại liền ngọt-ngào bảo:
– Không hề gì đâu. Một mũi kim đâm vào có sao. Cô đừng áy-náy. À, tôi mới mua được quyển truyện này, tôi chưa có thì giờ xem, cô xem trước đi. Nếu cô thấy hay thì tôi cho cô đấy.
Hôm sau, cô Hai cười nói vui vẻ suốt cả một ngày. Nhưng chỉ được một ngày thôi. Những hôm sau, cô nhìn cuốn lịch ở trên tường một cách sợ hãi vì ngày khai trường sắp tới rồi. Cô lại sắp phải đi Sàigòn rồi.
Cha mẹ cô thấy thế lại ngỡ rằng con gái thấy sắp phải xa mình mà buồn nên cố hết sức lấy lời an ủi cô.
– Thì con đi Sàigòn, rồi Tết má cho xe hơi về đón con, việc gì mà con buồn.
– Thỉnh thoảng ba về Sàigòn vào thăm con. Tự giờ đến Tết thấm thoắt có là mấy.
Bao nhiêu nhời an ủi đều vô hiệu. Cô Hai mặt lúc nào cũng buồn thiu. Cô biếng cả ngủ, cô biếng cả ăn. Bữa cơm cô cứ nhìn trộm Vĩnh, nhưng Vĩnh thì cứ cúi đầu ăn nào có nhìn thấy đâu cô nhìn mình.
Còn bảy ngày nữa, cô phải đi. Cô xếp hành-trang một cách uể-oải, chán nản. Vẻ mặt xa-xôi lúc nào cũng bâng-khuâng tự hỏi: sao mình lại có thể xa… nhà trong bốn năm tháng giời được?
Vĩnh thấy cô sắp đi học, cho nghỉ, nhưng cô nhất định không nghe. Mà từ đấy, mỗi khi đồng hồ đã đánh một giờ, cô còn tìm hết cách để ngồi rốn lại thêm một tí. Một tí thôi, vì Vĩnh là người làm việc rất đúng giờ, không thể khuấy rối được.
Cái tối trước hôm đi, cô theo hai em lên buồng Vĩnh cầm một cái hộp đưa cho Vĩnh mà bảo:
– Tôi có thêu được một tá khăn mặt biếu thầy đề thầy dùng. Khi nào thầy dùng hết thì thầy lại viết thư ra Sàigòn cho tôi hay, tôi sẽ gửi một tá khác về cho thầy.
Vĩnh mở nắp hộp, cầm từng chiếc khăn mặt giơ lên:
– Khăn mặt lụa, sang quá, cô thêu đẹp quá. Một tá này tôi dùng thì bao giờ hết. À mai cô đi ra Saigon phải không, tôi gửi tiền cô mua cho tôi mấy quyển sách nhé.
Vĩnh toan đi mở tủ, lấy tiền, cô vội gạt:
– Ba và má tôi cho tôi nhiều tiền lắm. Thôi để tôi ứng cho thầy, chứ bây giờ đã biết giá cả bao nhiêu mà đưa trước.
– Đến Tết mới giả lại cô ấy à? Tết biết tôi còn ở đây hay là đã phải đổi đi nơi khác rồi.
Câu ấy làm cho cô Hai xây-xẩm mặt mày. Nếu cô không vội ngồi ngay xuống ghế thì có lẽ có đã ngã. Nhưng Vĩnh vì quay lưng vào mở tủ không nhìn thấy. Vĩnh lấy năm đồng đưa cho cô rồi bảo:
– Thôi cô cứ cầm lấy năm đồng này, nếu thiếu thì cô phụ vào cho tôi, mà thừa thì cô xem ở Sàigòn có cái gì hay hay cô mua về cho tôi. Cô đi thế này, ông bà với thằng Nam thằng Định chắc nhớ cô lắm nhỉ? cô có nhớ chúng nó không?
– Thưa thầy có, tôi nhớ cả thầy nữa.
Thằng Định nghe cô nói thế liền chẩu mỏ:
– Thế chị ở nhà với thầy có được không?
Cô thẹn đỏ mặt không nói. Vĩnh liền nói:
– Học trò thì phải đi học, chứ ở nhà làm sao được. Có như mày lười như gấu, động một tí thì làm nũng rồi xin ở nhà.
Vĩnh nói xong, tát yêu vào má thằng bé. Thằng bé khoái chí nói lem lẻm:
– Bây giờ có thầy đến đây, con không hay ở nhà, chứ trước khi thầy chưa đến, con ở nhà luôn luôn. Anh Nam cứ đi học một mình.
Cô Hai đi Sàigòn được gần nửa tháng thì bỗng một hôm ba má cô thấy cô về. Ba má cô ngạc nhiên chưa hiểu duyên cớ làm sao thì cô đã vội vàng chạy lại ôm chầm lấy má cô khóc nức nở mà bảo:
– Con nhớ ba má quá không thể ở Sàigòn được nữa đâu.
Ba cô an ủi cô:
– Ừ thì ở nhà học tư ông Vĩnh vậy. Từ khi mày đi, nhà này trống hẳn đi. Má mày cũng nhớ mày, ngơ ngẩn mất hai ba hôm.
Ba má cô nhớ cô là một sự chắc-chắn rồi. Nhưng còn cô, có nhớ ba má cô hay nhớ ai mà phải giở về thì chỉ có trái tim cô biết.
Chú thích:
(1) Một thứ mắm cá rất nặng mùi.