← Quay lại trang sách

Chương 12

Đến trưa hôm sau, Giles rời bỏ một thế giới và bước vào một thế giới khác.

Ba mươi sáu tân binh mới toanh, với điểm tương đồng duy nhất là họ đều đã chính thức đăng ký nhận trợ cấp từ nhà vua, leo lên một đoàn tàu cùng viên trung sĩ làm nhiệm vụ quản lý họ. Khi đoàn tàu chuyển bánh rời ga, Giles nhìn qua khung cửa sổ cáu bụi của toa hạng ba và chỉ biết chắc chắn một điều: họ đang hướng về phía nam. Nhưng phải tới khi đoàn tàu tiến vào ga Lympstone bốn giờ sau đó, anh mới nhận ra họ đi xa về phía nam đến mức nào.

Trong suốt cuộc hành trình, Giles luôn giữ im lặng, đồng thời chăm chú lắng nghe các tân binh xung quanh anh, những người sẽ là đồng đội của anh trong mười hai tuần tới. Một tài xế xe buýt từ Filton, một cảnh sát ở Long Asthton, một người bán thịt ở phố Broad, một công nhân xây dựng sống tại Nailsea và một nông dân đến từ Winscombe.

Sau khi họ xuống tàu, viên trung sĩ dẫn họ tới một chiếc xe đang đợi sẵn.

“Chúng ta đang đi đâu vậy?” Anh chàng làm nghề bán thịt lên tiếng hỏi.

“Cậu sẽ sớm biết thôi, cậu nhóc,” viên trung sĩ đáp, và để lộ nơi sinh của mình.

Trong một giờ đồng hồ, chiếc xe chạy qua vùng Dartmoor cho tới khi không còn dấu hiệu của nhà cửa hay con người, chỉ còn những con chim ưng cứ thỉnh thoảng lại bay qua bay lại tìm mồi.

Cuối cùng, họ dừng lại bên ngoài một khu nhà nằm biệt lập, mang một tấm biển đã cũ mờ có ghi Doanh trại Ypres: Trại huấn luyện của trung đoàn Wessex. Tấm biển chẳng hề làm tinh thần Giles phấn chấn hơn. Một người lính bước ra khỏi vọng gác, nâng thanh chắn lên để cho chiếc xe đi tiếp vào thêm một trăm yard nữa trước khi dừng hẳn lại giữa một sân tập. Một thân hình lẻ loi duy nhất đang đứng đợi các tân binh xuống xe.

Khi Giles bước xuống xe, anh đối diện với một người khổng lồ thực sự với bộ ngực thùng phuy, mặc quân phục kaki, trông như thể được trồng xuống giữa sân tập. Trên ngực ông ta có ba hàng huân chương, còn dưới cánh tay trái ông ta kẹp một cây gậy, nhưng điều gây ấn tượng nhất với Giles ở ông ta là đường viền là sắc như lưỡi dao ở hai bên ống quần và đôi ủng của ông ta được đánh bóng tới mức anh có thể thấy hình ảnh của mình phản chiếu trên đó.

“Chúc một buổi chiều tốt lành, các quý ông,” người đàn ông nói với giọng oang oang vang khắp sân tập; không phải là người cần đến loa phóng thanh, Giles thầm nghĩ. “Ta là Thượng sĩ nhất Dawson – gọi là ngài, với các người. Trách nhiệm của ta là biến các người từ một đám rác rưởi bỏ đi thành một lực lượng chiến đấu chỉ trong vòng mười hai tuần. Đến khi đó, các người sẽ có thể tự gọi mình là thành viên của Wessex, trung đoàn xuất sắc nhất quân đội. Trong mười hai tuần tới, ta sẽ là mẹ, là bố, là em yêu của các người, và ta cam đoan luôn với các người, ta chỉ có một mục đích duy nhất trong đời, và đó là đảm bảo khi các người chạm trán tên Đức đầu tiên, các người sẽ có thể giết được hắn trước khi hắn kịp giết các người. Quá trình huấn luyện sẽ bắt đầu từ năm giờ sáng mai.” Một tiếng than thở vang lên, hoàn toàn bị viên thượng sĩ nhất tảng lờ. “Từ giờ tới lúc đó, ta sẽ để trung sĩ McCloud đây đưa các người tới căng tin, trước khi các người ổn định chỗ ở trong doanh trại. Tối nay hãy cố mà nghỉ ngơi cho tốt, vì các người sẽ cần đến tất cả năng lượng khi chúng ta gặp lại nhau. Bắt đầu đi, trung sĩ.”

Giles ngồi xuống trước một chiếc bánh cá song các nguyên liệu được dùng để làm nó thì chưa thứ nào từng biết qua nước mặn, và sau một ngụm thứ nước nâu nâu nguội ngắt được gọi là trà, anh đặt lại cốc xuống bàn.

“Nếu anh không ăn cái bánh cá của mình, tôi có thể ăn nó không?” Cậu thanh niên ngồi cạnh anh hỏi. Giles gật đầu, và hai người đổi đĩa cho nhau. Anh chàng kia không nói gì cho tới khi đã chén sạch phần thức ăn được Giles nhường cho.

“Tôi biết mẹ anh,” anh ta nói.

Giles nhìn người thanh niên kỹ hơn, tự hỏi bằng cách nào lại có thể có chuyện đó.

“Nhà tôi cung cấp thịt cho Manor House và Barrington Hall,” người thanh niên nói tiếp. “Tôi quý mẹ anh,” anh ta nói. “Một quý bà rất tử tế. Nhân tiện, tôi là Bates, Terry Bates.” Anh ta bắt tay Giles thật chặt. “Chưa bao giờ nghĩ có ngày tôi sẽ ngồi cạnh anh.”

“Được rồi, các chàng trai, đứng dậy nào,” viên trung sĩ nói. Đám tân binh đứng lên khỏi các băng ghế, đi theo viên trung sĩ ra khỏi căng tin, đi qua sân tập tới chỗ một nhà thùng mái vòm Nissen với chữ MARNE21* sơn trên cửa. Lại một trận chiến vinh quang nữa của trung đoàn Wessex, viên trung sĩ giải thích trước khi mở cửa để lộ bên trong chỗ ở mới của họ.

Ba mươi sáu cái giường, mười tám cái ở mỗi bên, đã được kê sít vào nhau trong một không gian không lớn hơn phòng ăn ở Barrington Hall. Giles được xếp giữa Atkinson và Bates. Không khác gì trường nội trú, anh thầm nghĩ, cho dù trong mấy ngày tiếp theo chàng thanh niên quả thực đã gặp vài điều khác biệt.

“Được rồi, các chàng trai, đã đến lúc cởi quần áo ra và đi ngủ.”

Từ rất lâu trước khi người cuối cùng kịp leo lên giường, viên trung sĩ tắt đèn và gằn giọng, “Hãy cố mà chợp mắt đi một chút. Một ngày bận rộn đang chờ các cậu ngày mai đấy.” Gile hẳn sẽ chẳng lấy làm mấy ngạc nhiên, nếu giống như Fisher, tay giám thị ngày trước tại trường nội trú của anh, viên trung sĩ nói thêm, “Cấm nói chuyện sau khi đèn tắt.”

Đúng như lời hứa, ánh sáng trở lại lúc năm giờ sáng hôm sau; Giles chẳng kịp có cơ hội nhìn qua đồng hồ đeo tay của anh sau khi thượng sĩ nhất Dawson bước vào nhà thùng và hét lớn, “Kẻ cuối cùng đặt hai chân xuống đất sẽ là kẻ đầu tiên bị một gã Kraut22* đâm xuyên lê qua người!”

Một loạt đôi chân hối hả đặt xuống sàn trong khi viên thượng sĩ nhất bước đi dọc theo lối đi giữa nhà thùng, cây roi của ông ta đập vào cuối bất cứ cái giường nào mà chủ nhân còn chưa kịp đặt cả hai chân xuống đất.

“Giờ hãy lắng nghe, và nghe cho rõ,” ông ta tiếp tục. “Ta sẽ cho các người bốn phút để rửa ráy và cạo râu, bốn phút để dọn giường, bốn phút để mặc quần áo và tám phút để ăn sáng. Tất cả là hai mươi phút. Ta không khuyến khích nói chuyện riêng, vì các người không thể để lãng phí thời gian, và trong bất cứ trường hợp nào, ta là người duy nhất được phép nói. Rõ chưa?”

“Chắc chắn là như vậy rồi,” Giles nói, kéo theo là một tràng cười đầy ngạc nhiên.

Một khoảnh khắc sau, viên thượng sĩ nhất đã đứng trước mặt anh. ”Bất cứ khi nào anh bạn mở mồm, con trai,” ông ta gầm lên, đặt roi lên vai Giles, “tất cả những gì ta muốn nghe là có, thưa ngài, không, thưa ngài, ba túi đầy, thưa ngài. Rõ chưa?”

“Rồi, thưa ngài,” Giles nói.

“Ta không nghĩ ta đã nghe thấy anh bạn nói gì, con trai.”

“Rồi, thưa ngài!” Giles hét lên.

“Tốt hơn rồi đấy. Giờ thì hãy biến vào phòng vệ sinh ngay, cái thứ con người nhỏ bé đáng tởm kia, trước khi ta phải phạt anh bạn.”

Giles không hiểu hình phạt là gì, nhưng nghe có vẻ không được hấp dẫn lắm.

Bates đã ra khỏi phòng vệ sinh khi Giles bước vào. Khi anh cạo râu xong, Bates đã dọn xong giường, mặc xong quần áo và trên đường tới căng tin. Khi cuối cùng Giles bắt kịp cậu ta, anh ngồi xuống băng ghế đối diện.

“Làm thế nào cậu làm được vậy?” Giles hỏi đầy ngưỡng mộ.

“Làm được gì cơ?” Bates hỏi.

“Thức dậy tỉnh táo như thế, trong khi tất cả chúng tôi còn đang ngái ngủ.”

“Đơn giản mà, thật đấy. Tôi là người bán thịt, giống như bố tôi. Dậy lúc bốn giờ vào mọi buổi sáng, và đi ra chợ. Nếu tôi muốn có được thứ thịt ngon nhất, tôi phải chờ sẵn ngay từ lúc thịt được chuyển đến bến tàu hay nhà ga. Chỉ cần đến muộn mấy phút thôi, vậy là tôi chỉ còn hàng loại hai. Muộn nửa giờ, còn lại chỉ toàn là đầu thừa đuôi thẹo, và liệu mẹ anh có muốn cảm ơn tôi vì thứ thịt đó không?”

Giles bật cười trong khi Bates đứng dậy và bắt đầu quay trở lại doanh trại, chỉ để biết rằng ra viên thượng sĩ nhất không cho phép họ có thời gian để đánh răng.

Phần lớn buổi sáng được dùng để phát quân trang cho đám “nhóc con”, như các tân binh bị gọi, nhiều bộ quân phục trông có vẻ như từng có chủ sở hữu trước đó. Sau đó lần lượt đến mũ nồi, thắt lưng, ủng, mũ sắt, bột đánh trắng đồ da, thuốc tẩy Brasso và xi đánh ủng. Sau khi các tân binh đã được trang bị đầy đủ, họ được đưa ra sân tập để thực hiện bài tập đội ngũ đầu tiên. Vì đã từng phục vụ, cho dù ít nhiều ngoài chủ ý, trong Lực lượng Học viên sĩ quan Liên hợp ở trường, Giles có chút lợi thế khởi đầu. Song anh có cảm giác chẳng mấy chốc nữa Terry Bates sẽ đuổi kịp mình.

Đến mười hai giờ, họ đi đều theo đội ngũ tới căng tin. Giles đói tới mức anh chén sạch mọi thứ được đưa ra. Sau bữa trưa, họ quay về doanh trại thay đồ tập thể thao trước khi tập trung lại đi tới nhà tập thể thao. Giles thầm cảm ơn thầy dạy thể thao tại trường dự bị của anh đã dạy cho anh cách đu dây thừng, giữ thăng bằng trên một thanh xà cũng như cách dùng các thanh xà gắn trên tường để tập kéo giãn. Anh không khỏi nhận thấy Bates đang làm theo nhất cử nhất động của mình.

Buổi chiều kết thúc bằng cuộc chạy năm dặm qua các cánh đồng hoang của vùng Devon. Chỉ có tám trong số ba mươi sáu tân binh quay về cổng doanh trại cùng lúc với huấn luyện viên thể lực của họ. Một người thậm chí còn lạc đường và phải cử một đội tìm kiếm đi tìm anh ta về. Bữa tối được nối tiếp bằng thứ mà viên thượng sĩ nhất gọi là thư giãn, mà với đa số các chàng tân binh trên thực tế là nằm vật ra giường và ngủ say như chết.

Vào năm giờ sáng hôm sau, cánh cửa nhà thùng lại bật mở, và lần này vài đôi chân đã đặt sẵn xuống đất trước khi viên thượng sĩ nhất bật đèn. Sau bữa sáng là một giờ tập đội ngũ ngoài sân tập, và đến lúc này hầu như tất cả đều đã đi đúng nhịp. Sau đó, các tân binh ngồi thành vòng trên cỏ và học cách tháo lắp, lau chùi, nạp đạn và bắn một khẩu súng trường. Viên trung sĩ dùng một mảnh vải bông rộng 4 inch, dài 2 inch quấn vào que thông nòng đưa qua trong nòng súng bằng một động tác dứt khoát, nhắc họ nhớ rằng viên đạn không hề biết nó thuộc về phe nào, vì vậy cần tạo mọi điều kiện để nó rời nòng súng từ phía trước và giết chết kẻ thù chứ không nổ ngược lại và giết chết chính người bắn súng.

Buổi chiều diễn ra ngoài bãi tập bắn súng trường, tại đây các hạ sĩ quan phụ trách huấn luyện dạy từng tân binh cách tì báng súng vào vai, căn thẳng thước ngắm và đầu ruồi với vòng tròn trung tâm trên bia, và bóp cò thật nhẹ nhàng, không bao giờ được giật cục. Lần này, Giles thầm cảm ơn ông ngoại vì những giờ cùng ông đi săn gà gô khiến anh luôn ngắm trúng tâm bia bắn.

Ngày hôm đó kết thúc bằng một cuộc chạy năm dặm nữa, ăn tối và thư giãn, sau đó đèn tắt lúc mười giờ. Phần lớn tân binh đã nằm vật ra giường từ trước đó rất lâu, ước gì mặt trời không mọc vào sáng hôm sau, hay ít nhất viên thượng sĩ nhất cũng chết trong khi đang ngủ. Vận may chẳng chịu đến với họ. Tuần đầu tiên với Giles dường như dài cả tháng, nhưng đến cuối tuần thứ hai anh đã thích nghi được với nhịp sinh hoạt hàng ngày, cho dù chưa lần nào vào được phòng vệ sinh trước Bates.

Cho dù cũng chẳng thích thú gì chuyện huấn luyện cơ bản như những người khác, Giles vẫn thấy thích thú sự thách thức của cạnh tranh. Nhưng anh phải thừa nhận rằng mỗi ngày trôi qua, anh lại càng thấy khó bứt lên được khỏi chàng bán thịt đến từ phố Broad. Bates có thể ăn miếng trả miếng với anh trên võ đài quyền Anh, thi nhau ngắm đúng tâm bia ngoài trường bắn, và khi họ bắt đầu xỏ vào chân đôi ủng nặng trịch, đồng thời phải mang súng trường trong cuộc chạy năm dặm, chàng thanh niên quanh năm suốt tháng đã phải vác những súc thịt bò to tướng trên vai mang đi khắp nơi không kể sáng, trưa hay tối đột nhiên trở thành một đối thủ khó đánh bại hơn nhiều.

Đến cuối tuần thứ sáu, không ai ngạc nhiên khi Barrington và Bates là những người được thăng lên hạ sĩ, và mỗi người được giao phụ trách một tiểu đội.

Hai người chỉ vừa kịp gắn lon hạ sĩ lên quân phục là hai tiểu đội do họ chỉ huy trở thành đối thủ cạnh tranh quyết liệt; không chỉ trên sân tập hay phòng thể thao, mà bất cứ khi nào họ thực hiện luyện tập tác chiến ban đêm, diễn tập ngoài thao trường hay hành quân. Vào cuối mỗi ngày, Giles và Bates đều tự tuyên bố mình là người chiến thắng. Thường thì viên thượng sĩ nhất sẽ phải là người phân minh giữa hai người.

Khi ngày tổng duyệt kết thúc huấn luyện đến gần, Giles có thể cảm thấy sự tự hào trong cả hai tiểu đội, những con người bắt đầu tin có thể họ đã xứng đáng được tự xưng mình là lính của trung đoàn Wessex khi rời trại huấn luyện; cho dù viên thượng sĩ nhất không ngớt nhắc đi nhắc lại cảnh cáo họ rằng không bao lâu nữa họ sẽ phải tham gia vào những trận chiến thực sự, chống lại kẻ thù thật bằng những viên đạn thật. Ông cũng nhắc nhở họ rằng ông sẽ không có mặt ở đó để dắt tay họ. Lần đầu tiên Giles thừa nhận rồi đây anh sẽ nhớ viên thượng sĩ đáng nguyền rủa này.

“Bọn địch cứ tới đây,” là tất cả những gì Bates có để nói về chủ đề đó.

Khi cuối cùng họ cũng kết thúc huấn luyện vào ngày thứ Sáu của tuần thứ mười hai, Giles đoán anh sẽ được quay về Bristol cùng các tân binh khác nghỉ phép dịp cuối tuần trước khi đến trình diện tại trạm tập trung quân của trung đoàn vào thứ Hai tuần kế tiếp. Nhưng khi anh từ sân tập quay về trại chiều hôm đó, viên thượng sĩ nhất kéo anh sang một bên.

“Hạ sĩ Barrington, cậu tới gặp thiếu tá Radcliffe ngay.”

Giles muốn hỏi lý do, nhưng anh biết mình sẽ không nhận được câu trả lời.

Anh đi băng qua sân tập, gõ cửa phòng làm việc của viên thiếu tá, người anh mới chỉ trông thấy từ xa.

“Vào đi,” một giọng nói vang lên. Giles bước vào, đứng nghiêm và chào. “Barrington,” thiếu tá Radcliffe nói sau khi chào lại, “tôi có tin vui cho anh. Anh đã được nhận vào trường đào tạo sĩ quan.”

Giles thậm chí không hề nhận ra anh đã được nhắm đến để đào tạo sĩ quan.

“Anh sẽ phải đi thẳng tới Mons ngay sáng mai, tại đó anh sẽ bắt đầu khóa đào tạo từ thứ Hai. Chúc mừng anh, và chúc may mắn.”

“Cảm ơn ngài,” Giles nói, trước khi hỏi, “Bates sẽ đi cùng tôi chứ?”

“Bates?” thiếu tá Radcliffe nói. “Ý anh là hạ sĩ Bates?” “Vâng, thưa ngài.”

“Chúa ơi, không,” viên thiếu tá đáp. “Anh ta không có tố chất sĩ quan.”

Giles chỉ biết hy vọng người Đức cũng thiển cận như thế trong vấn đề lựa chọn sĩ quan của họ.

Khi Giles đến trình diện Đơn vị Huấn luyện Học viên sĩ quan tại Mons ở Aldershot chiều ngày hôm sau, anh vẫn chưa được chuẩn bị sẵn sàng để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng xảy đến với cuộc đời mình. Anh đã phải mất một thời gian để quen với việc các trung sĩ, thượng sĩ, thậm chí cả các thượng sĩ nhất cũng phải gọi anh là “ngài”.

Anh ngủ trong một phòng riêng, khi mà cửa phòng không hề bị bật tung ra lúc năm giờ sáng với một hạ sĩ quan vung roi đập vào cuối giường anh, ra lệnh cho anh đặt cả hai chân xuống đất. Cánh cửa chỉ mở khi Giles muốn mở nó ra. Anh ăn sáng tại nhà ăn cùng một nhóm các thanh niên không cần phải được dạy cách dùng dao và nĩa, cho dù một vài người trong số này trông có vẻ như chưa bao giờ học cách sử dụng một khẩu súng trường, chứ đừng nói gì tới chuyện dùng nó để bắn trong cơn căm giận. Nhưng chỉ sau thời gian vài tuần, cũng chính những con người này sẽ ở ngoài mặt trận, chỉ huy những người lính tình nguyện không có kinh nghiệm, và tính mạng của những người lính này sẽ phụ thuộc vào quyết định của họ.

Giles cùng các học viên khác tới phòng học, nơi họ được dạy về lịch sử quân sự, địa lý, đọc bản đồ, chiến thuật tác chiến, tiếng Đức và nghệ thuật chỉ huy. Nếu có điều gì đó anh học được từ người bán thịt ở phố Broad, thì đó là nghệ thuật chỉ huy chẳng phải thứ có thể dạy được.

Tám tuần sau, cũng chính những chàng trai trẻ này đứng nghiêm trong lễ tốt nghiệp và được phong hàm sĩ quan Hoàng gia. Họ được trao cho hai phù hiệu hình vương miện, mỗi phù hiệu để gắn lên một bên vai áo, một cây gậy sĩ quan bọc da nâu và một lá thư chúc mừng từ một nhà vua đầy hàm ơn.

Tất cả những gì Giles muốn là được trở lại trung đoàn của anh, được sát cánh bên các đồng đội cũ, nhưng anh biết điều đó là không thể, vì khi anh quay về sau lễ phong hàm sĩ quan ngày thứ Sáu đó, các hạ sĩ, trung sĩ, và phải, cả thượng sĩ nhất, đều đứng nghiêm chào anh.

Sáu mươi chàng thiếu úy trẻ rời Aldershot chiều hôm đó trở về khắp miền đất nước để trải qua kỳ nghỉ phép cuối tuần với gia đình họ, với một số người lần đó cũng là lần cuối cùng.

Giles dành phần lớn ngày thứ Bảy để nhảy xuống và nhảy lên các chuyến tàu trên đường trở về West Country. Anh về đến Manor House vừa kịp giờ để cùng ăn tối với mẹ mình.

Khi bà lần đầu nhìn thấy cậu thiếu úy trẻ đứng ngoài tiền sảnh, Elizabeth không hề tìm cách che giấu niềm tự hào của mình.

Giles thấy thất vọng vì cả Emma và Grace đều không có ở nhà để nhìn thấy anh trong bộ quân phục. Mẹ anh giải thích rằng Grace, đang trong học kỳ hai của cô tại Cambridge, hiếm khi về nhà, kể cả vào các kỳ nghỉ.

Trong bữa tối gồm có một món được Jenkins phục vụ - một số người trong số người làm của gia đình giờ đã phục vụ ngoài tiền tuyến, chứ không phải bên bàn ăn tối nữa, mẹ Giles giải thích - Giles kể cho mẹ anh về những gì anh đã phải trải qua tại trại huấn luyện ở Dartmoor. Khi bà nghe đến tên Terry Bates, mẹ anh thở dài. “Bates và con trai, họ từng là những người bán thịt tốt nhất Bristol.”

“Đã từng ư?”

“Tất cả các cửa hàng trên phố Broad đã bị san phẳng, vì thế chúng ta đã mất đi hàng thịt của nhà Bates. Đám Đức kia sẽ có nhiều thứ cần phải trả lời.”

Giles cau mày. “Thế còn Emma?” anh hỏi.

“Không thể tốt hơn... ngoại trừ...”

“Ngoại trừ gì cơ ạ?” Giles hỏi lại. Phải một lúc sau mẹ anh mới khẽ trả lời, “Sẽ tốt hơn biết bao nếu Emma sinh ra một đứa con gái thay vì con trai.”

“Sao điều đó lại quan trọng đến thế?” Giles hỏi, trong khi anh rót đầy lại ly của mình.

Mẹ anh cúi đầu xuống, nhưng không nói gì.

“Ôi Chúa ơi,” Giles nói, khi anh hiểu ra ý nghĩa những lời bà vừa nói. “Vậy mà con đã cho rằng khi Harry chết, con sẽ là người thừa kế...”

“Mẹ sợ rằng con không thể đoán được gì hết, con trai yêu quý,” mẹ anh ngước nhìn lên và nói. “Tức là không thể cho đến khi có thể khẳng định bố con không phải là bố của Harry. Cho tới lúc đó, theo những điều khoản trong di chúc của cụ nội con, tiếp theo sẽ đến luợt Sebastian được thừa kế tước vị.”

Giles hầu như không nói gì thêm trong bữa ăn trong khi anh cố hiểu hết ý nghĩa những lời mẹ mình nói. Sau khi cà phê được đưa lên, mẹ anh nói bà cảm thấy mệt và quay về phòng ngủ.

Khi Giles leo lên cầu thang về phòng anh một lát sau, anh không thể kìm được rẽ vào phòng trẻ để nhìn đứa con đỡ đầu của mình. Anh ngồi một mình với người thừa kế tước hiệu của gia đình Barrington. Sebastian khẽ cựa mình trong giấc ngủ bình yên, hiển nhiên không hề bị chiến tranh làm xáo trộn, và chắc chắn chẳng hề bận tâm tới di chúc của cụ nội anh, hay ý nghĩa của những từ, và tất cả mọi thứ này bao gồm.

Ngày hôm sau, Giles cùng hai người ông của anh ăn trưa tại câu lạc bộ Savage. Bữa ăn diễn ra trong bầu không khí khác hẳn dịp cuối tuần họ cùng trải qua cách đây năm tháng tại lâu đài Mulgerie. Điều duy nhất hai ông lão dường như muốn tìm hiểu là việc trung đoàn của cậu cháu trai sẽ được điều tới đâu.

“Cháu không biết nữa,” Giles nói, bản thân anh quả thực cũng muốn biết điều đó; nhưng hẳn anh sẽ vẫn trả lời như vậy ngay cả khi đã được báo thông tin này, bất chấp việc hai quý ông lớn tuổi đáng kính đều là cựu binh trong cuộc chiến tranh Boer.

Thiếu úy Barrington thức dậy sớm vào sáng thứ Hai, và sau khi dùng bữa sáng với mẹ anh, được Hudson đưa tới bản doanh của trung đoàn Wessex 1. Anh bị kẹt lại vì một đoàn dài không dứt xe bọc thép và xe tải chở đầy binh lính nối đuôi nhau chạy ra khỏi cổng. Anh ra khỏi xe và bước tới bốt gác.

“Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” một viên hạ sĩ lên tiếng, sau khi đã cứng người đứng nghiêm chào anh. Giles vẫn chưa quen được với việc này. “Thiếu tá ra lệnh cho ngài tới phòng làm việc gặp thiếu tá ngay khi ngài tới nơi.”

“Tôi rất vui lòng làm theo ngay, hạ sĩ,” Giles trả lời, chào lại người hạ sĩ quan, “nếu tôi biết phòng làm việc của thiếu tá Radcliffe ở đâu.”

“Ở phía cuối sân, thưa ngài, cửa màu xanh lục. Ngài không thể nào nhầm được đâu.”

Giles băng qua khoảng sân rộng, đáp lại vài động tác chào nữa trước khi tới được phòng làm việc của thiếu tá.

Thiếu tá Radcliffe ngước nhìn lên từ sau bàn làm việc khi Giles bước vào phòng.

“A, Barrington, anh bạn thân mến. Thật mừng gặp lại cậu,” ông ta nói. “Chúng tôi không dám chắc cậu có thể quay về kịp hay không nữa.”

“Kịp làm gì cơ, thưa ngài?” Giles hỏi.

“Trung đoàn sẽ được điều ra đồn trú ở nước ngoài, và đại tá cảm thấy cậu cần được tạo cơ hội để lựa chọn giữa đi cùng chúng tôi hay ở lại đằng sau đợi cuộc vui tiếp theo.”

“Chúng ta sẽ đi đâu vậy, thưa ngài?”

“Tôi cũng không rõ,

CHÚ THÍCH

21*Tên con sông tại Pháp, nơi diễn ra hai trận đánh ác liệt vào các năm 1914 và 1918 trong Thế chiến thứ nhất

22*Ám chỉ người Đức một cách khinh bỉ.