- XII -
Trong đời người đàn-ông có những sự cẩu-hợp vì cảnh-ngộ chỉ những người đàn bà nào đã hiểu đời, biết người, mới biết tha-thứ.
Tùng đỗ bác-sĩ, liền được bổ vào Cao-mên. Trong nơi đất khách, những cảnh đêm dài trằn-trọc vẫn là những cảnh buồn-bã. Gia-dĩ Tùng mới có hai-mươi-bẩy tuổi, cái tuổi mà trong gân-cốt ứ những sức thừa, cái tuổi không thể sống cô-độc trong một gian buồng, nên chàng cần phải có một người đàn-bà ở bên cạnh để cho khuây-khỏa. Người đàn-bà ấy bất cứ là ai, miễn là cho có đầu người để nó vui nhà. Miễn là người ấy có thể đem lại cho mình một chút vui trong những đêm khuya tịch-mịch.
Một đêm, Tùng cùng anh em đến chơi đùa xóm Nhà Lá cạnh đường Bắc-túc, gặp cô Năm. Tùng thấy Năm người cũng dễ coi, lại ăn nói hoạt bát, lại tính nết đàng-điếm (trong những sự cẩu-hợp này, người đàn-ông phần nhiều thích những gái đàng-điếm, vì họ đã đề-phòng trước đến khi bỏ nhau cho khỏi bứt rứt) liền bỏ ra năm chục cho cô Năm sắm-sửa. Rồi một hôm, cô Năm đến nhà Tùng ở luôn với Tùng.
Sự giao-tình của Tùng đối với cô Năm cũng như cái giao-tình của các người Tây đối với các me Tây, linh-hồn và trái tim chẳng dự phần vào đây.
Chẳng qua đêm nằm một mình nó buồn, chẳng qua cái cúc áo đứt không có người đính ngay thì nó khó chịu, chẳng qua ở nhà trơ-trọi không có ai bầu bạn để chuyện trò, thì nó lạnh-lẽo thế nào, chẳng qua sợ phiền phí về những sự cần dùng mà một người đàn ông tráng-kiện không thể không có, nên Tùng mới cho cô Năm về ở chung với mình.
Vừa là một cô khâu, vừa là một cô bếp, vừa là một cô nhân-tình lúc nào cũng sẵn-sàng, Tùng vẫn thường khoe với anh em cái cách “lấy vợ mà không phải lấy vợ” của mình là diệu kế. Vừa giản tiện, vừa được nhiều cái vui mà lại ít tốn tiền. Tùng thường ca-tụng cái sáng-kiến của những người Tây sang xứ An-nam đã khéo đào-tạo nên một hạng me Tây để khi ở thuộc-địa thì được mọi sự tiện-lợi mà khi về nước thì có thể bỏ một cách không tiếc thương, không hối-hận như ta bỏ một đôi giầy hay cái mũ. Các me Tây ấy đã biết là thế, mà vẫn lấy mình thì mình cần gì phải hối-hận. Miễn là trong khi lấy nhau chi cho họ đủ tiền xài.
Lúc Tùng được đổi đi Battambang, chàng đã toan bỏ cô Năm, đã cho một trăm đồng bạc và các đồ-đạc vặt. Cô Năm đã bằng lòng, hai người đã bắt tay từ giã nhau, nhưng không hiểu chàng nghĩ sao, lại cho cả cô Xăm lên theo. Có lẽ chàng nghĩ Battambang thì cũng lại phải lấy người khác, âu bằng cứ để người này là người đã quen “việc”!
Lên Battambang được sáu tháng thì bỗng một hôm được Vân gọi đến chữa bệnh cho con nàng.
Tùng bàng-hoàng trước cái sắc đẹp nghiêm-trang của Vân. Tùng hồi hộp trước cái vẻ buồn thấm-thía của Vân. Đến khi được biết rõ cái nhân-cách cao-quý của nàng thì chàng đem lòng yêu. Yêu bằng hết cả sinh-lực của một trái tim hai-mươi-tám tuổi chưa từng yêu. Trong tình yêu ấy lại pha vào một lòng kính-trọng, nó khiến cho chàng phải rụt-rè khép-nép trước mặt Vân. Chàng hi-vọng rằng chàng cố công chữa cho con Vân khỏi thì Vân sẽ phải cảm ơn mình, rồi sụ cám ơn sẽ đưa nàng đến ái-tình. Rồi lúc nàng hết tang chồng, biết đâu nàng sẽ chịu cùng mình kết nghĩa vợ chồng để lấy một nơi nương tựa chắc-chắn cho đàn con. Chính chàng cũng chỉ ao-ước có thế, ao-ước che chở cho Vân, đem lại một chút vui để quét sạch những nỗi buồn-rầu nó hiện lên rõ rệt ở trên khuôn mặt thảm-sầu kia. Chàng vấn tâm thì thấy mình cũng có thể yêu các con Vân như con mình. Chàng định bụng khi nào chữa cho con Vân khỏi thì sẽ viết thư cho Vân biết cái ý-định của mình.
Nhưng sau hôm chàng than-vãn cho những đứa con không cha bị Vân giả nhời một cách cương-quyết:
– Bây giờ tôi là cha chúng nó.
Thì chàng phải thất-vọng trước sự hi-sinh của người mẹ nhất-đinh ở vậy để giữ toàn hạnh- phúc cho các con.
Tùng tuy ngao-ngán vì thất-vọng, nhưng chàng cũng chưa đến nỗi tuyệt-vọng. Chàng hi-vọng vào thời-gian làm cho Vân quên tình-nghĩa đối với chồng. Chàng hi-vọng vào ngày tháng làm cho Vân phải nghĩ đến một chỗ nương-tựa chắc-chắn cho đàn con. Đã là thầy thuốc, đã rõ những sự cần dùng về xác thịt đối với một người đàn bà trẻ, chàng mong rằng tháng ngày sẽ đem lại cho cơ thể Vân những nguồn sinh-lực mới khiến nàng không thể không nghĩ đến sự lấy chồng.
Những hi-vọng làm cho chàng vơ-vẩn. Gia-dĩ đã có một hình-ảnh một người đàn-bà mình yêu xâm-chiếm linh-hồn thì Tùng còn thì-giờ đâu mà săn-sóc đến cô Năm. Cô Năm thấy chàng lạt-lẽo thì hiểu ngay trong đời chàng mới có một người đàn-bà khác đến chiếm chỗ của mình. Cô Năm đến gây sự với Vân, Tùng tuyệt-nhiên không biết.
Đến khi Vân kể lại cho nghe thì Tùng thấy tê-tái và thẹn-thùng. Bao nhiêu hi-vọng tiêu-tán hết! Lúc ấy chàng mới nhận rõ sự cẩu-hợp trước kia mình cho là tiện-lợi, ngày nay là một trở lực đến phá đổ hạnh-phúc của mình.
Chàng muốn về đuổi phăng cô Năm ra cửa để chuộc tội với Vân, nhưng đến khi Vân yêu-cầu mình phải giữ cô Năm mới tha thứ cho mình thì Tùng phải vâng chịu ngay. Nhưng vâng chịu một cách đau xót và ngao-ngán.
Gặp trở lực ấy cản đường, Tùng mới rõ biết lòng mình yêu Vân nó tuyệt-đối to lớn là dường nào.
Không lấy được Vân, không được Vân yêu thì đời chàng phải đen tối, chẳng còn hạnh-phúc gì. Chàng cảm thấy chàng chỉ có thể có một hạnh-phúc là được Vân yêu và che chở cho con Vân.
Vân yêu? làm sao Vân còn có thể yêu ruột người lang chạ với những quân lăng loàn vô giáo-dục như thế!
Che-chở cho con Vân? Đời nào Vân chịu để cho một người chơi bời lăng-nhăng che-chở cho con mình!
Nàng là một người nhân-cách cao quý như thế khi nào lại hạ mình xuống kết duyên với một người đàng-điếm như mình.
Tùng cứ nghĩ thế mà giận muốn giết ngay cô Năm đi. Nhưng lại sợ ruồng-rẫy ngay y thì y có thể đến kiếm chuyện lôi-thôi với Vân, nên chàng phải nén lòng. Mặc dầu Vân đã cấm chàng không được bỏ, nhưng làm sao chung-chạ được với một người đã gây ra sự tan-nát của lòng mình và là một trở-lực cho hạnh-phúc đời mình. Chàng phải ngậm bồ-hòn làm ngọt chờ cho đến khi chữa con Vân khỏi. Rồi sẽ xin Vân bỏ cái điều yêu cầu nó làm khổ cho đời mình đó.
Bây giờ, hãy cứ tận-tâm chữa cho con Vân khỏi. Vân tha lỗi, quên những sự chơi-bời rồ-dại của mình biết đâu? Hai hôm sau, Tùng ngày bốn buổi đến nhà Vân, chỉ xem bệnh, cho thuốc rồi lại đi ngay, không dám nói năng với Vân một lời.
Hai hôm sau khi xảy ra sự cô Năm đến lôi-thôi trước cửa nhà Vân, Tùng nhìn mặt Vân thấy hình như nàng có một vẻ khó chịu phải dàn mặt mình, nhưng vì lòng thương con không biết làm thế nào, bèn khẩn-khoản cầu xin Vân:
– Tôi biết tôi lại đây làm buồn cho bà lắm nhưng vì bệnh của cậu em nên bà phải buộc lòng gọi đến tôi, chứ mặt tôi gợi cho bà nhiều cảm-tưởng khó chịu. Vậy khi tôi đến thì bà cứ tránh đi một nơi, tôi xem bệnh cho cậu em tôi lại về ngay. Hoặc cần nói gì thì tôi nói với con nụ thưa với bà cũng được.
Giọng chân-thành và nhún-nhường ấy làm cho Vân cảm-kích. Nàng liền tươi cười bảo Tùng:
– Ông cứ an tâm. Tôi biết tôi trong-sạch là đủ rồi. Tôi có cần dư-luận đâu. Miễn sao cho cháu khỏi. Tôi tự xét lòng tôi không có điều gì phải thẹn với ai là được rồi.
Lần ấy là lần đầu Vân gọi Tùng bằng ông. Tùng thoạt nghe sung-sướng như muốn phát điên. Bao nhiêu hy vọng bị tiêu-tán lại ầm-ầm kéo về. Lúc ấy, chàng vui quá, nên không nhận được giọng lạnh-lùng của Vân. Chàng định bụng khi nào thằng Hà khỏi, chàng sẽ đến nói rõ sự cẩu-hợp của mình đối với cô Năm rồi xin phép nàng bỏ cho mình sự bó buộc kia đi.
Thằng Hà hết sốt. Thằng Hà khỏi đã bắt đầu ăn giả bữa.
Một hôm Tùng đến nhà Vân toan nói thì buồn thay, đã bị Vân nói trước:
– Bây giờ cháu đã khỏi. Tôi xin cảm ơn ông đã hết lòng chữa cho cháu.
Rồi móc ví lấy một trăm bạc đưa cho Tùng:
– Thôi gọi là có món tiền nhỏ-mọn để gửi ông. Giá cậu cháu còn sống mà nhà chúng tôi giàu có như thuở xưa, thì xin đưa ông nhiều hơn.
Cậu cháu? Lúc nào cũng nói đến cậu cháu! Lúc nào cũng nghĩ đến người chết. Tùng muốn nói gì cũng không dám nói nữa. Chàng ngỏ ý từ-chối thì Vân nói một giọng nghiêm-nghị:
– Nếu ngài không cầm thì chúng tôi không bao giờ yên lòng. Mà chúng tôi không hiểu sự từ-chối ấy duyên-cớ bởi đâu.
Tùng ấp-úng:
– Duyên-cớ bởi bà bây giờ không được sung-túc như xưa mà từ trước đến nay bà thuốc thang cho cậu đã tổn-phí nhiều.
– Cám ơn ngài, chúng tôi không muốn hàm-ân ai về đồng tiền cả. Tấm lòng lốt của ngài đối với chúng tôi, và cháu, chúng tôi xin ghi nhớ. Thế nào cũng xin ngài cầm cho. Lúc cậu cháu còn sống, cậu cháu vẫn dạy tôi tiền tài phải cho phân-minh. Nay cậu cháu đã mất chúng tôi lại càng phải giữ lời dặn ấy lắm.
Tùng không dám từ-chối, phải cầm. Lúc Tùng cầm rồi, Vân còn bảo con bắt tay Tùng:
– Con bắt tay quan Đốc đi, con cám ơn quan Đốc. Từ nay con khỏi có lẽ quan Đốc không đến nữa đâu. Con bắt tay quan Đốc mạnh vào.
Tùng hiểu ngay, Vân không muốn cho mình đến nhà nữa. Chàng tối-tăm cả mặt mũi, lạnh lòng bước xuống thang. Xuống đến phòng khách, chàng cố thu hết nghị-lực nói:
– Bây giờ bà cho phép tôi không còn phải giữ lời hứa trước kia tôi hứa với bà.
– Lời hứa nào… à, à về chuyện cô Năm ấy? Cái đó việc tư của ông, tôi đâu dám biết đến.
Tùng bước lên xe như người mất hồn. Về nhà liền cho tiền cô Năm bắt phải về Nam-vang ngay. Cô Năm đi rồi, Tùng thấy một nỗi chua-xót ngao-ngán đến xâm-chiếm linh-hồn. Tùng nhìn ngày mai thấy đen tối, buồn tẻ.
Một người đã yêu, có vì cớ người ta không yêu mình mà không yêu được không?
Tùng muốn quên Vân, quên thằng Hà, thằng Vũ, thằng Điện mà không sao quên được. Trong nhà thương, trong sân quần, trong bàn giấy, trong buồng ngủ, đâu đâu Tùng cũng nhìn thấy ảnh-hình của bốn mẹ con Vân đến ám-ảnh mình.
Nhiều khi khổ không chịu được nữa, Tùng muốn viết thư cho Vân kể hết nỗi lòng mình họa chăng Vân có ái-ngại thương mình không, nhưng nghĩ kỹ biết là thế nào Vân cũng chối-từ lại thôi. Gia-dĩ đối với một người có lòng như Vân trong khi chưa đoạn tang chồng mình, làm thế thì chỉ gây ác-cảm đối với mình.
Tuy không viết thư, nhưng ai cấm được Tùng đêm đêm đi lảng-vảng trước cửa nhà Vân để hi-vọng nhìn thấy bóng Vân ở trên gác.
Ban ngày, Tùng không có can-đảm đi qua, cũng không có can-đảm vào mua hàng, nhưng đêm, mà không đi qua một vài lần thì không tài nào ngủ được.
Vân tuyệt nhiên không biết rằng Tùng đến lảng-vảng trước cửa nhà mình, nàng chỉ hú-hí với con và cố buôn-bán để nuôi con. Nhưng loài người vốn tò-mò, loài người chỉ kiếm dịp để nói xấu, loài người chỉ kiếm chuyện để cho có chuyện mà nói họ đều biết hết. Trước họ còn chưa để ý, sau thấy Tùng cứ đêm đêm lảng-vảng trước cửa nhà Vân hàng mấy tháng liền, họ liền thì-thầm với nhau. Rồi họ tự nhủ: có lẽ thím Năm trước kia đến gây sự trước cửa nhà Vân là một việc có lý. Không có lửa, sao có khói? Sao bác-sĩ Tùng cứ đêm đêm lảng-vảng trước cửa nhà Vân làm gì? Rồi họ lại tự trả lời:
– Lảng-vảng để khi nào vắng người là vào.
Vào, chưa ai dám cả gan nói đã trông thấy Tùng vào nhà Vân, nhưng ai ai cũng nhất-quyết là nghe thấy người nọ, người kia nói như thế.
Những người phao đồn dị-nghị còn đương âm-thầm “làm việc” trong bóng tối thì một việc xẩy đến đem luôn cơ-hội làm cho nó nổ tung ra: Vân đến nhà Tùng.
Hôm ấy là hôm mồng một Tết. Sau khi Vân đưa các con đến mừng tuổi các nhà quen về đến nhà thì thằng Hà bỗng hỏi:
– Sao me không đưa con đến mừng tuổi ông Đốc? Ông ấy chữa cho con khỏi cơ mà?
Câu nói của con làm cho Vân nghĩ-ngợi. Nàng tự nhủ mình là gái góa còn trẻ mà đến nhà một người đàn-ông chưa vợ, hay nói cho đúng một người đàn-ông đã đuổi nhân-tình người ta vì mình – hãy tạm gọi là nhân-tình vì trong tiếng Việt-Nam không có chữ nào đúng hơn – thì thật có lắm điều bất tiện có thể để cho người ngoài dị-nghị. Trong cái đoạn đường đời góa chồng, phải xông-xáo ra buôn bán nuôi con, Vân đã hiểu sự độc-ác vô-lý của loài người. Nàng toan sai vú già đem thằng Hà đi, nhưng nàng lại cho thế là không lịch-sự, không xứng đáng với tấm lòng sốt-sắng của bác-sĩ trong khi chữa bệnh cho con mình.
Nàng nghĩ đến chồng. Rồi nàng nhìn lên bàn thờ như muốn hỏi người chết phải xử thế nào cho phải. Nếu chồng nàng còn sống, thì trong cái trường-hợp này, thế nào chồng nàng cũng đem con đến mừng tuổi bác-sĩ để cảm ơn. Chồng nàng đã chết, cha chúng nó đã chết, nàng đã ôm lấy cái nhiệm-vụ thay cha chúng nó thì những việc gì cha chúng nó nếu sống làm cho chúng nó thì bổn-phận nàng là phải làm. Nàng không muốn cho chúng nó phải chịu cái số-phận hẩm-hiu của những đứa con bồ-côi thiếu một người cha.
Chẳng ngần-ngại, nàng xoa đầu thằng Hà rồi bảo:
– Con đem bánh pháo đi đốt để mừng tuổi ông Đốc.
Tùng ở trên gác, nghe tin người nhà lên báo có mẹ con Vân đến thăm, mừng tưởng phát điên. Bao nhiêu hi-vọng ở trong lòng tưởng đã chết nay bỗng sống lại. Chàng chạy vội xuống dưới nhà. Trông thấy bốn mẹ con Vân, chàng mừng quá, không giữ nổi điềm-tĩnh, Vân chưa kịp nói gì thì Tùng đã chạy đến ôm lấy thằng Hà mà hỏi:
– Cậu còn nhớ đến tôi à?
Giọng nói ấy bao-hàm bao nhiêu nỗi mừng vui, chua-xót, nhớ-nhung, như bây giờ mới gặp cơ hội để phát ra.
– Tôi nhớ cậu quá mà tôi không dám lại thăm.
Vân hiểu ngay là câu ấy bác-sĩ nói với mình. Nàng hình như hối-hận rằng đã đến đây. Nhưng nàng lại cho ngay thế là mình hèn-nhát. Nàng đã hứa là thay cha chúng nó thì nàng không thể hèn-nhát được, nàng liền dịu-dàng bảo Tùng:
– Chúng tôi bao giờ cũng vẫn nhớ cái ơn của ông trong khi thuốc thang cho cháu. Hôm nay tôi dắt cháu lại mừng tuổi ông và cám ơn ông.
– Ơn với huệ gì. Mời bà ngồi. Các cậu ngồi đi. Để tôi lấy kẹo các cậu ăn. Bà đến đây khiến tôi… sung… (rồi Tùng lại chữa) cảm-kích khôn cùng, chính tôi phải cám ơn bà. Tôi chữa bệnh thì bà đã trả tiền tôi rồi, còn ơn nữa đâu.
– Đồng tiền nào cho xứng-đáng với tấm lòng chăm nom của ông đối với cháu.
Câu nói ấy làm cho Tùng càng mừng thêm, chàng liền rót cốc rượu đầu năm đến trước mặt Vân:
– Bà uống với tôi cốc rượu đầu năm để… kết chặt cái giao-tình của tôi đối… với gia-đình bà. Và tôi xin hứa với bà rằng bao giờ bà cũng có thể coi tôi như một người bạn trung-thành và kính-cẩn.
Tùng lại rót một cốc cho mình rồi giơ cốc:
– Tôi xin uống cốc rượu này để mừng bà năm nay buôn bán phát tài.
Vân xưa nay vốn biết Tùng mến mình nhưng vì nàng xét mình không mến người ta, không thể yêu ai được nữa nên nàng vẫn làm lơ đi như không biết. Nhưng nàng thấy cái tình-yêu ấy nó phát lộ ra một cách rõ-ràng quá, sốt-sắng quá, thành-thực quá, nàng sợ Tùng trong một lúc bồng-bột thổ-lộ ra để rồi phải nghe một lời từ-chối thì đau khổ cho chàng, nàng liền nói mội câu bóng gió để cho Tùng đừng hi-vọng hão-huyền.
– Vâng, tôi cũng xin uống cốc rượu này để mừng ông năm nay thăng quan tiến chức.
Mỗi một tiếng nói như mang đến cho mắt Tùng một ánh sáng hy-vọng. Mắt chàng sáng rực những hào-quang hạnh-phúc. Vân uống cạn cốc rượu rồi đặt cốc:
– Nhưng có lẽ tôi chỉ được uống cốc rượu năm nay mừng ông thôi.
Tùng hốt-hoảng:
– Sao bà lại nói thế?
Nếu xưa kia Vân chưa biết Tùng yêu mình thì bây giờ cũng phải biết, vì câu hỏi ấy có một giọng sợ-hãi nó bộc-lộ hết tấm lòng yêu mà chàng đã cố giấu trong bấy lâu.
– Vì có lẽ tháng sáu này đoạn tang nhà tôi, tôi bốc mộ cho nhà tôi đem về Bắc. Rồi tôi ở luôn ngoài ấy để tiện việc học-hành cho các cháu. Lúc nhà tôi hấp-hối có dặn thế.
Lúc nãy, Tùng mừng bao nhiêu thì bây giờ buồn-khổ bấy nhiêu. Chàng nói nhưng nói không ra tiếng. Chàng đứng sững một lát như người ngây rồi bảo Vân:
– Thế công việc buôn bán trong này bà hỏ ư? Bà đi mà bà không nhớ các cụ ở Siemreap ư? Tôi tưởng bà buôn bán ở đây đã quen khách thì nên ở trong này, chứ về Bắc bây giờ khó buôn bán lắm.
– Tôi bây giờ là người của nhà chồng, dẫu nhớ các cụ tôi, cũng đành phải chịu. Dẫu buôn bán khó nhưng sự học-hành của các cháu là cần. Nhà tôi giối-giăng thế. Ông tính học ở trong này thầy Cao-mên dạy có ra gì đâu mà nên người được. Tôi phải lấy hậu-vận các cháu làm trọng.
Rồi lại sợ Tùng trong một lúc sôi-nổi ngỏ ngay ý mình với nàng, nàng liền nghiêm sắc mặt nói một cách cương-quyết nó làm cho Tùng phải héo ruột:
– Bây giờ tôi chỉ nghĩ đến hậu-vận các cháu, còn các việc khác là phụ hết.
Trước cái vẻ mặt nghiêm-nghị cương quyết ấy, Tùng không có can-đảm nói. Chàng buồn-rầu tiễn mẹ con Vân ra cửa. Vân lại còn sợ Tùng sau này còn tơ-tưởng mình, liền bảo thằng Hà:
– Con bắt tay thật mạnh để cảm ơn quan Đốc đi, chúng ta gặp quan Đốc lần này có lẽ là lần cuối cùng đấy.
Rồi lại sợ Tùng đến đáp lễ nhà mình, Vân nói tiếp:
– Trưa hôm nay, chúng tôi đi Siemreap mừng tuổi hai cụ tôi, tôi nói để ông biết, nếu không ông lại nhà không có ai ở nhà, dông ông chăng.
Lúc Vân vào nhà Tùng có nhiều người trông thấy. Mà khi Vân ra, dùng-dằng nói chuyện với Tùng ở cửa cũng có nhiều người trông thấy.
Không đầy mười hôm, cả tỉnh Battambang ầm lên về cái tin Tùng nhân-tình với Vân.
Người ta bàn-tán:
– Gái góa hơ-hớ với giai nằm không thì tằng-tịu nhau là lẽ thường.
– Tằng-tịu nhau à? không khéo họ lấy nhau.
– Lấy gì. Buồn thì chơi qua.
– Giai tơ bao giờ lấy gái nạ dòng. Lấy thì đã phúc. Mà có lấy thì cũng lấy thì lấy giờ.
Những sự phao-đồn ấy, tuyệt-nhiên Vân không biết. Vì nàng chẳng đi đến đâu. Nhưng một tháng sau, đến tai Tùng. Tùng thoạt nghe, giận sôi lên. Muốn giết hết những quân đặt điều nói xấu. Nhưng làm sao biết mà giết được. Sự phỉ-báng nó như không khí ở khắp mọi nơi, nhưng ta không trông thấy ở nơi nào cả.
Tùng thấy người ta phỉ-báng người mình tôn thờ, đi đến đâu cũng hết sức thống-mạ những người đồn bậy thế.
Nhưng càng thống-mạ một cách kịch-liệt quá, cải-chính một cách sốt-sắng quá khiến cho thiên-hạ lại ngờ:
– Không tình ý với nhau sao bênh nhau dữ thế!
Tùng càng cải-chính, người ta càng đồn ầm lên. Không cái tức gì bằng cái tức của con người lương-thiện bị người ta đặt điều nói xấu mà thấy mình không có thể làm cách gì để trừ triệt đi.
Tùng tức lắm, nhưng tức mà cũng khoanh tay. Sau chàng nghĩ nếu những sự phao-ngôn ấy mà đến tai Vân thì Vân sẽ phải buồn. Chàng bèn xin đổi đi tỉnh khác: chàng cho chỉ có cách ấy là giữ được tiếng trong sạch cho Vân.
Anh em trong tỉnh làm tiệc tiễn hành. Khi đến tuần rượu sâm-banh, Tùng bèn đứng dậy nói:
– Tôi sở-dĩ phải xin đổi đi là vì có một sự phao-ngôn nó làm hại cho danh dự một người đàn-bà mà tôi biết chắc là trong sạch. Tôi xin đập cái cốc này mà thề như thế. Trong khi tôi ở đây, tôi đối với anh em thực là tận tâm. Vậy tôi xin anh em có nghĩ tình tôi thì sau khi tôi đi, có kẻ nào đặt điều nói xấu người đàn-bà đó anh em nên trừng phạt kẻ nói xấu hộ tôi.
Trước khi đi, Tùng viết cho Vân một bức thư:
Bà Vân,
Cái hạnh-phúc đời tôi là được ở một tỉnh mà bà ở. Nhưng vì có những kẻ tiểu-nhân nó đồn-đại một cái tin có thể làm hại đến danh-dự và sự buôn bán của một người tôi kính-trọng nên tôi phải xin đổi đi nơi khác. Tôi viết bức thư này để xin lỗi bà cùng thưa để bà biết tại làm sao tôi đi mà không dám đến chào.
Bà nói với các cậu em hộ rằng lúc nào tôi cũng nghĩ đến các cậu. Tôi đi thì tôi nhớ lắm. Nhưng vì danh-dự một người tôi kính-mến thì nhớ cũng phải đi.
Nay kính thư,
Tùng