← Quay lại trang sách

Chương 31

Góc đường Sáu mươi tư và Công viên,” Emma nói ngay khi cô chui vào trong một chiếc tắc xi đậu ở bên ngoài văn phòng ở phố Wall của Sefton Jelks.

Cô ngồi xuống băng ghế sau chiếc tắc xi và cố gắng nghĩ xem cô sẽ nói gì với bà cô Phyllis khi, hoặc nếu, cô qua được cửa trước nhà bà, nhưng máy thu thanh trong xe để tiếng to đến mức cô không tài nào tập trung được. Cô đã nghĩ đến chuyện đề nghị người lái tắc xi vặn nhỏ âm lượng xuống, song cô đã học được rằng các bác tài tắc xi ở New York luôn trở nên điếc bất cứ lúc nào, cho dù trong số họ hiếm khi có ai ngớ ngẩn và chẳng bao giờ có ai câm.

Trong lúc lắng nghe phát thanh viên mô tả bằng giọng rất kích động về những gì vừa xảy ra tại một nơi nào đó có tên là Trân Châu Cảng, Emma chấp nhận rằng câu đầu tiên bà cô hỏi cô nhiều khả năng sẽ là điều gì đã đưa cháu tới New York hả cô bé, tiếp theo là cháu đã ở đây bao lâu rồi, tiếp theo là tại sao cháu phải mất nhiều thời gian như thế trước khi tới đây gặp bà? Cô chẳng hề có câu trả lời khả dĩ nào cho mấy câu hỏi này, trừ khi cô sẵn sàng kể lại cho bà cô Phyllis mọi thứ - một điều cô muốn tránh vì thậm chí Emma còn chưa kể hết mọi thứ với mẹ của cô.

Bà cụ thậm chí còn chưa chắc đã nhớ là mình có một cô cháu gái, Emma thầm nghĩ. Và biết đâu còn có một mối bất hòa lâu đời trong gia đình mà cô không hề biết thì sao? Hay có khi bà cô của cô là một người sống ẩn dật, đã ly dị, đã tái hôn, hoặc trở thành người mất trí?

Tất cả những gì Emma còn nhớ là cô từng có lần thấy một tấm thiếp Giáng sinh ký tên Phyllis, Gordon và Alistair. Liệu có phải hai cái tên còn lại một người là chồng, người kia là cậu con trai không? Tệ hơn nữa là Emma chẳng có một bằng chứng nào để chứng tỏ cô thực sự là cháu gái của Phyllis.

Emma còn cảm thấy thiếu tự tin hơn về việc gặp mặt bà khi chiếc tắc xi dừng lại trước cửa và cô đưa người lái xe thêm một đồng 25 xen nữa.

Emma ra khỏi xe, ngước mắt nhìn lên tòa nhà đá nâu bốn tầng uy nghi và đổi ý mấy lần về chuyện gõ cửa. Cuối cùng, cô quyết định đi bộ vòng quanh khối nhà với hy vọng sẽ cảm thấy tự tin hơn khi quay trở lại. Trong lúc đi bộ theo phố 64, cô không khỏi nhận thấy những người dân New York đang hối hả chạy ngược chạy xuôi trong một nhịp điệu bồn chồn hết sức bất thường, với vẻ choáng váng và lo lắng hiện rõ trên nét mặt. Một số còn ngửa mặt nhìn lên trời. Chắc hẳn họ không tin cuộc không kích tiếp theo của Nhật Bản sẽ là nhằm vào giữa Manhattan chứ?

Một cậu bé bán báo đứng ở góc Công viên không ngừng rao đi rao lại cùng một hàng tít, “Nước Mỹ tuyên chiến! Hãy đọc tin mới nhất!”

Khi Emma quay trở lại bên ngoài cửa trước ngôi nhà, cô đã đi đến kết luận mình không thể chọn được một ngày xấu hơn để ra mắt bà cô. Có lẽ sẽ là khôn ngoan nếu cô trở về khách sạn và để chuyến thăm lại ngày mai. Nhưng liệu ngày mai nhất thiết có gì khác biệt chứ? Tiền của cô đã gần cạn sạch, và nếu lúc này nước Mỹ đã tham chiến, làm thế nào cô có thể quay trở về Anh, và quan trọng hơn thế, về với Sebastian, cậu con trai bé bỏng cô vốn chỉ định rời xa có vài tuần?

Cô thấy mình bước lên năm bậc cấp để đứng trước một cánh cửa bóng lộn màu đen với một tay nắm gõ cửa lớn bằng đồng thau được đánh bóng nhoáng. Có thể bà cô Phyllis không có nhà. Cũng có thể bà đã chuyển đi. Emma đang định gõ cửa thì cô nhìn thấy một cái chuông gắn trên tường với dòng chữ “Người bán hàng” in phía dưới. Cô bấm chuông, lùi lại một bước và đợi, cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều khi chỉ phải đối diện với người thường làm ăn với người bán hàng.

Một lát sau, một người đàn ông cao ráo, lịch sự mặc vét đen, quần vải sọc, áo sơ mi trắng và đeo nơ xám ra mở cửa.

“Tôi có thể giúp gì được cô, thưa cô?” anh ta hỏi, rõ ràng đã đi đến kết luận Emma không phải là một người bán hàng.

“Tên tôi là Emma Barrington,” cô nói với anh ta. “Tôi không rõ liệu bà cô Phyllis của tôi có nhà hay không.”

“Bà chủ có nhà, thưa cô Barrington. Thứ Hai là ngày chơi bài bridge vào buổi chiều của bà chủ. Mời cô vui lòng quá bộ vào trong nhà, tôi sẽ đi báo cho bà Stuart biết là cô đến.”

“Tôi có thể quay lại ngày mai, nếu bây giờ không tiện,” Emma lắp bắp, nhưng người đàn ông đã đóng cửa lại sau lưng cô và đã đi được quá nửa dãy hành lang.

Trong khi Emma đứng đợi ngoài tiền sảnh, cô không thể nhầm được gia đình Stuart vốn xuất thân từ vùng đất nào: một bức tranh của Hoàng tử Charlie Tử Tế83* treo phía trên hai thanh kiếm đặt chéo nhau và chiếc khiên của dòng họ Stuart ở bức tường phía cuối sảnh. Emma chậm rãi đi đi lại lại, ngưỡng mộ ngắm nghía những bức tranh của Peploe, Fergusson, McTaggart và Raeburn84*.Cô nhớ ông ngoại mình, Lord Harvey, cũng có một bức tranh của Lawrence treo trong phòng khách ở lâu đài Mulgerie. Cô không biết ông chú mình làm gì để kiếm sống, nhưng rõ ràng ông đã làm việc này rất tốt.

Người quản gia quay lại sau vài phút, vẫn với khuôn mặt vô cảm như lúc trước. Có lẽ anh ta chưa nghe tin về Trân Châu Cảng.

“Bà chủ sẽ tiếp cô trong phòng khách,” anh ta nói.

Người này thật giống Jenkins làm sao: không lời thừa, một nhịp chân đều đặn không bao giờ thay đổi, và bằng cách nào đó anh ta có thể tỏ vẻ tôn kính trong khi không tỏ ra quá cung kính. Emma muốn hỏi anh ta đến từ vùng nào của nước Anh, song biết người quản gia sẽ coi đó là một câu hỏi tọc mạch, vậy nên cô đi theo anh ta dọc hành lang mà không nói thêm lời nào.

Cô đang định bước lên cầu thang thì người quản gia dừng lại, mở một cánh cửa sắt nhỏ ra rồi đứng sang một bên nhường chỗ cho cô bước vào. Thang máy trong một tư gia sao? Emma tự hỏi liệu bà cô Phyllis có phải là người tàn tật. Thang máy rung lên khi nó lên tới lầu ba, và cô ra khỏi thang, bước vào một phòng khách được bài trí lộng lẫy. Nếu không có âm thanh ồn ã của xe cộ đi lại, tiếng còi xe hơi và còi hụ của xe cảnh sát vọng lại từ dưới phố, người ta có thể cảm thấy mình đang ở Edinburg.

“Mời cô vui lòng đợi ở đây, thưa cô.”

Emma đứng đợi bên cửa trong khi người quản gia đi tới bên bốn quý bà lớn tuổi đang ngồi quanh một lò sưởi đốt củi gộc, khoan khoái uống trà và ăn bánh xốp trong lúc chăm chú lắng nghe một chiếc máy thu thanh chẳng bao giờ phát ra âm thanh nào.

Khi người quản gia thông báo, ”Cô Emma Barrington,” tất cả họ cùng quay lại nhìn về phía Emma. Cô không thể nhầm được ai trong số họ là em gái Lord Harvey, từ rất lâu trước khi bà đứng dậy chào cô: mái tóc đỏ như lửa, nụ cười tinh quái và điệu bộ không lẫn vào đâu được của một người không phải là thế hệ danh gia vọng tộc đầu tiên.

“Chắc chắn không thể là cô bé Emma,” bà thốt lên trong khi đứng dậy rời khỏi nhóm bạn và vội bước tới chỗ cô cháu gái, trong giọng nói vẫn còn lưu lại chút dấu vết khẩu âm Highland85*. “Lần cuối cùng ta nhìn thấy cháu, cô bé yêu quý, cháu đang mặc một bộ đồ thể thao, đi tất ngắn màu trắng và cầm một cây gậy hockey. Lúc ấy ta đã cảm thấy lấy làm ái ngại cho những cậu bé chơi cho đội đối thủ của cháu.” Emma mỉm cười; cũng một phong cách hài hước hệt như ông ngoại cô. “Giờ hãy nhìn cháu mà xem. Cháu gái tôi đã lớn lên bừng nở thành một thiếu nữ kiều diễm biết chừng nào.” Emma đỏ bừng mặt. “Vậy điều gì đưa cháu tới New York vậy, cháu yêu quý?”

“Cháu rất xin lỗi đã tới đường đột thế này, thưa bà trẻ,” Emma bắt đầu nói, e dè đưa mắt về phía ba quý bà còn lại.

“Đừng bận tâm về họ,” bà trẻ thì thầm. “Sau bài phát biểu của tổng thống, bọn họ đã có đủ thứ để bận tâm rồi. Nào, hành lý của cháu đâu?”

“Hành lý của cháu đang để ở khách sạn Mayflower,” Emma nói với bà.

“Parker,” bà cất tiếng gọi, quay sang người quản gia, “cử ai đó đi mang hành lý của cô Emma từ Mayflower về đây, sau đó chuẩn bị khu phòng khách chính, vì sau tin vừa được công bố hôm nay, ta có cảm giác cháu gái ta sẽ phải ở lại cùng chúng ta một thời gian đấy.” Người quản gia lập tức biến mất.

“Nhưng, thưa bà…”

“Không nhưng gì hết,” bà trẻ giơ một bàn tay lên ngắt lời. “Và ta đề nghị cháu thôi ngay gọi ta là bà trẻ đi, danh xưng đó làm ta cứ như một cái rìu chiến rỉ vậy. Cũng rất có thể giờ ta đã là một cái rìu chiến rỉ thật, song ta rất không mong muốn bị nhắc nhở về chuyện đó quá thường xuyên, vì thế làm ơn hãy gọi ta là Phyllis.”

“Cháu cảm ơn bà, bà trẻ Phyllis,” Emma nói.

Phyllis bật cười. “Ta thật sự mới thích người Anh làm sao,” bà nói. “Giờ hãy tới chào mấy bà bạn của ta. Họ sẽ rất ngỡ ngàng được gặp một quý cô trẻ tuổi độc lập đến thế. Hiện đại đến mức khủng khiếp đến thế.”

“Một thời gian” cuối cùng hóa ra lại là tới hơn một năm, và mỗi ngày trôi qua, Emma lại càng bồn chồn muốn được đoàn tụ cùng Sebastian hơn, song cô chỉ có thể dõi theo quá trình lớn khôn của con trai mình từ những lá thư được gửi tới từ mẹ cô, và đôi khi là từ Grace. Emma khóc khi cô biết tin ông nội mất, vì cô vẫn luôn nghĩ ông sẽ sống mãi. Cô cố gắng không nghĩ tới việc ai sẽ tiếp quản công ty, và đoán rằng bố cô sẽ không có đủ can đảm để xuất hiện tại Bristol.

Phyllis đã cố gắng để Emma cảm thấy như ở nhà chu đáo đến mức mẹ cô cũng không thể làm hơn thế. Emma nhanh chóng khám phá ra bà trẻ của mình là một người mang tính cách Harvey điển hình, hào phóng đến mức thái quá, và trang có ghi định nghĩa của các từ không thể, không thuyết phục và không thực tế hẳn đã bị xé mất khỏi từ điển của bà từ khi còn rất trẻ. Khu phòng khách chính, như cách Phyllis vẫn gọi, kỳ thực là một chuỗi phòng nhìn xuống Công viên Trung tâm đem đến cho Emma một sự ngạc nhiên đầy thích thú so với căn phòng đơn chật chội của cô tại Mayflower.

Ngạc nhiên thứ hai của Emma tới khi cô xuống nhà ăn tối vào buổi tối đầu tiên ở tại đây và thấy bà cô của mình mặc một bộ váy màu đỏ chói, uống một ly uýt-ki và hút thuốc qua một cái đót cầm dài. Cô không khỏi mỉm cười trước ý nghĩ mình được vị phu nhân này mô tả là một người hiện đại.

“Con trai Alistair của ta sẽ cùng ăn tối với chúng ta,” bà thông báo trước khi Parker kịp có cơ hội rót cho Emma một ly Bristol Cream86* của Harvey. “Nó là một luật sư, đồng thời cũng là một anh chàng độc thân,” bà nói thêm. “Hai bất lợi mà ta e là sẽ làm nó khó lòng hồi phục lại được. Dẫu vậy lúc này lúc khác con trai ta cũng có thể khá thú vị, cho dù hơi khô khan.”

Chú họ Alistair đến nơi vài phút sau, mặc một bộ vét dạ tiệc cho bữa tối ăn cùng mẹ, qua đó trở thành hiện thân của “người Anh hải ngoại.”

Emma đoán ông khoảng năm mươi tuổi, và một người thợ may khéo léo đã che đi được sự thật là ông đang mang trên mình vài cân dư thừa. Phong cách hài hước của ông có thể có chút khô khan, song không nghi ngờ gì nữa, ông chú của cô là một người sắc sảo, vui nhộn và hiểu biết rộng, cho dù ông quả thực có chút sa đà vào vụ án mà ông đang thụ lý. Cũng chẳng hề ngạc nhiên khi bà mẹ đầy tự hào của ông cho Emma hay trong bữa tối rằng Alistair là thành viên trẻ nhất trong công ty luật của ông, kể từ sau cái chết của chồng bà. Emma đoán bà biết tại sao Alistair không lập gia đình.

Cô cũng không dám chắc nguyên nhân là do thức ăn ngon tuyệt, rượu vang hảo hạng hay chỉ đơn giản là sự hiếu khách kiểu Mỹ đã khiến cô thoải mái đến mức cuối cùng cô đã kể cho họ nghe mọi thứ diễn ra kể từ khi bà cô Phyllis chia tay cô tại sân hockey tại trường Red Maids.

Đến khi Emma giải thích xong lý do khiến cô vượt qua Đại Tây Dương đến đây bất chấp những nguy hiểm có thể gặp phải, cả hai người đều nhìn vị khách chằm chằm như thể cô vừa từ một hành tinh khác rơi xuống.

Sau khi Alistair đã khoan khoái ngấu nghiến xong miếng cuối cùng phần bánh nướng quả của ông và chuyển sự chú ý sang một ly brandy lớn, vị luật sư dành ra ba mươi phút tiếp theo để kiểm tra đối chất vị khách bất ngờ, như thể ông là luật sư của bên đối phương còn cô là một nhân chứng bất lợi.

“Mẹ biết không, con phải nói rằng,” ông nói trong lúc gấp khăn ăn của mình lại, “vụ này có vẻ còn hứa hẹn hơn nhiều so với vụ Amalgamated Wire chống lại New York Electric. Con rất nóng lòng được đọ kiếm với Sefton Jelks.”

“Lãng phí thời gian của chúng ta với Jelks để làm gì,” Emma nói, “trong khi điều quan trọng hơn nhiều là tìm ra Harry và trả lại sự trong sạch cho anh ấy?”

“Chú không thể đồng ý hơn, ”Alistair nói. “Nhưng chú có cảm giác chuyện thứ nhất sẽ dẫn tới chuyện thứ hai.” Ông nhấc cuốn Nhật ký một tù nhân của Emma lên, nhưng không giở sách ra mà chỉ xem gáy sách.

“Nhà xuất bản nào vậy?” Phyllis hỏi.

“Viking Press,” Alistair nói, rồi bỏ kính ra.

“Hóa ra là Harold Guinzburg.”

“Mẹ có cho rằng ông ta và Max Lloyd có thể đã hợp tác với nhau trong trò lừa đảo này không?” Alistair hỏi, quay sang mẹ mình.

“Chắc chắn là không,” bà trả lời. “Bố con từng có lần nói với mẹ rằng ông ấy đã phải chống lại Guinzburg trước tòa. Mẹ còn nhớ ông ấy mô tả Guinzburg là một đối thủ đáng gờm, nhưng là một người không bao giờ nghĩ đến chuyện lách luật chứ đừng nói gì đến phạm pháp.”

“Vậy thì chúng ta có cơ hội,” Alistair nói, “bởi vì nếu đúng thế, ông ta sẽ không mấy vui vẻ khi phát hiện ra chuyện gì đã được thực hiện với tên của mình. Tuy vậy, con cần phải đọc qua cuốn sách trước khi thu xếp một cuộc hẹn gặp với nhà xuất bản.” Alistair nhìn qua bên kia bàn và mỉm cười với Emma. “Chú sẽ rất nóng lòng muốn biết được ông Guinzburg đã in những gì về cháu, tiểu thư thân mến.”

“Còn ta,” Phyllis nói, “cũng nóng lòng không kém muốn xem xem Emma sẽ nghĩ thế nào về Harold Guinzburg.”

“Mẹ thắng rồi,” Alistair nhận thua.

Sau khi Parker rót cho Alistair ly brandy thứ hai và châm lại xì gà cho ông này, Emma đánh bạo hỏi chú họ mình liệu theo ông nghĩ cô có thể có cơ hội được phép tới thăm Harry ở Lavenham không.

“Chú sẽ đại diện cho cháu làm đơn ngay ngày mai,” ông luật sư hứa giữa hai lần rít xì gà. “Để xem xem chú có thể làm tốt hơn chút ít so với ông thám tử nhiệt tình của cháu hay không.”

“Thám tử nhiệt tình của cháu?” Emma lặp lại.

“Nhiệt tình đến mức bất thường,” Alistair nói. “Một khi ông ta biết Jelks có can dự vào, chú thấy thật kinh ngạc khi thám tử Kolowski thậm chí còn đồng ý gặp cháu.”

“Mẹ thì chẳng ngạc nhiên chút nào về chuyện anh ta lại nhiệt tình đến thế,” Phyllis nói, nháy mắt với Emma.

CHÚ THÍCH

83*Hoàng tử Charles Edward Stuart (1720 - 1788), hậu duệ của triều đại Stuart, nổi tiếng nhất với việc lãnh đạo cuộc nổi dậy bất thành năm 1745 để giành lấy ngôi vị vua Anh, Ai-len và Scotland.

84*Cả năm người đều là những họa sĩ nổi tiếng người Scotland.

85*Tên gọi dùng để chỉ phần đồi núi của Scotland, nằm về phía bắc Glasgow.

86*Tên một loại rượu sherry của hãng John Harvey son.