- XIII -
Về tháng sáu, trời Cao-mên đỏ chói những lửa. Tỉnh Battambang dưới sức nắng nung-nấu, như một cái lò bánh Tây.
Ngoài đường, người đi kẻ lại tấp-nập. Thỉnh-thoảng, một trận mưa rào đổ xuống. Khách bộ hành chạy ẩn vào dưới hiên các nhà. Nhưng chỉ mười lăm phút, mưa lại tạnh, trời lại quang đãng. Ánh-nắng rọi xuống đường một lát lại khô hết không để một dấu vết một trận mưa qua. Nhưng vừa mới khô ráo thì một trận mưa khác lại đổ đến. Rồi trong mười-lăm phút lại tạnh. Rồi nắng lại chói lòa, lại làm khô hết.
Chỉ có ở xứ Cao-mên mới có những ngày vừa đương nắng lại mưa, đương mưa lại nắng hàng vài chục lần như thế.
Trong khi mưa thì hơi đất xông lên làm cho người ta bức ngốt bằng mấy khi nắng.
Hôm ấy là hôm giỗ hết tang chồng. Vân ngồi đối diện với bàn thờ chẳng biết rằng ở ngoài trời đương mưa, lại nắng, chẳng biết gì là nực-nội.
Hai mắt lim-dim, nàng như đang ngồi dùng tưởng-tượng hồi sinh lại người đã khuất, rồi cùng người ấy nói chuyện.
Bà Nam-Phát ở Siem Reap lên thấy con đang nghĩ-ngợi như thế cũng không dám bước mạnh chân. Chỉ lâu lâu bà cầm chiếc quạt lại phe-phẩy cho con rồi lại ra trông hàng.
Vân ngồi trầm-mặc hàng giờ như thế. Nàng dùng tưởng-tượng sống lại những ngày qua. Nàng ôn lại quãng đường đời mà nàng được sống dưới sự che chở, đùm bọc, trong sự yêu đương của chồng. Nàng hồi tưởng lại những ngày đầy ánh-sáng, đầy hoan-lạc mà Vĩnh lúc nào cũng ở bên mình nàng để nâng-niu, để đón ý chiều lòng…
Những ngày ấy, than ôi! đã không còn nữa. Mỗi khi, Vân bừng mắt nhìn đến thực-tế, nàng lại thấy lòng lạnh buốt. Nàng bâng-khuâng tự hỏi: kẻ kia đã chết, sao nàng còn sống được?
Nàng đem so-sánh quá-khứ với hiện tại thì thấy hiện-tại đầy chông gai, đầy buồn-thảm. Nó khác xa những ngày mà nhờ chồng, nàng như được bước trên một tấm thảm nhung êm dịu, chỉ có việc ở nhà hú-hí với con, yêu chồng và để chồng yêu.
Vĩnh đã dùng cánh tay cường-dũng gạt đi trên con đường nàng bước mọi khó-khăn, mọi lo-nghĩ, rồi đem lại cho nàng những hương thơm, những êm ngọt.
Nàng nhớ lại những ngày cùng chồng với con đến cốc làng Cao-mên chơi thì cả làng xúm đến đón rước nàng như đón rước một bà chúa, tôn kính như một nữ-thần.
Vĩnh chết đi, còn đâu những sự đón rước ấy, những sự tôn-kính ấy! Hay là chỉ còn những khó-khăn, cản trở đang chờ nàng.
Nghĩ đến hậu nhật, tâm-hồn nàng liền bị xâm-chiếm bởi một u-hoài não-nuột mênh-mang. Nàng bâng-khuâng như người mất hồn, lặng-lẽ, nằm phục trước bàn thờ.
Trong đời người, nếu sự sống cứ chạy đều đều, không có gì biến-thiên, thì ta đâu có biết rõ được cái mặt thực và cái mặt trái những cảnh đời ta thường sống.
Người đàn-bà có chồng che-chở, có chồng đùm-bọc, có biết đâu rõ những khó-khăn của mưu-sinh, có hiểu đâu đến những ngoắt-ngoéo của cạnh-tranh, có bao giờ tưởng-tượng đến muôn nghìn khó-chịu gây ra bởi tập tục thế-tình.
Thằng bé con tinh-nghịch đến trước cửa nhà mình bầy rác, chồng chỉ quát một tiếng, là nó lủi thủi chạy mất.
Ông hàng xóm quá tự-do đêm đêm làm ầm-ĩ, chồng chỉ hỏi một tiếng là ông hàng xóm từ đấy im.
Người đàn-bà có chồng cho những chuyện ấy là những chuyện nhỏ-nhặt, dĩ nhiên là nó phải đi như thế.
Nhưng một khi chồng chết, người quả phụ phải xông-xáo vào thực-tế, mắng thằng bé con tinh-nghịch, thằng bé con nhại lại; bảo ông hàng xóm, ông hàng xóm cười nhạt một cách khinh bỉ chẳng thèm trả lời, lúc ấy mới biết rằng những chuyện ấy chẳng nhỏ-nhặt một tí nào. Lúc ấy, người quả-phụ mới hiểu cái việc trước kia mình cho lã dĩ-nhiên phải đi như thế, sở-dĩ nó dĩ-nhiên đi như thế là vì có một sức mạnh bắt nó phải đi như thế.
Vĩnh chết đi. Vân biết rằng gia-đình mất một sức mạnh chống trời. Nàng không dám ở Lovéa vì nàng xét mình không thể xông-xáo trong rừng- rú và đối đầu với bọn ăn cướp giết người được. Nàng bán nhà cửa đồn-điền rồi về mua một cửa hàng Battambang buôn-bán, yên-chí rằng ở chỗ tỉnh-thành thì chẳng còn phải lo-ngại gì. Mà cũng chẳng còn phải gặp việc gì khó- khăn cản-trở trên sức nàng. Sống ba năm, đứng mũi chịu sào, nàng mới biết sự khó-khăn trở-ngại chính là những công việc nhỏ nhặt thường ngày. Ngày nay, nàng nhìn đời thấu rõ hơn xưa, nàng lại càng kính-phục chồng. Nàng mới biết rõ những công việc của chồng làm xưa kia thì đừng thèm nói đàn-bà, dẫu đàn-ông cũng ít người làm được.
Càng nghĩ càng ngao-ngán, nàng bỗng khóc nức-nở, ruột gan tan nát tưởng chừng như không còn đủ nghị-lực để sống nữa.
Bà Nam-Phát thấy nàng khóc cũng không vào dỗ vì bà đã biết trong những lúc đau-đớn như thế, khóc được thì nó nhẹ những nỗi đau đớn đi.
Bà thấy con thế, bà chỉ thương con mà gạt thầm nước mắt. Vừa lúc ấy thì ba đứa cháu đi học về. Bà liền ôm lấy thằng Hà mà khẽ bảo:
– Cháu vào dỗ mẹ cháu đi.
Thằng Hà vội-vàng chạy vào. Vân hình như bị sự đau-đớn thu hết thần-trí không nghe thấy tiếng giầy của nó. Thằng Hà thấy mẹ nằm phủ-phục trên giường liền lại ôm ngang lưng lôi dậy, áp má vào cổ khẽ hỏi:
– Sao mẹ khóc thế, mẹ nhớ thầy phải không?
Vân thấy con hỏi, càng tủi thân, càng khóc.
Thằng Vũ, thằng Điện cũng chạy vào. Bốn mẹ con cùng ôm nhau khóc.
Bà Nam-Phát thấy thế chạy vào. Trước cái cảnh não-nùng ấy, bà cầm lòng không đậu, ôm chầm lấy con gái vừa khóc vừa than:
– Trời ơi, ba má suốt đời ăn ngay ở thẳng, có làm gì nên tội để cho con mắc phải cái cảnh mẹ góa con côi như thế này!
Lời than ấy bỗng làm cho Vân cảm thấy sự hèn-nhát của mình.
Nàng đã hứa với người chết rằng sẽ can-đảm mà sao bây giờ nàng lại để cho đau-thương đè bẹp như thế này? Mà nào có phải một mình đau-thương.
Cả một đàn con đều bị buồn khổ vì sự đau-thương của mình.
Nàng đã hứa cố thay cha chúng nó mà nay nàng để cho thất-vọng làm mềm yếu như thế này ư? Như thế thì thay làm sao được!
Nàng như có cái cảm-tưởng rằng người chết về trách móc mình. Nàng lại tự thẹn đã có can-đảm giấu không cho các con biết ngày hôm nay là ngày giỗ cha chúng nó, để chúng nó khỏi phải buồn thảm, vẫn cho chúng nó đi học như thường, mà bây giờ, vì sự hèn-nhát của mình để lộ cho chúng biết để chúng nó phải ngậm-ngùi.
Nào đâu là lời hứa: từ nay nàng chỉ sống cho chúng nó, vì chúng nó? Cái bổn-phận của nàng phải chăng là phải tránh cho chúng nó những nỗi đau buồn để cho chúng nó khỏi xót thương vì đã mất người cha yêu quý.
Nàng liền vội lau nước mắt bảo các con:
– Thôi mẹ hết buồn rồi, mẹ trông thấy các con là mẹ hết buồn rồi. Các con đừng khóc nữa mà mẹ buồn đấy.
Rồi nàng vội-vã dắt các con lên gác thay quần áo.
Hai hôm sau, bà Nam-phát thấy con vẫn mặc quần áo xổ gấu liền bảo:
– Ba năm vô-việc rồi, sao con còn mặc những quần áo ấy? Con nên thay đi cho trong nhà trông nó vui-vẻ một tí.
– Con đã nguyện để tang anh con suốt đời thì mẹ bảo thay quần áo làm cái gì. Đời con làm gì còn có thể nói đến vui-vẻ nữa. Anh con chết là vui-vẻ của đời con hết rồi.
– Sao con nói thế, sự buồn-rầu lâu dần rồi sẽ quên đi chứ, con còn trẻ sao đã vội nói những câu phẫn-chí như thế.
Vân mặt rầu rầu bảo mẹ:
– Con trẻ hay con già bây giờ con không nghĩ đến. Con chỉ nghĩ làm thế nào nuôi các cháu cho nó nên người thôi. Con định tháng mười này đưa các cháu về Bắc cho tiện việc học hành.
Bà Nam-Phát giật mình:
– Con về Bắc thì làm gì kiếm ra ăn. Họ hàng nhà con thì đối với chồng con đã huých-tường như thế, còn hòng nhờ cậy gi. Ở đây có ba má…
Vân ngắt lời:
– Con vẫn biết lòng ba má thương con và các cháu, nhưng con chẳng cần mong nhờ ai cả. Con chỉ trông cậy vào con để nuôi các cháu. Nhà con đã dặn phải đem các cháu về Bắc để cho chúng nó theo thầy, theo bạn thì con phải về. Con xem ra ở trong này học-hành, chẳng ra thế nào. Con vẫn biết bây giờ ở trong này con buôn-bán đã quen khách, có cơ kiếm được. Nhưng má tính nếu giầu-có muôn nghìn mà các cháu ngu dốt chẳng ra thể nào thì giàu-có như thế có ích gì. Nhà con suốt đời cố chết làm việc để gây dựng cho các cháu, chỉ nguyện-vọng cho chúng nó thành người khá giả. Chẳng may nhà con xấu số mất đi thì bây giờ cái bổn-phận con là phải làm cho đầy-đủ những nguyện-vọng mà nhà con mong ước cho các cháu. Con đi thì con biết ba má nhớ con lắm, mà con cũng nhớ ba má lắm, nhưng hậu-vận các cháu bao giờ cũng phải đi đầu.
– Vẫn biết thế, nhưng ba con thường nói đất Bắc kiếm ăn khó-khăn lắm, con lạ nước, lạ cái..
– Trước lạ sau quen, chỉ sợ không có chí, chứ có chí thì đâu mà chả kiếm ăn được. Đấy má xem anh con…
– Con bì với anh con thế nào được.
– Vẫn biết con không thế nào theo kịp anh con. Nhưng anh con mất đi, thì con cũng phải cố theo gót anh con để gây-dựng cho các cháu. Con vốn liếng bây giờ cũng có ít nhiều. Con về Bắc rồi con sẽ liệu dần.. Về….thế nào con cũng phải về Bắc.
Bà Nam-Phát ngẫm-nghĩ một lát rồi vùng nắm tay con:
– Con nhất-định ở vậy suốt đời ư?
– ???
– Con nên nhớ trong nhà không có một người đàn ông khó lắm. Má muốn nói với con một điều nhưng vì má thấy con buồn rầu nên má chưa dám nói. Có một người tử tế, danh giá… muốn nhờ má nói với con…
Vân sẽ lắc đầu:
– Con không bao giờ cải giá. Người tử-tế, danh-giá đến đâu con cũng không màng.
– Nhưng con nên nghĩ xa một chút. Không có một người đàn-ông trong nhà thì khó lắm.
– Con biết lắm, ba năm nay không có anh con, con há lại chẳng biết những sự khó khăn ở đời sao ; không có đàn-ông, con sẽ là đàn-ông. Thôi má đừng nói nữa. Thứ nhất là trong lúc này, vong-hồn anh con còn phảng-phất ở đâu đây…
– Má có dám bảo con nên quên anh con đâu. Má vì lo cho hậu-vận con mà nói đấy.
– Con biết lòng má thương con mà nói thế. Nhưng con xin thưa để má biết con vì lo cho hậu-vận các cháu mà nhất định ở vậy một đời. Từ khi con có con, con lại càng rõ lòng má thương con lắm. Nhưng ngày nay, các cháu chỉ còn mình con ở trên đời, con không thể …
– Nhưng người ấy cũng thương chúng nó như con thì con bảo sao?
– Con bảo rằng không có thể. Mà dù có như thế nữa, con cũng không muốn bắt chúng nó phải chịu một cái nhục gọi người khác không đẻ ra chúng nó bằng Cha. Cha chúng nó chết đi, con bây giờ là cha chúng nó. Má không xem những cảnh dượng ghẻ đối-xử với con riêng vợ đó sao. Có ra thế nào! Mà ví dù quả có một người yêu được các cháu như cha nó xưa kia thì lòng con ngày nay cũng đã chết. Con không thể yêu ai ngoài các cháu. Con không có quyền để cho người khác cướp phần yêu-đương trong lòng con đối với các cháu. Con không thể âu-yếm một người trước mặt các cháu. Con không thể để cho các cháu phải buồn-rầu vì nhìn thấy người khác chiếm cái địa-vị của cha nó xưa kia. Con không muốn để cho các cháu phải nhờ vả và vâng theo mệnh lệnh một người khác ngoài cha nó và con. Má đừng nói nữa, con không bao giờ lấy chồng khác. Anh con chết đi, con ấp-ủ cái hình-ảnh anh con suốt đời ở trong lòng để cho có đủ nghị-lực phấn đấu nuôi nấng các cháu.
– Thì con đã biết người ấy là ai mà con cứ từ -chối bai-bải. Người này khá lắm và yêu con lắm.
Ông…
– Má đừng nói tên. Ví dù cái người ấy là một ông hoàng giầu mãn thiên-hạ, trẻ đẹp như sao băng, con cũng chẳng thiết. Con đã bảo với má rằng lòng con chết rồi, con chỉ sống vì các cháu, cho các cháu mà thôi.
Bà Nam-Phát biết ý con đã quyết nên không nói nữa, nhưng đến đêm, trong khi mẹ con trò chuyện, bà lại thủ-thỉ:
– Má thường nghe người ta nói những đàn-bà góa chồng ở vậy lâu năm là hay sinh ra lắm chứng bệnh lắm. Má chỉ lo cho con có thế thôi. Ba con nói chuyện với má xưa kia có một người ở Cao-lãnh góa chồng năm hai mươi hai tuổi. Rồi ở vậy được bốn năm bỗng mắc chứng điên. Thầy thuốc án-mạch bảo chứng ấy là sa-hoa-phong chỉ lấy chồng mới khỏi, chứ chẳng có thuốc gì chữa được. Nếu không lấy chồng thì mắc chứng điên cho đến năm quá bốn mươi. Trong khi máu huyết sung-túc không có người đàn-ông thì lắm cái lôi-thôi lắm.
– Thế người ấy có lấy chồng không?
– Có, lấy chồng thì khỏi liền.
– Thế người ấy có con không?
– Có, hai đứa.
– Thế thì người ấy còn xoàng lắm. Có lẽ người ấy chẳng yêu chồng, yêu con nên mới tơ-tưởng những chuyện tầm bậy, tầm bạ.
– Con chưa nên nói chắc trước. Biết đâu.. À, trong ha năm, con có thấy bao giờ trong người khó chịu không?.
– Chả bao giờ. Má tính làm việc cả ngày, tối đến hú-hí với các cháu, dạy các cháu học. Mệt là ngủ tít, còn lúc nào để… khó chịu nữa. Có lẽ những người đàn-bà góa chồng mà sở dĩ không chịu được, phải lấy chồng là vì họ không có một mục đích gì về đời sống của mình. Con có cái mục-đích và một cái bổn-phận người chết trao cho con là nuôi dưỡng các cháu, nên con vì say-sưa với nhiệm-vụ mà có thể quên đi những cần dùng của xác-thịt. Con xin thưa để má biết, ví dù con không thể quên đi được, con cũng cố thắng những cái ràng-buộc ti-tiện như thế. Con phải nghĩ đến cái bổn-phận thiêng-liêng của kẻ làm mẹ là phải hy-sinh hết đi cho con. Cái phần sung-sướng của con ngàỵ nay là khi nào được trông thấy các cháu sung-sướng. Con vẫn biết má thương con nên mới nói với con như thế. Nhưng con nghĩ sự yên-vui của các cháu về sau này còn cần hơn là những sự thỏa-mãn của con. Nghĩ rằng vì mình ham vui, ham sướng, vì mình ích-kỷ để cho các cháu phải buồn-rầu thì con tưởng như thế là đáng khinh-bỉ lắm. Con còn mặt mũi nào nhìn thấy anh con nữa. Con con mặt mũi nào trông thấy các cháu nữa. Cái vinh-dự làm mẹ còn gì nữa. Cái giá cao quý của kẻ làm mẹ có phải chỉ ở chỗ đẻ con ra đâu. Cải bổn-phận thiêng-liêng của kẻ làm mẹ có phải chỉ là nuôi con đâu. Con là mẹ chúng nó, con phải tránh cho chúng nó những đau-đớn về tinh-thần có thể xảy ra sau này. Con phải cư-xử làm sao cho sau này chúng nó nhớn lên khỏi phải tủi-thẹn vì con. Má cứ yên tâm con không bao giờ mắc chứng sa-hoa-phong đâu.
Bà Nam-Phát không nói sao được đành im. Nhưng bà vẫn chưa thất-vọng. Trước khi về bà lại bảo Vân:
– Má chỉ sợ khi con về Bắc, nhỡ ốm đau không làm ăn gì được, có phải các cháu phải nheo-nhóc không. Má vẫn biết lúc khỏe-mạnh bình-thường thì không sao, nhỡ khi trời long đất lở thì làm thế nào. Con lấy được một người chồng tử-tế có phải những lúc ấy có chỗ nương-dựa không. Người này là một người tử-tế người ta yêu-thương con lắm.
– Người ta yêu-thương con, nhưng con không thể yêu-thương ai cả ngoài các cháu ra thì má bảo thế nào. Ôi, nếu cứ nghĩ chuyện đường dài thì chán vạn sự nguy-hiểm. Ta là người, ta cứ làm cho hết việc người, còn việc giời thì biết đâu mà lường được. Làm cho đầy đủ bổn-phận làm người, đến đâu hay đấy. Cái bổn-phận của con lúc này là phải nghĩ đến sự yên-vui của các cháu trước. Con không có quyền nghĩ đến con. Con tưởng giá má thương con thì nên giúp con lo cho tròn bổn-phận. Má nêu chi ra những viễn-tượng hãi-hùng để cho con nản chí ngã lòng.
– Giá như người khác thì má cũng chẳng nói làm gì Nhưng người này thì má tiếc lắm. Má chỉ sợ sau này có một lúc lòng con thay đổi thì không bao giờ con còn có thể gặp được một người như thế nữa. Người ấy chắc con cũng biết…
– Má đừng nói tên. Tên cũng vô-ích. Trừ phi nhà con sống lại, chứ con không thể chung-chạ được với ai.
– Con nói con nghĩ đến hậu-vận. Má thiết tưởng nghĩ đến hậu-vận thì phải biết lo xa. Ví dụ con gặp một người khá-giả giúp con dạy dỗ các cháu thì có phải càng lợi không. Chứ một đàn con như thế, không có một người đàn-ông đưa dắt, má thiết-tưởng cũng khó-khăn rầy-rà lắm. Má ví dụ bây giờ như con ốm liệt giường thì làm thế nào, ai trông nom thuốc thang cho con, ai kiếm miếng nuôi các cháu?
Vân tái mặt, rồi run lên:
– Nếu có cơ sự như thế thì là giời giết con và các cháu. Giời đã giết thì không tài nào tránh được. Chứ làm người, làm mẹ, con hẵng cứ biết lo chuyện bổn-phận làm người, làm mẹ.
Tiếng giầy nện thình-thình trên thang gác. Thằng Hà, thằng Vũ, thằng Điện cười như nắc nẻ chạy xuống:
– Mẹ ơi, mẹ viết chữ cho em tô, anh Hà viết xấu lắm.
– Mẹ à, nó tô mỗi nét như cái que củi mà nó lại bảo con viết xấu. Mẹ lên nhìn sách nó mà xem.
– Mẹ lên dạy con đánh vần, con không bằng lòng để anh Hà dạy. Anh Hà dốt lắm.
– Mày chưa biết đánh vần mà mày chê tao dốt.
Thằng Hà nói xong củng lên đầu thằng Vũ rồi chạy. Thằng Vũ toan đuổi theo đánh thì Vân đã vội nắm lấy nó:
– Con đừng đánh anh, mày cứ lười học và cãi nhau thì mẹ giận, mẹ buồn đấy. Lên gác hoc đi chóng ngoan.
Vừa nghe nói đến mấy tiếng mẹ giận, mẹ buồn, ba đứa đường lí-láu bỗng im bặt rồi dắt nhau lên gác.
Vân quay lại bảo bà Nam-Phát:
– Đấy má xem, cảnh con tuy góa bụa nhưng vẫn êm-đềm như thế đấy. Con không thể đem một người đàn-ông vào đây để phá rối sự hạnh-phúc của các cháu và…của con. Má tưởng con không sung sướng, ư? Con sung-sướng lắm chứ. Sung-sướng vì các cháu sung-sướng.
Bà Nam-Phát về Siemreap được một tuần-lễ thì Vân nhận được một bức thư của Tùng gửi đến:
Siemreap, le …..
Thưa bà,
Trước khi cầm bút, tôi xin bà hãy rộng lòng tha cho tôi cái tội đường-đột và bà hãy dằn lòng đọc hết bức thư.
Cụ đã nói cho tôi rõ cái ý-định của bà là không bao giờ tái-giá. Nhưng tôi vẫn hy-vọng rằng ý-định ấy một ngày kia bà sẽ thay đổi, nếu bà biết bà đã được tôn-thờ bằng một tấm lòng sốt-sắng của một người đã đem đặt hạnh-phúc của bà và các con bà lên trên hạnh-phúc của đời mình.
Cụ nói với tôi rằng cụ chưa nói tên cái người ao-ước được làm bạn với bà cho bà biết bà nhất định không muốn nghe. Vì lẽ đó tôi mới dám mạo-phạm viết cho bà bức thư này mong rằng tấm lòng cung-kính của tôi đối với bà trong bấy lâu sẽ có đủ mầu-nhiệm làm cho bà nghĩ đến sự tái-giá một cách không sợ hãi.
Có phải bây giờ bà chưa muốn tái-giá thì tôi xin chờ. Ba năm, năm năm, tôi cũng có can-đảm được. Với một tấm lòng yêu, như tôi yêu bà, thời gian không có nghĩa gì. Miễn là bà cho tôi một hy-vọng.
Tôi xin đoan với bà rằng tôi sẽ yêu các con bà như con tôi đẻ ra. Tôi sẽ làm hết những việc mà cha chúng nó nếu còn sống sẽ làm cho chúng nó. Tôi sẽ chỉ nghĩ đến chúng nó mà hy-sinh hết những hạnh-phúc riêng của mình đi.
Xin bà đừng sợ tôi ghẻ lạnh. Khi nào mà lòng tôi khởi lên một cảm-tình khốn-nạn như thế, tôi sẽ lấy dao rạch nát lòng tôi ra.
Vẫn hay rằng bà vì bổn-phận mà phải hy-sinh hạnh-phúc riêng của mình đi cho các con, nhưng tôi thiết-tưởng một người đã yêu chúng như con thì sự tái-giá của bà chẳng làm giảm gì hạnh-phúc của chúng cả. Trái lại, hậu-nhật của chúng lại vì thế mà vững thêm.
Tôi vẫn biết bà là một người không ích-kỷ, bà là một mẹ hoàn-toàn, bà chỉ nghĩ đến các con bà, nhưng bà còn trẻ, bà cũng có quyền nghĩ đến hạnh-phúc riêng của mình một chút – mà như thế cũng không có gì là trái đạo với người đã khuất, miễn là không có gì trở ngại đến hạnh-phúc của con bà thì thôi. Bà gầy cho chúng một tương-lai chắc-chắn, bà đem đến một chút hạnh-phúc cho tôi là người tôn thờ bà âm-thầm trong bao nhiêu lâu mà chẳng hề rỉ răng vì kính-trọng tấm lòng làm mẹ thiêng-liêng của bà.
Nếu trong lúc này, mà tôi đả-động đến tấm lòng yêu bà chắc bà cho tôi là ích-kỷ, nhưng với tấm lòng chân-thành tôi thờ kính bà, xin bà đại-lượng đối với tôi một chút.
Tôi vốn biết tấm lòng bà sợ sự tái-giá như thế mà tôi phải buộc lòng nói ra, tôi lại biết rõ rằng nếu bà không thuận, thì cái kỷ-niệm về tôi sẽ bị xua đuổi khỏi tâm-trí bà một cách ghê tởm, thế mà hôm nay tôi phải buộc lòng nói ra thì bà cũng rõ tấm lòng tôi yêu bà nó mạnh quá rồi,không thể cầm được nữa.
Bà lại nên nhớ tấm lòng ấy không đột-khởi lên bởi dục-vọng trong chốc lát mà là tấm lòng tôn-thờ muôn đời. Bởi nếu vì dục-vọng trong chốc lát thì trong mấy năm, tôi đã quên đi được rồi.
Tôi không thể quên mà chắc-chắn là suốt đời tôi, tôi cũng không thể quên, vậy mong bà đoái thương mà ưng lời tôi yêu-cầu thì bà đã tạo ra một đời hạnh-phúc cho tôi đó.
Tôi tin rằng nếu bà không ưng-thuận thì suốt đời tôi sẽ bị đen tối, không còn biết lạc thú là gì. Tôi sẽ phải sống với một đau buồn không có sức mạnh gì làm cho mất đi được.
Nay kính thư,
Tùng
Vân xem bức thư cũng bồi-hồi ái-ngại cho người đã yêu mình, nhưng bổn-phận làm mẹ, tấm lòng lo hậu-vận cho con bắt nàng phải từ-chối thì làm thế nào.
Thương Tùng thì có thương, nhưng yêu? Nàng không thể yêu ai ngoài người đã khuất. Mà ví-dụ có yêu, nàng cũng không thể vì lòng ích-kỷ mà hi-sinh cả một đời hạnh-phúc của các con. Nàng liền lấy giấy viết cho Tùng một bức thư.
Battambang, le….
Ông Tùng,
Tôi xin thú thật rằng bức thư của ông đã làm cho tôi cảm-động và tôi xin cám ơn ông đã có một tấm lòng tốt đối với tôi như thế.
Nhưng tôi là mẹ, bây giờ tôi là mẹ, tôi chỉ có thể làm những việc mà bổn-phận làm mẹ sai bảo tôi làm thôi. Bây giờ, tôi chỉ còn một hạnh-phúc: hạnh-phúc của đàn con tôi.
Không phải tôi bị nô-lệ những thành-kiến cổ-hủ hay tiếng-tăm hão-huyền mà từ-chối lời ông yêu-cầu đâu.
Tôi từ-chối vì hai lẽ: lẽ thứ nhất, sự tái-giá của tôi có hại cho sự yên vui về tinh-thần của đời các con tôi; lẽ thứ hai, tôi không yêu mà cũng không có thể yêu ai ngoài người chồng đã khuất.
Như thế thì lấy ông, chẳng những tôi làm khổ cho các con tôi mà cũng làm khổ cho ông nữa.
Xin ông đừng đem những viễn-tượng rực-rỡ về tương-lai mà cám-dỗ tôi, tôi không động tâm, bởi vì ngoài sự gây dựng cho các con tôi và kỷ niệm của người đã khuất, thì ở đời này không còn cái gì có thể làm cho tôi động tâm nữa.
Không phải rằng tôi không tin lời ông nói rằng sẽ yêu các con tôi như con ông đâu. Cho dù có thế, thì hạnh-phúc của đời chúng nó cũng bị giảm. Là mẹ, tôi không thể để cho một khác san-sẻ cái tình yêu của chúng, tôi không thể bắt chúng gọi một người khác ngoài cha chúng bằng cha, tôi không thể để cho chúng chịu cái nhục nhờ vả một người khác.
Ông thành-thực, tôi cũng thành-thực. Ông bảo ông có thể thay cha chúng ư? Cha chúng thì không thể thay được, vì một lẽ rất thường: thay một cái quần, cái áo, chứ không thể thay một người cha. Trời đã đặt bầy ra thế, biết làm sao.
Tôi vẫn biết ông có bụng quý tôi và thành-thực muốn mưu hạnh-phúc cho đàn con tôi, nhưng tôi, tôi không thể đáp lại lòng ông vì những lẽ tôi đã nói ở trên. Xin ông đừng hi-vọng gì và từ nay mong ông đừng thư-từ gì cho tôi nữa, nó chỉ làm bận lòng ông và lòng tôi ra mà thôi. Một người mẹ cầu xin ông như thế đó.
Sau đây xin cám ơn tấm lòng tử-tế của ông đã đối xử với gia đình tôi.
Nay kính thư,
Vân
Vân viết thư giả nhời được sáu hôm thì bỗng một buổi tối, vào khoảng bảy giờ,Tùng lù-lù đến. Lúc ấy Vân đang ngồi tính sổ ở cửa hàng, thấy Tùng đến, nàng cau mày tỏ ra vẻ khó chịu. Tùng thấy thế sợ hãi:
– Tôi xin lỗi bà… nhân tôi có việc đi qua đây… tiện thể vào thăm các cậu.
Vốn là người lịch-sự, gia-dĩ cũng cảm-động về chỗ Tùng quá yêu mình, nên biết Tùng sợ mà nói dối, Vân cũng không nỡ thẳng tay. Ít nhất, người ta cũng có công thang thuốc cho con mình.
– Cám ơn ông, các cháu vẫn chơi cả, mời ông vào nhà trong, để tôi cho gọi các cháu xuống,
Qua một khắc sửng-sốt, Vân lại bình-tĩnh ngay; nhưng Tùng thì rối loạn, muốn nói mà không biết nói gì. Vừa may, lúc ấy vú già đã lên gác gọi ba đứa con Vân xuống.
Khi thằng Hà, đến bắt tay Tùng. Tùng bỗng ôm chầm lấy nó khóc nức-nở. Vân sẵn có từ-tâm, nên trông thấy sự thất-vọng của một người, nàng cũng thấy lòng mình rạo-rực.
Thằng Hà thấy Tùng khóc, chẳng hiểu làm sao, chỉ đứng ngó chàng rồi nó hỏi:
– Ai làm gì ông mà ông khóc?
Tùng lại càng nức-nở. Vân thấy thế sợ các con có hoài-nghi điều gì chăng, liền bảo thằng Hà:
– Tại ông Đốc thấy mẹ con mình vài tháng nữa về Bắc, nên ông nhớ các con mà khóc đấy.
Rồi sợ trong lúc quá đau-đớn, Tùng có bồng-bột nói ra điều gì có thể gieo mối ngờ-vực vẩn-vơ vào óc các con mình, nàng liền bảo chúng lên gác.
Chúng vừa đi, vừa quay lại ngó Tùng. Khi chúng đã lên gác rồi, Vân liền ôn-tồn bảo Tùng:
– Tôi không phải dám trách ông đâu, nhưng cái cử-chỉ của ông có điều phương-hại đến thanh-danh gia-đình nhà tôi…
– Nhưng thưa bà…lòng tôi…
– Tôi hiểu… Đã từng yêu…tôi cũng rõ biết
– Bà đã rõ biết, sao bà..
– Thì tôi đã nói cho ông biết mọi lẽ trong bức thư, sao ông còn cứ theo đuổi làm gì. Tôi đã bảo bây giờ, tôi chỉ sống cho các con tôi, vì các con mà thôi.
Sự thất-vọng làm cho Tùng đâm liều, chàng tiến đến:
– Xin bà thương tôi, thương cái đời tôi…
Rồi Tùng giang tay toan nắm tay Vân, Vân liền co tay lại:
– Ông nên nhớ tôi là một người mẹ. Ông không được phạm đến lòng tôn-kính của các con tôi đối với tôi.
Lại trỏ bức ảnh phóng-đại của Vĩnh treo trên tường:
– Ông không được vô lễ đối với.. linh-hồn người chết.
Giọng nói nghiêm-khắc làm cho Tùng sợ hãi và mồ hôi ra như tắm. Đầu gối run run, chàng trở về ngồi vật xuống ghế, mặt tái mét môi xám ngắt.
Vân còn giận:
– Ông nên nhớ người chết đang nhìn chúng ta.
Tùng ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào ảnh người chết, rồi đứng dậy. Tinh-thần yêu-đương phát-lộ ra mặt lúc ấy làm cho chàng đẹp đẽ bội-phần. Sự phấn khởi không biết từ đâu đến:
– Người chết, bà cứ nói đến người chết, nếu người chết có sống lại đến đây, cũng không có điều gì quở trách tôi, vì người sẽ chứng-minh cho tôi rằng: tôi yêu bà quá mà bản tâm tôi chỉ là muốn gây hạnh-phúc cho các con bà.
Rồi nhìn Vân:
– Tôi xin lấy hết những thiêng-liêng ở trên đời mà thề như thế, nếu tôi nói sai xin người chết và thần-minh đừng để tôi sống, vẫn hay rằng bà phải tôn-thờ kỷ-niệm của người chết, nhưng gây hại cuộc đời vì bà còn trẻ-trung, xây thêm những nền-tảng chắc-chắn cho các con bà, chẳng có cái gì là thóa-mạ đến kỷ-niệm của người chết cả. Nếu có phải tôi đến đây với mặt sự tà-tâm thì vâng, bà trách-phạt là phải lắm. Nhưng tôi đến đây với tất cả tấm lòng thờ-kính chân-thành; xin bà nghĩ lại. Đối với gia-đình bà, tôi chỉ ao ước được thay….
Tùng nói đến đây Vân trỏ tay lên bức ảnh:
– Thì tôi đã bảo ngài: người chết không thể thay được. Ngài hãy nhìn, một người quả-cảm như thế kia, khí-phách như thế kia, có thể thay được ư?
– Thưa bà, bà hiểu lầm ý-nghĩa câu nói của tôi. Tôi có dám ví mình với ông Vĩnh đâu. Tôi nói rằng bao nhiêu tấm lòng yêu-đương của người chết đối với bà, đối với các con bà, tôi thấy có ở trong người tôi mà thôi. Bà có tin cho tôi như thế không?
– Tin, tôi có phải chờ bây giờ mới tin như thế đâu.
– Thế bà…
– Thì tôi đã bảo với ngài rằng tấm lòng tốt của ngài đối với gia-đình tôi chỉ có hại cho sự yên vui tinh-thần của các con tôi mà chẳng bổ ích gì. Chẳng những thế, nó chỉ làm khổ cho ngài…
– Thì tôi cam chịu khổ.
– Nhưng tôi, tôi không thể để cho các con tôi khổ. Tôi không thể để cho các con tôi nhìn thấy một người khác đến tranh cướp tình yêu của chúng ở trong lòng mẹ chúng.
– Tôi có tranh cướp đâu, tôi chỉ xin bà cho được quyền yêu chúng và gây dựng cho chúng.
Vân sẽ lắc đầu:
– Không thể được. Các con tôi thấy một người khác đến chiếm cái địa-vị của cha chúng thì chúng nghĩ ra sao? Ngài nói đến gây dựng, nhưng ngài hiểu sự gây dựng thế nào. Có phải cho chúng ăn hai bữa, cho chúng quần lành áo tốt, cho chúng đi học là gây dựng đâu. Ngài hiểu hẹp-hòi quá. Đó chỉ là vấn-đề vật-chất nó chẳng có nghĩa gì đối với sự đau-đớn tinh-thần mà tôi sẽ gây ra cho chúng nếu một ngày kia chúng thấy… một người khác không phải cha chúng ….
Tùng vừa muốn cãi thì Vân đã nói lấp:
– Mà tôi thì không yêu ngài, tôi không thể yêu ai, ngài cứ làm cho tôi phải bận lòng mãi.
Giọng nói tức-bực, gay-gắt làm cho tiêu-tan tấm lòng bồng-bột của Tùng.
– Thôi thế, tôi xin lỗi bà, tôi thật là một người xấu số. Tôi thật đã gây ra cho bà bao nhiêu sự khó chịu. Tôi tưởng tấm lòng chân-thành của tôi có thể lay-chuyển được lòng bà. Ai ngờ lòng bà không có gì có thể lay-chuyển được. Thôi tôi xin lỗi bà. Cái số-kiếp buồn-thảm của tôi đã như thế, đành vậy!
Rồi cúi đầu một cách chán-nản:
– Bà còn có con để khuây-khỏa, chứ tôi thì lấy gì mà khuây khỏa được!
Thấy Tùng quá đau-đớn, Vân thương hại:
– Trời đã định sẵn rằng chúng ta mỗi người đi một con đường đành vậy.
Tùng đứng dậy toan từ-giã nhưng lại ngồi xuống:
– Bao giờ bà đưa các cháu về Bắc?
– Vài tháng nữa.
– Hay tại tôi đến làm phiền-lụy bà nên bà…
– Có phải thế đâu.
– Nếu có phải thế thì tôi xin rằng từ nay tôi sẽ không bao giờ bước chân đến tỉnh Battambang này và nếu gặp bà ở đâu tôi xin tránh mặt. Như thế thì bà sẽ được vừa lòng, bởi vì bà còn ở xứ Cao-mên, tôi dầu không được gặp bà, tôi cũng có cái cảm-giác là được gần bà một chút….
– Không phải thế. Tôi sở-dĩ phải buộc lòng xa ba má tôi mà về Bắc là một xứ tôi không quen biết ai cả cũng chỉ vì nhà tôi, khi lâm-chung đã dặn phải đưa các cháu về đấy học-hành mới có cơ nên người được. Nay các cháu đã lớn, tôi phải tuân theo ý muốn…
– Thế bà không sợ những sự chẳng may xảy ra ở một nơi mà bà không có ai có thể nhờ-cậy được ư?
– Nhời người chết dặn là thiêng-liêng.
Tùng trầm ngâm một lát, rồi bảo Vân:
– Tôi … tôi thấy bà…. vẫn hay rằng không có tư cách gì để ngăn cản bà… nhưng giá bà cứ ở đây, rồi gửi các cậu ấy về Bắc học, tôi có lắm bà con ở ngoài ấy,
– … Mẹ bao giờ cũng phải ở gần con. Thứ nhất ngày nay cha chúng nó đã không còn để săn sóc chúng nữa.
☆
Hôm ấy, gió to. Mặt bể sóng gầm, những đám mây xám từ phương Bắc bay là-là về phương Nam. Mầu nước đen vàng. Mặt giời không trông thấy.
Tầu Claude Chappe bị sóng đánh chồng-chềnh làm cho hành-khách đều ngây-ngất.
Trên “pông” bày ra một cảnh hỗn-độn. Chỗ này một đống hòm xiểng, chỗ kia một túm người, ai cũng nhìn giời, nhìn mặt bể một cách sợ hãi.
Bí-mật. Giời, nước, không khí bị rung-chuyển bởi một sức bí-mật.
Ai ai cũng hồi-hộp chờ như lo có một cái gì ghê-gớm ở lưng giời sa xuống, ở mặt nước phá lên. Sóng đánh vào mũi tầu có khi làm bắn tóe nước lên trên “pông”.
Trong con mắt mọi người, ta như nhìn thấy một cái gì ngơ-ngác, hãi-hùng.
Ngơ-ngác, hãi-hùng nhất là một thiếu-phụ ôm ba đứa con ngồi nép vào bức tường gỗ sơn trắng hạng ba, gần lái.
Chốc chốc thiếu-phụ lại nhìn giời, nhìn nước, nhìn tầu rồi nhìn con.
Mấy hạt mưa bắt đầu rơi xuống những đợt sóng bạc đầu.
Bỗng một tràng sét dữ-dội chuyển động không-trung, tiếng động dội vào lòng người.
Ba đứa bé ôm chầm lấy mẹ. Đứa nhỏ khóc thét lên.
“Có sấm, có lẽ không bão, không bão ”.
Câu ấy từ một người nói ra, rồi chạy trên miệng suốt những người ngồi trên “pông” như một luồng điện.
Thiếu-phụ nghe được câu ấy bỗng thấy bớt sợ, hôn con rồi lẩm-bẩm:
– May không có bão.
Một trận mưa rào đổ xuống. Một làn mưa bị gió hắt vào làm cho ba mẹ con ướt hết áo. Thằng bé nhỏ lại càng ôm chặt lấy mẹ.
– Con hẵng ra ngồi cạnh anh Hà để mẹ lôi hòm và va-li vào gần đây không ướt hết.
Thằng bé cứ ôm nhằng-nhẵng lấy không buông.
– Thế anh Hà và anh Vũ chịu khó lôi vào giùm mẹ vậy.
Hai thằng bé lảo-đảo đứng dậy, nắm lấy cái hòm da lôi, nhưng chúng nó bé mà cái hòm da thì to, lôi không nổi.
Liền lúc ấy, một thiếu-niên nấp ở đằng lái vội vàng chạy lại:
– Để tôi đỡ các cậu nào.
– À, ông Đốc!
– À, ông Đốc í
Thiếu-phụ thấy người thiếu-niên bỗng sa sầm mặt lại. Thiếu-niên bê mấy cái hòm và va-ly để áp vào mạn tường rồi tát yêu vào má hai đứa trẻ:
– Các em đừng sợ. Mưa một chút rồi lại tạnh ngay.
Rồi nhìn thiếu-phụ:
– Anh Điện sợ lắm hay sao mà ôm lấy mẹ riết thế kia?
Thiếu-niên không thấy thiếu-phụ nói gì, ngượng-nghịu toan đi, nhưng không biết sau nghĩ-ngợi thế nào lại ngồi xuống mặt hòm. Thằng Hà, thằng Vũ sán đến:
– Ông Đốc cũng về Bắc đấy ư? Sao hai hôm nay tôi không thấy?
– Bao giờ thì về đến Bắc hở ông?
Thiếu-niên xoa đầu chúng:
– Độ một ngày một đêm nữa.
– Những một ngày một đêm nữa cơ à? Lâu thế! Thế ông cũng ở Sài-gòn lên đây phải không? Sài-gòn to nhỉ, đẹp nhỉ.
– Hà-nội còn to hơn, đẹp hơn.
– Thế Hà-nội là Bắc phải không?
Thằng Hà đập vào tay em.
– Cậu học giỏi nhỉ.
Thiếu-phụ chỉ nhìn thiếu-niên ngồi nói chuyện với hai con mình mà không nói gì.. Thiếu-niên có cái cảm-giác là có hai con mắt nhìn vào mình nên càng không dám nhúc-nhích.
– Hai cậu trông bể có đẹp không?
– Đẹp gì, tối om-om..
– Mưa thì đừng tối ư? Chốc nữa tạnh mưa trông đẹp lắm..
Thằng Điện đang ngồi lòng mẹ thấy hai anh nói chuyện vui vui cũng nhổm dậy, sán đến. Thiếu-niên giơ tay ôm choàng lấy nó như muốn được …lấy một chút hơi nóng của thiếu-phụ. Thiếu-niên hôn nó rồi hỏi:
– Cậu có sợ không?
Thằng bé gật đầu trỏ tay lên giời.
– Có tôi đây rồi, cậu đừng sợ.
Rồi mạnh bạo quay lại thiếu-phụ:
– Thưa bà, bà có say sóng không ạ?
– Cảm ơn ông, tôi bận trông nom các cháu nên quên không biết rằng mình có say sóng hay không.
Một phút im lặng, hai người cùng im lặng, một thứ im lặng nặng-nề.
Thiếu-niên thấy khó chịu vội bế thằng bé đứng dậy toan đưa nó lại chơi đằng lái, nhưng thằng bé không bằng lòng, tụt xuống chạy lại với mẹ
Thiếu-phụ bế nó rồi hỏi:
– Con có đói không?
Thằng bé gật đầu.
Thiếu-phụ lấy một hộp sữa tươi, lấy dao mở rồi đổ vào cốc.
Thằng Hà, thằng Vũ lúc ấy cũng sán đến đòi ăn.
– Để chốc nữa tạnh mưa, mẹ lại đằng bếp mua bánh Tây cho các con.
– Chúng con ăn bây giờ cơ.
Thiếu-phụ chưa kịp giả nhời thì thiếu-niên đã vội vàng chạy đi mua. Một lát chàng đem mấy chiếc bánh và một hộp thịt ướp lại.
Thiếu-phụ không bằng lòng:
– Ông chiều các cháu thế, ông mua mất bao nhiêu, để tôi xin giả lại tiền ông.
Thiếu-niên không giả nhời, chỉ ngước mắt lên nhìn thiếu-phụ một cách cầu khẩn.
Thằng Hà, thằng Vũ ăn xong thì vừa tạnh mưa. Gió lúc ấy đã bớt mạnh.
– Thế là giời không có bão nữa.
Thiếu-niên nói bâng quơ như thế. Thiếu-phụ lúc ấy cũng hình như theo đuổi một tư-tưởng gì ở trong lòng:
– Ừ không có bão…
– Tôi thấy giời trở gió mà lo cho bà và các cháu.
– Cám ơn ông.
Rồi hình như cảm-động vì tấm lòng lo-lắng của Tùng đối với đàn con mình, thiếu-phụ liền hỏi:
– Ông cũng được đổi ra Bắc đấy ư?
– Không.
– Thế ông ra có việc? Sao mấy hôm tôi không trông thấy ông ở trên tầu?
– Tôi…tôi sợ bà biết, bà phiền lòng, nên tôi trốn không dám cho bà nhìn thấy… Lúc thấy các cậu ấy lôi cái hòm, tôi cầm lòng không được.
Vân cúi mặt ngẫm-nghĩ không giả nhời. Thằng Hà, thằng Vũ ăn no, liền nằm xuống cạnh mẹ ngủ. Thiếu-phụ xoa đầu rồi lấy cái chăn mỏng đắp cho chúng nó.
– Sao bà không đi hạng ba, lại đi “pông” có phải vất-vả các cậu không?
– Đi “pông” thì chỉ có tôi là phải trả tiền, các cháu không mất tiền. Tôi cần phải để dành tiền cho các cháu ăn học.
– Bà về Bắc không đem ai đi hầu hạ, thế khuân vác hòm xiểng lên tầu, xuống tầu làm sao?
– Thuê.
– Còn các cậu ấy, diệu-vợi và mệt nhọc bà quá nhỉ?,
– Đành vậy, biết làm sao! ông ra Bắc đến bao giờ ông lại vào?
– Không biết…
Thiếu-phụ trố mắt:
– Thế ông được nghỉ mấy tháng?
– Tôi cũng không biết.
– ???
– Tôi cứ đi, rồi viết giấy xin nghỉ.
– Nếu người ta không bằng lòng cho nghỉ?..
– Thì tôi thôi đi làm..
– Tại làm sao ông lại thế? tôi đã nói rõ với ông rồi cơ mà.
Tùng hình như không cầm nổi được lòng nữa:
– Tôi vẫn biết thế. Những khi tôi tưởng-tượng bà ra Bắc một nách ba con mọn, lai có một mình, tôi không thể chịu được… bà nên thì thương tôi… Đấy, bà coi… trong khi đi đường, không có… một người đàn-ông….
– Sao ông cứ nhắc mãi câu ấy. Tôi biết như thế đã lâu rồi, nhưng cảnh-ngộ tôi …
– Bà đã rõ tấm lòng tôi đối với bà… không hiểu làm sao tôi thấy muốn đâm đầu xuống bể… Bà đừng quá nhẫn-tâm… bà đừng… Nếu bà từ-chối thì tôi chỉ còn có một việc đâm đâu xuống bề.. Tôi đã có gan bỏ việc vì bà thì tôi cũng có gan…
Vân nhìn Tùng bằng một con mắt đầy trách móc:
– Sao ông lại nói thế?
– Thì tôi không thể sống được nữa, bà bảo sao. Bà muốn cho tôi chết, thì đây tôi xin chết trước mắt bà.
Nói xong, Tùng nhỏm dậy. Vân vội-vàng nắm lấy, bắt ngồi xuống cạnh mình.
– Ông muốn cho tôi có một cái án mạng trên lương-tâm?
– ….
– Phải, tôi cũng biết người ta lắm lúc quá thất-vọng, không muốn sống nữa thật đấy. Nhưng muốn chết mà nhiều khi cũng vẫn phải sống là vì… Nếu tôi không có các cháu, thì có lẽ sau khi nhà tôi mất, tôi chẳng còn sống đến ngày nay. Lấy gì mà sống? Nhưng tôi vẫn phải sống là vì tôi có các cháu.
Rồi nhìn thẳng vào mặt Tùng:
– Ông yêu tôi lắm phải không?
Tùng nắm chặt lấy tay Vân mà không giả nhời. Vân cũng chẳng rút tay lại, chỉ lắc đầu một cách chán-nản mà bảo Tùng:
– Tôi không ngờ tấm lòng ông, nhưng ông yêu một cách hẹp-hòi ích-kỷ quá. Ông chỉ nghĩ đến ông, sự hạnh-phúc của ông. Ví dụ, có vì tôi mà ông phải chết, thì tôi cũng đành để ông chết chứ không thể nhận lời được.
Rồi trỏ đàn con:
– Trước hết tôi phải vì chúng nó… nghĩ đến chúng nó mà không thể vì ông, nghĩ đến cái chết của ông được. Ông bảo ông yêu. Nói rằng ông chỉ yêu ông thì đúng hơn.
Tùng buông tay Vân ra, toan cãi..
– Ông hẵng lặng yên nghe tôi nói. Bao giờ ông có yêu tôi như tôi yêu các con tôi thì mới gọi là yêu được. Nếu tôi chỉ nghĩ đến tôi, đến hạnh-phúc… hẵng đừng nói đến hạnh-phúc vội, tôi chỉ nghĩ đến sự yên vui của đời tôi thì tôi lấy ông ngay. Lấy ông, sẵn tiền lương của ông, sẵn có người đùm bọc, tôi không phải lo nghĩ, vất-vả có hơn không. Nhưng vì tôi yêu các con tôi quá, mà tôi không thể nghe lời ông được. Tôi chỉ nghĩ đến chúng nó mà không dám nghĩ đến mình. Ông ích-kỷ như thế mà ông nói ông yêu. Ông thử đem so-sánh rồi ông xét lại lòng ông xem.
Tùng chỉ lấy tay gạt nước mắt mà không giả nhời. Vân ái-ngại:
– Ông Tùng, sự sống nó tàn-nhẫn như thế đấy, biết làm sao… Nếu ông yêu tôi thì ông nên nghĩ đến cái bổn-phận làm mẹ của tôi. Tôi chỉ có thế sung-sướng khi nào tôi làm đầy đủ bổn-phận. Tại làm sao ông cứ cố theo đuổi để cố ngăn tôi không cho tôi làm đầy-đủ bổn-phận. Ông cứ muốn làm giảm phần sung-sướng của tôi trong khi làm mẹ. Tôi đã bao lần nói với ông: bây giờ tôi là một người mẹ, tôi chỉ là một người mẹ. Người mẹ có quyền không cảm-động, không thương-xót nếu sự cảm-động và thương-xót ấy có di-hại đến sự yên vui của đời các con mình. Lúc thiếu-thời, tôi đã được hoàn-toàn sung-sướng trong khi làm vợ thì đến bây giờ …
Vân nói đến chỗ thương-tâm cũng ứa nước mắt.
Tùng sợ hãi:
– Tôi xin bà nín đi, tôi hiểu lòng bà lắm rồi, nhưng tôi….
– Nếu ông có thương tôi thì xin ông nghe lời tôi. Ông đừng để cho tôi bị dày vò bởi cái ý nghĩ: vì tôi mà có một người đau-khổ. Ông nên vào ngay Cao-mên mà làm việc, chứ không thì có nhiều sự cản-trở cho đường công-danh của ông. Ông đừng nên để cho cái đời tôi đã buồn lại phải buồn thêm. Ông thương tôi thì ông nên nghĩ đến cái cảnh-ngộ tôi một chút. Tôi đã bảo rằng đời góa bụa của tôi, không cần đến một người đàn-ông để nuôi con mà. Tôi không thể vì ông mà để cho con tôi phải chịu sự đau-đớn tinh-thần về mai sau. Ông đã nghe ra chưa?
– Nhưng tôi khổ lắm …
– Ông nói ông khổ. Cái khổ của ông đã thấm vào đâu với cái khổ của tôi. Một người chồng đang yêu quý chết một cách thảm-khốc, một đời… tình-ái trẻ-trung tan gẫy, lại ba mụn con thơ. Ấy thế mà tôi vẫn sống được, vẫn phải sống. Nếu ở đời này, chỉ nghĩ đến mình thì dễ lắm. Nhưng thế thì sao gọi là người có lòng được. Ông cố quên tôi đi. Thời-gian sẽ giúp ông…
– Tôi không thể quên được đâu.
Tùng đau-đớn đứng dậy toan đi, bỗng quay lại:
– Vâng, tôi xin nghe lời bà. Thế bà cho phép tôi lâu lâu viết thơ về thăm các cháu. Và nếu có một ngày kia…
– Cái ngày kia, không có đâu, không bao giờ có. Tôi đã bảo tôi không tái-giá mà. Các con tôi còn bé, tôi đã không tái-giá,thì khi chúng nó lớn, tôi lại càng không thể tái-giá được. Vâng, lâu lâu ông nghĩ đến tôi, ông cứ viết thư về thăm, và tôi sẽ giả nhời ông. Nhưng xin ông thưa thưa cho một chút vì lúc này, tôi cần phải để hết đầu óc nghĩ kế sinh nhai.
– Thế bà đoan với tôi nếu có bao giờ cần dùng đến bất cứ một việc gì thì bà…
– Vâng, tôi xin nhờ đến ông mà tôi coi là một người bạn rất trung-thành và đại-lượng.
Tùng thở dài:
– Số mệnh tàn-khốc thật!
– Tôi tưởng đối với tôi số-mệnh còn tàn-khốc hơn là đối với ông. Tại làm sao tôi không than mà ông cứ than. Một khi con người ta đã thấy có một trách-nhiệm phải làm, rồi cứ theo đuổi làm cho đầy-đủ cái trách-nhiệm ấy thì cho dù số-mệnh tàn-khốc đến mấy, cũng tự khắc được an-ủi.
Thằng Điện cựa mình, Vân vội bế nó lên lòng:
– Tôi nhìn chúng nó là bao nhiêu đau buồn đều tiêu-tán. Trong khi ngã lòng đến đâu mà thấy mặt chúng nó là tôi lại thấy có nghị-lực, can-đảm ngay. Thôi, ông …. chúng ta nên đừng quá ích-kỷ một chút thì hạnh-phúc dễ kiếm lắm.
– Thế xin bà giữ những lời hứa với tôi.
– Tôi không bao giờ sai lời hứa. Nhưng xin ông đừng hi-vọng. Tôi không bao giờ tái-giá.
Mười một giờ đêm hôm ấy, tàu mới đến bến Sáu Kho.
Mặt bể, sóng lăn-tăn lấp-lánh bóng giăng coi tựa những cái suối vàng đang chảy. Những tầu, những thuyền chi-chít ép ở trong bờ bày ra một quang cảnh lộn-xộn. Bên này, rặng núi miền Đông-triều, Uông-bí, nằm dài dưới chân giời lẩn mình vào những đám mây trắng.
Bên kia, Hải-cảng với ánh đèn le-lói bốc ánh lửa lên trời. Những dẫy nhà lố-nhố, yên lặng như co-ro trong đêm lạnh. Hơi nước trắng xóa, lững-lờ bay trên mặt nước.
Vầng trăng tròn xoe đĩnh đạc gắn giữa vòm trời. Mấy ngọn hải-đăng thấy còi tầu, bật lên sáng lòe như chọc không-khí bằng những tia lửa. Tầu áp mạn, người lên kẻ xuống rộn-rịp. Còi ô-tô, tiếng phu xe, huyên-náo.
Vân đang đứng dựa chấn-song tầu nhìn mọi người thì Tùng sẽ đến vỗ vào tay nàng:
– Thôi, tôi xin chào bà.
– Chúc ông mạnh khỏe nhé! Đến bao giờ ông lại vào?
– Tôi về nhà chơi vài hôm rồi khi nào tầu này vào Saigon, tôi lại vào.
– Thế khi nào ông gặp ba má tôi thì ông nói giùm hộ rằng tôi ra ngoài này bình an vô sự nhé.
– Xin vâng. Thế không có ai ra đón bà ư?
– Tôi có đánh giây thép cho ai biết đâu mà ra đón.
Vân nói dối thế, chứ nàng có đánh giây thép cho bố mẹ chồng, nhưng chẳng hiểu vì lẽ gì, chẳng có ai ra đón cả.
– Thế bà không lên bộ ư?
– Thôi khuya rồi, tôi ngủ dưới tầu, sáng lên cho tiện. Bây giờ lên, đi ngủ ở phòng ngủ thì bất- tiện quá. Mà như thế vừa tốn tiền, vừa làm mất giấc ngủ của các cháu.
Tùng tần-ngần xoăn-xoe cái mũ như muốn nói gì mà không dám nói. Mãi sau, chàng mới đánh bạo bảo Vân:
– Tôi xem hình như bà phải nghĩ đến… kế sinh-nhai nhiều lắm. Tôi nói thế này là… do lòng chân-thành… bởi ít nhất bà đã cho tôi là bạn của bà… xin bà nên yên trí rằng tôi không dám khinh-khi bà đâu và quả tình tôi không có… ý gì quắt-quéo về sau cả. Tôi có một mình, nhà giầu, lương nhiều, giá bà cho phép tôi gửi mỗi tháng… ít tiền về để các cậu ăn quà.
Giá một người khác nói thế thì thế nào cũng bị Vân mắng, nhưng sự chân-thành hiện lên rõ-rệt ở mắt Tùng, nên nàng không cho đó là một sự khinh-mạn.
– Cám ơn ông, tôi cũng có nhiều tiền. Tôi sở dĩ phải tiết-kiệm là vì.. chẳng cần tiêu đến. Xin ông đừng có xử như thế mà mang tiếng tôi và tôi sẽ giận ông. Tôi không muốn cho các cháu phải hàm-ân ai cả dù là họ hàng. Tôi đã đoan với ông rằng nếu khi nào tôi có cần dùng gì tôi sẽ nghĩ ngay đến ông mà.
– Thôi thế tôi xin phép bà cho tôi hôn các cậu một lần trước khi từ-biệt, bởi vì… biết bao giờ còn có dịp gặp nhau nữa…
Tùng nói đến đấy như đẫm lệ. Vân sẽ lại lật chăn cho Tùng hôn ba cái đầu tóc bơ-phờ chụm vào nhau. Thằng Hà gác chân lên bụng thằng Vũ mà ngủ. Vân vừa giơ tay toan nhấc chân nó ra thì Tùng trong khi đang hôn nó, vội-vàng nắm lấy tay nàng để lên miệng. Vân liền rụt phắt tay lại.
– Xin bà chớ coi đó là một sự ngạo-mạn, đó chỉ là tấm lòng thành-kính của tôi đối với một người mẹ muôn phần đáng kính, đáng trọng. Thôi chào bà.
– Chào ông.
Vân ngùi-ngùi nhìn Tùng xuống thang. Xuống đến đất, Tùng còn lấy mũ vẫy Vân. Vân cũng giơ tay ra hiệu từ giã.
Lúc ấy, khách lên bộ đã gần hết, chỉ còn dăm ba người không có nhà ở Hải-phòng ngủ lại ở trên tầu.
Một người Tây – quan tầu hay hành-khách không biết – thấy nàng xinh đẹp mà lại có một mình đứng tần-ngần ở đấy, liền sán lại:
– Cô nhìn trăng hay chờ ai đấy?
Nàng quay đi không giả nhời. Người Tây tiến lại gần, giơ tay sờ vào má nàng:
– Trời lạnh thế này, đứng một mình buồn nhỉ?
Nàng vừa lấy tay hất tay y ra thì liền bị y nắm chặt lấy cổ tay. Điềm-tĩnh, nàng nói bằng một giọng đĩnh-đạc:
– Nếu ông không buông tay tôi ra, tôi kêu lên bây giờ. Sao ông bất lịch-sự thế?
Người Tây còn tiếc rẻ chưa buông thì nàng lại hỏi:
– Hay ông muốn tôi lại dùng cách bất lịch-sự đối lại với ông. Ông có buông ra hay không thì bảo?
Thấy nàng nói tiếng Tây rất đúng mẹo mà cử-chỉ lại dõng-dạc, người Tây xấu hổ vội-vàng buông, ấp-úng mấy câu không rõ nghĩa rồi lủi mất.
Cái cử-chỉ sỗ-sàng của người Tây sực làm cho nàng nghĩ tới những sự khó-khăn mà nàng sẽ gặp về sau này, trong khi không có một người đàn-ông che-chở ở một đồng đất xa lạ.
Nàng nhìn ra đêm tối thấy nao-nao, sợ-hãi. Lòng nàng lúc ấy thấy lạnh giá.
Thì cái tương-lai bất ngờ cũng sâu-thẳm và bí-mật như đêm tối kia. Biết bao gian-nguy sẽ ẩn ở trong ấy để vật ngã nàng. Nàng thấy rùng mình, rợn tóc gáy.
Nàng nhìn ra biển cả mênh-mông mà có cái cảm-giác như mình đang bị vây bọc bởi phong-ba không hạn-định của hậu-nhật. Nàng nghĩ đến ốm đau, chết-chóc, nàng nghĩ đến sinh-kế, nàng nghĩ đến chông gai của đời. Nhờ ai, cậy ai, lại ba mụn con thơ phải cần có mình, chỉ trông cậy có mình. Nàng tưởng-tượng đến cái rừng người mà loài người đối với nhau như thú dữ. Chỉ những bóc lột, chỉ những lường-gạt, chỉ những áp-bách. Từ khi chồng nàng mất đi, một mình đứng mũi chịu sào, nàng đã thấy rõ cái luật trời: mạnh được, yếu thua, khôn sống mống chết. Mà nàng thì yếu ớt với ba đứa con thơ yếu ớt hơn nàng. Nàng bỗng thấy mềm nhũn cả người. Hai dòng nước mắt không biết từ đâu cứ từ từ tuôn ra.
Nàng nhìn ra bể cả thì sóng chập-chờn, nàng nhìn vào đen tối thấy đêm tối chập-chùng chứa đầy những bí-mật hãi hùng.
Một phút, vầng trăng bị một đám mây che lấp làm cho cảnh-vật tối đen. Vân hoảng sợ, thấy lạnh buốt khắp xương sống, tưởng chừng như có muôn nghìn những nanh vuốt của những ma-quái bí-mật đang vờn qua trước mặt mình. Nàng thấy hơi thở của mình bị đứt ra từng lúc.
Thằng Điện cựa mình:
– Mẹ ơi, em lạnh.
Tiếng gọi của con nàng trong lúc tinh-thần khủng-bố ấy, như một tiếng sét sáng lòe trong đêm tối.
Con nàng lạnh! Con nàng lạnh! Tiếng vang ấy dội vào tâm-khảm. Nàng không được sợ lạnh, nó chỉ có mỗi mình nàng để đuổi cái lạnh đi cho nó.
Nàng vội-vàng chạy lại bế nó vào lòng. Hơi nóng của thằng bé như chạy xuyên qua da thịt nàng mà vào làm nóng trái tim. Ôm thằng bé, nàng thấy đỡ sợ, đỡ buồn, đỡ lo, đỡ khổ.
Đám mây che phủ mặt trăng đã tan. Cảnh vật lại sáng, Ánh sáng lại nhảy nhót múa mênh trên đợt sóng. Vầng trăng chói-lọi vẫn điềm-tĩnh thả ảnh sáng xuống mặt đất. Cũng như mặt bể dập-dờn những chấm lửa, lòng Vân bỗng thấy phấn-chấn, đột khởi những đốm hi-vọng dạt-dào.
Nàng nghĩ đến tương-lai không