GIẤC MỘNG SẦU - (VỞ KỊCH SẦU)
Vở kịch này nếu dựng lên sân khấu đài vô tuyến truyền hình, xin dùng đúng từng bản nhạc (nhạc dân ca, nhạc Phạm Duy và bản Quốc Tế Ca)
Mở màn:
CẢNH 1
Người mẹ đương đi quanh trong phòng tìm một vật gì; thằng bé chừng sáu tuổi cứ lũn cũn đi quẩn lấy chân mẹ, giọng cằn nhằn một cách rất dễ thương.
Thằng bé: Me e ẹ...
Người mẹ: Gì mà cứ căn nhằn hoài từ nãy đến giờ?
Thằng bé: Anh Quang sướng quá à, được viết thư cho bố hôm qua.
Người mẹ: Ai bảo lúc đó con đi chơi, ai mà đợi được?
Thằng bé: Me e ẹ...
Người mẹ: Cái gì?
Thằng bé: Anh Quang sướng quá à...
Người mẹ: Giời ơi... Lại đây ông, mời ông lại đây.
Người mẹ lấy ra một tờ giấy trắng, dùng thước kẻ và bút chì kẻ vội mấy dòng, trong khi đó thằng bé mỉm cười đắc thắng.
Người mẹ: Bút đây. Ông viết thư cho bố ông đi, viết theo đúng dòng tôi đã kẻ cho đó.
Thằng bé đứng cạnh mẹ viết ngay trên bàn chiếc máy may, cái miệng, cái đầu cùng đưa theo những nét chữ, miệng lẩm nhẩm đọc.
Thằng bé: "Bố yêu quý con nhớ bố quá chừng bố không về thì con khóc bố ơi trong lớp con là hàm tiếu đó con làm toán cho bố xem 3+4=7 4+5=9 2+6=8
6-3=3 8-4=4 7-2=5 ký tên nguyễn đắc minh."
Người mẹ: Được rồi, đưa thư cho mẹ, chiều nay mẹ gửi ngay cho.
Thằng bé: Chữ con đẹp ác, mẹ ha?
Người chú: Chữ cháu chú thì nhất định đẹp rồi; ai mà địch nổi được với chữ của cháu!
Người mẹ: Chú về lúc nào mà cả hai mẹ con cùng không hay thế?
Người chú: Em về đúng lúc cháu viết thư. Thế nhưng mà này, "hàm tiếu" nghĩa là gì cơ thế cháu?
Người mẹ: Cháu Minh vào hạng khá trong lớp nên cô giáo gọi là "hàm tiếu", còn hạng kém một chút là "mầm non".
Người chú: Ô hô, thì ra thế.
Người mẹ: Tôi lo quá chú ạ, mặt trận chỗ anh đương đóng nặng lắm.
Người chú: Chị đừng lo, có phúc có phận mà, nhà mình âm đức dày!
Người mẹ: Thôi chú đã về thì trông nhà nhé, sáu giờ thì các cháu đi học về cả đấy, tôi có việc phải xuống phố mua mấy thứ, tiện thể bỏ lá thư này cho cháu. Anh vẫn thường nói là cho vàng cũng không bằng cứ đều đều nhận được thư nhà.
Thằng bé: Mẹ cho con đi với.
Người mẹ: Vâng, xin mời ông đi!
CẢNH 2
Người chú ngồi dựa lưng trong một chiếc ghế bành rộng, chân ghếch lên bàn, sách vở bề bộn. Trời bên ngoài hẳn nhiều mây, căn phòng âm u thiếu ánh sáng, một cơn gió lùa qua cửa sổ lật tung một tờ lịch rộng. Nhạc một điệu dân ca tự đâu đây vẳng tới. Tiếng sáo, tiếng nhị, tiếng phách hòa với nhau trong một nhịp buồn: Tiếng sáo than van, nức nở; tiếng nhị u sầu như bóng một người đơn độc đội nón đi vào trong sương chiều; tiếng phách như nhịp bước u hoài của thời gian. Tiếng hát cất lên hòa với nhịp nhạc. Lời ca thì dí dỏm mà nhịp nhạc thì vẫn man mác u sầu:
"Dương cung mà bắn, ư ư ư bắn bắn bắn... con cò, tình bằng cò bay ư ư..."
Vừa lúc người bạn vào.
Người bạn: Cậu nghĩ gì vậy?
Người chú: Tôi nghĩ đến cuộc chiến tranh hỏa ngục kéo dài một phần tư thế kỷ trên đất nước bất hạnh này; tôi nghĩ đến những tên mang danh là đại trí thức, đại triết nhân, đại chính trị gia quốc tế, mỗi khi họ mở mồm ra phát biểu ý kiến về cuộc chiến tranh bẩn thỉu này mà chúng ta phải gánh chịu cho cả thế giới an vui, giọng lưỡi họ bất nhân, vô ơn và ngu xuẩn một cách trịnh trọng. Họ xuất thân ở các đại học yên vui, dân tộc này xuất thân ở ngay sự sống hỏa ngục, học bằng xương máu và nước mắt của chính mình. Tôi đặc biệt quý mến một người bạn Nhật cùng học một trường với tôi ở ngoại quốc. (Nhắm mắt tưởng tượng lại ngày đó. Hình ảnh xuất hiện cùng với lời người chú.) Tôi gặp y lần đầu vào dịp cùng đoàn sinh viên trường du ngoạn trên hai ngàn thước cao của dãy núi sương khói Smoky Mountains. Chúng tôi thoạt cùng yên lặng ngắm cảnh trời chiều ở khoảng cao này. Nhìn về phía North Carolina, thung lũng âm u; phía Kentucky, ánh vàng thoi thóp; đặc biệt khi quay lại Tennessee, cây rừng bỗng in bật trên nền trời đương xẫm màu, những cành mềm khẽ lung lay theo gió như có bàn tay của đấng chí tôn vừa tới âu yếm xoa đầu tạo vật. Tiếng người bạn Nhật thủ thỉ nói với tôi trong bóng chiều chạng vạng đó. Anh nói anh ghét chiến tranh vô cùng; trong kỳ Đệ nhị Thế chiến vừa qua, cha anh chết ngoài chiến trường, anh anh chết đói, chính anh cũng suýt chết đói. Giọng anh buồn, thật buồn như xuất phát tự hư vô rồi lại chìm vào hư vô. Tôi mến anh ngay từ lúc đó. Rồi chúng tôi lẳng lặng chui vào sleeping bag ngủ. Nói thật ít mà niềm cảm thông thì chan hòa! Hôm sau lúc bừng mắt dậy, núi rừng xung quanh tuyết đã lén phủ trắng xóa tự bao giờ, nước đọng thành những giọt trân châu quanh mình, ai nấy tưởng như đương lạc vào một thế giới thần thoại mà lâu đài thành quách thẩy đều làm bằng pha lê. Chính lúc đó anh bạn Nhật thủ thỉ tâm sự tiếp câu chuyện bỏ dở chiều hôm trước. Anh thú thực khi ra nước ngoài gặp người Việt Nam anh mới hay là người Việt Nam cũng đi học hành, cũng có trí thông minh như ai.
Người bạn: Ủa, sao kỳ vậy?
Người chú: Bởi thế hệ mới lớn lên của nước Nhật họ có biết gì về Việt Nam đâu ngoài những phim ảnh trên vô tuyến truyền hình hoặc trên báo chí.
Người bạn: Trời ơi!
Người chú: Mà xem TV, nhìn ảnh báo chí, họ thấy gì? Thấy cảnh ở chui rúc trong những túp lều dựng lên bằng cành cây, lợp bằng giấy báo; thấy cảnh chiến tranh tang tóc, mẹ ôm xác con, con ôm xác mẹ; thấy cảnh ông già bị trói quặt khuỷu tay, râu tóc xác xơ, vải đen bịt mắt, rẻ nâu buộc miệng...
Người bạn: Trời ơi!
Người chú: Chưa hết đâu anh ơi, còn những tác giả "giàu sáng kiến" in một quyển tranh ảnh song song so sánh đôi miền, miền hỏa ngục của chúng và miền thanh bình của họ. Chẳng hạn một bên là ảnh người mẹ gày Việt Nam ôm đứa con mặt cháy phồng vì bom napalm, thì đối xứng trang bên là cảnh bà mẹ Âu Mỹ âu yếm ôm con trên giường nệm trắng tinh, cả hai trang ảnh mang cùng một đầu đề "Ôm ấp". Đối xứng với ảnh cụ già Việt Nam bị bịt mắt buộc miệng là ảnh vị bác sĩ Âu Mỹ cũng bịt miệng, tay đeo găng đương chăm chú
Người bạn: Họ cố tình bêu rếu mình?
Người chú: Đó là cách họ sử dụng tự do đấy! Quả thực đây là một cuộc chiến tranh vô nhân đạo nhất thế giới từ xưa tới nay! Quả thực cuộc chiến tranh này bẩn thỉu đến mức không thể nhân danh bất cứ cái gì mà biện minh cho nó được nữa!
Người bạn: Sau buổi đi chơi núi anh vẫn gặp người bạn Nhật của anh?
Người chú: Chúng tôi trở thành bạn thân từ đó. Cho đến ngày tôi về nước, người bạn Nhật kể lại cho tôi hay là anh đã hai lần viết thư về nước nói về những người Việt mà anh gặp, nhưng các bạn anh ở Okinawa
- quê anh ở Okinawa - cương quyết không tin và cho là anh nói dối.
Người bạn: Trời ơi!
Người chú: Câu chuyện thực đã thê thảm, đêm đó về phòng tôi còn mơ một giấc mơ kinh khủng hơn, bây giờ nghĩ lại còn toát mồ hôi lạnh.
Người bạn: Anh mơ thấy gì vậy?
Người chú: Tôi mơ thấy mình chết. Linh hồn tôi cùng vô số linh hồn khác nằm ngồi la liệt trong một căn phòng rộng. Tôi bỗng nhớ lũ cháu tôi vô cùng, lũ cháu của người anh thứ hai tôi ở Saigon đây, và lũ cháu của người anh đã chết trận trong thời kháng chiến hiện sống với mẹ ở một vùng giới tuyến. Tôi nhớ lũ chúng đến muốn ứa nước mắt, và linh hồn tôi vùng lên với ý định quyết liệt bay về nhìn chúng tại cả hai nơi. Nhưng thê thảm chưa, linh hồn còn nặng nề hơn thể xác, bị chôn chân ở nguyên chỗ cũ như hệt một thân cây không thể tự bưng gốc mà cuốn lên theo gió. Tôi chợt cảm thấy lòng tràn ứ chua xót, vì như vậy là cho đến muôn đời... muôn đời về sau tôi không còn được thấy mặt lũ cháu thân yêu nữa, linh hồn tôi sẽ biến thành thứ đá vọng phu chôn chân một chỗ hướng vọng về cố hương. Tôi khóc rống lên thê thảm như mỗi lần mơ thấy mẹ chết. Và tôi bừng tỉnh dậy. Thật là hú vía! Sự sống quý quá anh ơi!
Im lặng. Đôi mắt người chú lim dim. Người bạn vừa toan rón rén rút lui, thì tiếng người chú cất lên êm nhẹ như vẳng lại tự một thời gian xa xôi nào, tự một không gian vời vợi nào.
Người chú: Ngày tôi lên đường về nước, người bạn Nhật bịn rịn tiễn tôi ra tận phi trường bằng xe của anh. Trước khi đi anh bẻ một cành hồng rose of charon tặng tôi, tôi cũng bẻ một cành crepe myrtle tặng lại.
Một bản dân ca khác tràn vào. Tiếng sáo véo von óng chuốt như cô gái vừa tới tuổi xuân; tiếng clarinet ấm như giọng chàng trai tới ướm hỏi nàng làm vợ. Lời ca cũng vừa cất lên. Đó là bài "Hát Hội Trăng Rằm":
Trèo lên quán dốc Ngồi gốc (ối a) cây đa Rằng tôi lý (ối a) cây đa.
.....
Người chú như lim dim ngủ, người bạn rón rén ra khỏi phòng. Người chú đi sâu dần vào giấc ngủ cùng với bài dân ca kế tiếp:
Nước chảy bon bon
Lên non hái trái
Anh cảm thương nàng
Cô gái mồ côi
...
Có những bước chân hấp tấp cùng với nhịp nhạc. Lũ cháu lớn trai có, gái có vừa đi học về tới nhà. Đứa đi đầu thấy chú ngủ bèn quay lại, một ngón tay để lên miệng "Suỵt", cả lũ ren rén bước lẹ vào trong rồi lên thang gác.
Ánh nắng xa xôi nào vàng úa hắt vào căn phòng. Người chú bắt đầu đi vào một giấc mộng sầu, mơ thấy mình tới vùng quê hương khói lửa có nhà người anh cả trước đây đã chết trận Điện Biên Phủ. Tiếng đại bác chiến trường vang dội đâu đây... Người chú lững thững từ xa đi lại, dừng trước cổng tre xiêu vẹo, đưa mắt nhìn hàng giậu tiêu điều. vùng cây cỏ không xa hàng giậu còn ghi dấu vết của bom đạn, màu cỏ vàng úa, những thân cây cháy đen. Tiếng hát bài "Cây Trúc Xinh" vẳng tới:
Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc
Qua lối nọ như bờ ao
Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng
Đứng nơi nào qua lối như cùng xinh
...
Tiếng hát trong vắt vẻo, trời xanh và nắng vàng như sà xuống ôm lấy vùng cây cỏ cháy sém bên hàng giậu xác xơ để an ủi vỗ về. Người chú đã bước vào vùng sân cỏ trước căn nhà tranh vắng ngắt. Người chú vừa nhắm mắt hai tay ôm lấy mặt thì cảnh nước ngoài thanh bình xuất hiện, đồi cỏ xanh mướt, lũ trẻ tóc vàng trai có, gái có, đương rượt nhau vui đùa nô giỡn. Có tiếng lũ trẻ ồn ào. Người chú buông tay ngửng nhìn. Trên con đường cỏ cháy sém, hai đứa cháu sinh đôi một trai một gái đương cùng lũ trẻ hàng xóm chạy lại. Lũ trẻ này cũng trai có gái có, nhưng mặt mũi hốc hác cơ cực, cỡ tuổi khoảng từ tám đến mười hai. Hai đứa cháu và lũ trẻ hàng xóm đã quây xung quanh người chú, tưng bừng.
Người chú: Trời ơi, ai bảo các cháu chơi trên con đường đó. Các cháu không nhớ hôm nọ mìn nổ sao?
Đứa cháu trai: Chú ơi, hôm nọ anh Hoàn cháu đi học về được chứng kiến mìn nổ trên đường nhựa. Mìn nổ đúng lúc chiếc xe nhà binh chở bốn quan tài lính qua. Bốn chiếc quan tài cùng bật tung bốn nắp và bốn xác người bắn ra lăn lông lốc.
Người chú: Đúng rồi, chú có biết tin, và các nhạc sĩ, văn thi sĩ nước ta gọi vụ thê thảm đó là "người chết hai lần" đó các cháu ạ. À này, thế anh Hoàn cháu giờ này vẫn chưa đi học về sao?
Đứa cháu trai: Thưa chú cũng sắp rồi ạ.
Đứa cháu gái: Anh Hoàn cháu đã về kìa, chú.
Hoàn, đứa con trai mới lớn, mười sáu tuổi, nhưng khuôn mặt sớm u trầm như muôn ngàn khuôn mặt trẻ khác ở khắp các ngả đường đất nước và đặc biệt ở những miền giới tuyến.
Hoàn (một tay vẫn xách cặp, một tay khoanh lại): Chú ạ.
Người chú: Cháu đã đi học về! Cháu vào cất sách đi, rồi ra đây nói chuyện với chú.
Đứa cháu gái bỗng chạy lại kéo người chú vào trong nhà, chỉ vào một bàn thờ nhỏ đóng trên tường gian bên.
Đứa cháu gái: Chú ơi, sao ảnh anh cháu lại không được đặt bên ảnh cha cháu?
Người chú: Vì anh cháu chết trẻ quá không được đặt lên bàn thờ ngang hàng với ông bà ông vải cháu ạ. Ngày cha và anh cháu chết, hai anh em sinh đôi cháu hãy còn nằm gọn trong bụng mẹ.
Đứa cháu trai (lúc đó đã có mặt bên đứa em gái): Cha cháu là tiểu đoàn trưởng phải không chú?
Người chú: Đúng! Cha cháu chết rất anh dũng ở mặt trận Điện Biên Phủ.
Đứa cháu gái: Còn anh cháu chết ở đâu?
Người chú: Anh cháu năm đó vừa mười tám tuổi, xin nghỉ học xung phong đi dân công lần đầu, cùng một mặt trận với cha cháu, những mong hai cha con có thể gặp nhau.
Người mẹ: Thế cũng là gặp nhau chứ sao!
Người chú: Kìa chị, chị về lúc nào thế?
Lũ trẻ hàng xóm đương chơi ngoài sân bỗng xôn xao chạy tán loạn.
Người mẹ: Cái gì vậy? Cái gì vậy?
Hai người mặt mày tham nhũng bước vào, mỗi người nắm một bả vai Hoàn, thằng bé lớn.
Người tham nhũng 1: Chúng tôi tới bắt lính, thằng này vừa mười tám tuổi!
Người mẹ: Van các ông, tội nghiệp, các ông lầm rồi, cháu nó mới có mười sáu.
Người tham nhũng 2: Phải có cái gì chứng tỏ nó mười sáu tuổi chứ!
Người mẹ lần hầu bao, dốc hết số tiền đựng trong đó ra, đặt lên hai bàn tay chụm sát của hai người tham nhũng. Cả hai đồng thời buông tay cho thằng bé tự do rồi đi thẳng vào vườn dâu ngay bên nhà, điềm nhiên ngồi xuống... đại tiện.
Người chú: Chị đừng buồn phiền, cứ để mặc họ làm vậy, rồi mưa xuống, tất cả đều tan biến, ngấm xuống màu đất.
CẢNH 3
Giọng ca bài "Ngày trở về" vọng lại thoạt mơ hồ rồi rõ dần: "Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre..." Thoáng hiện hình ảnh những người lính bị thương chống nạng trở về, những người lính bị thương chống nạng trở về, những gương nước ao gợn sóng, những lũy tre già xao xuyến trong gió, những bà mẹ tóc bạc chống gậy lật đật, những người vợ trẻ bước chân tơi tả. Vẻ tưng bừng bỗng đượm màu tuyệt vọng, vì những hình ảnh đó tan biến ngay. Người chú đã ra đứng giữa sân, người mẹ còn đứng trong nhà. Tiếng ca bài "Ngày trở về" vang lên càng rõ và càng não nuột. Người mẹ tự trong nhà chạy bổ ra sân. không?
Người mẹ: Chú trông kìa, có phải cháu nó về
Một hình người từ xa bước tới, nhưng khi tới gần bỗng biến thành áng mây khói tan loãng rất nhanh trong một thứ gió chiều vần vụ như thứ gió thổi qua bãi tha ma. Người mẹ ôm mặt. Lại bóng một người khác xuất hiện từ xa đi lại.
Người chú: Chị ơi, chị trông kìa, ai như...
Người mẹ: Trời ơi, anh về, chú! Anh còn sống! Đúng rồi, chính anh. Ra họ đồn hão hết. Đúng rồi các con ơi, cha các con đã về kìa, các con ơi...Để tôi phải hủy những cái kia đi. Thì ra họ đồn láo hết.
Người mẹ chạy vào nhà gạt hai tấm ảnh thờ người cha và người con xuống đất, tiếng kiếng rơi vỡ loảng xoảng. Có tiếng đuổi nhau huỳnh huỵch bên ngoài. Người mẹ ngó ra thấy người cha đương đuổi riết đứa con mười sáu tuổi.
Người cha: A thằng này láo, cha mày về mà mày chạy trốn à? Mày có biết tao là cha già của mày không. Mày chạy sao thoát nổi tay tao con ơi. A a, nó chạy vào buồng chứa ngô khoai. Con ơi, chạy vào đấy là cùng đường rồi con ơi.
Người cha một tay cầm roi tre, một tay cầm chiếc chày nhảy xổ vào buồng. Mọi người hốt hoảng ùa vào theo. Tiếng súng trận lớn nhỏ đũ cỡ đâu đây rất gần vang dội lại. Người con chui kín vào một bao tải lẩn sau một cái bừa. Người cha dùng roi tre luồn vào quật túi bụi, hễ đứa con nhô đầu hay nhô đít ra khỏi cái bừa người cha lập tức giáng cho một chày, miệng luôn luôn gầm thét: "Cha già của mày về mà mày chạy trốn à?!" Không khí kinh hoàng chụp lấy mọi người trong tiếng roi tre vun vút và tiếng chày giáng nặng nề. Người chú bỗng thấy thằng cháu lẩn trong bao vải nằm bẹp xuống, khoảng mặt nó biến thành hình chiếc phong bì lớn; một hình vuông màu đỏ lợt trên chiếc phong bì tượng trưng cho cái mồm bên trong của nó; hình vuông đó thoạt còn động đậy nhưng rồi mím lại dần và sau cùng bất động.
Người chú: Anh đánh chết nó rồi còn chi. Chị ơi lại đây giúp tôi một tay bế cháu ra sân. Các cháu ơi, mỗi đứa giúp chú và mẹ một tay, mau lên.
Đứa con trong bao tải đã được khiêng ra sân. Một thành sương trắng dâng lên bao quanh một làng xa, thoáng bóng một con sông nhỏ hiu quạnh và bần bách với bãi cát trắng. Tiếng người mẹ luôn luôn rền rĩ trong tiếng súng trận lớn nhỏ vang rền.
Người mẹ: Con ơi, ới con ơi, ới làng nước ơi, ới ông chú bà bác ơi, lại cứu con tôi!...
Có tiếng cười rùng rợn vang lại. Một khuôn mặt quỷ quái ác xuất hiện trên sườn đồi. Quần áo người cha và mặt nạ người cha vứt ở dưới chân đồi.
Khuôn mặt quỷ: Ha ha, chúng bay mắc mưu tao rồi; tao không phải là cha đứa trẻ, tao là "cha già dân tộc" kia! Ha ha, lũ bay, tấu nhạc!
Bản "Quốc Tế Ca" lập tức được tấu lên, màu sắt lửa rờn rờn tô đậm vẻ rùng rợn cho tiếng súng trận lớn nhỏ đang vang rền. Hình ảnh một chiếc xe đò bị mìn tung lên với xác một bà mẹ chết rồi mà vẫn còn ôm chặt lấy đứa con thơ; hình ảnh một người cha ôm con chạy vội xuống một khoảng trũng ven đường quên mình đã bị thương; máu từ trán nhỏ xuống ròng ròng theo bước chân; hình ảnh cả một gia đình chạy vội ra chiếc hầm đào ở giữa sân, nhưng mọi người chỉ vừa tới miệng hầm thì tiếng réo trái phá rồi tiếng nổ ầm và cả gia đình tung xác tóe ra bốn ngả như một bè nứa bị vỡ giữa một cơn bão biển tàn bạo... Đêm đã buông tấm màn mênh mông phủ lấy vạn vật, hỏa châu bắn lên liên tiếp soi sáng một vùng. Dưới ánh hỏa châu các ông chú bà bác đã tất tưởi từ các ngõ xóm chạy lại, kéo thằng bé ra khỏi bao tải xốc nách nó lên. Cả người nó đẫm máu tươi, răng gãy, lưỡi đứt, chân và tay lủng liểng. Mọi người đặt nó nằm lên một chiếc chõng tre. Những hỏa châu liên tiếp, liên tiếp, được phóng lên để soi sáng.
Khuôn mặt qủy: Ha ha lũ bay, tấu nhạc mạnh hơn nữa cho máu chảy về đây mà kẻ khẩu hiệu!
Tiếng "Quốc Tế Ca" cực lớn. Quả nhiên tiếng nhạc như biến thành một sức hút hung hãn và máu từ các ngả chiến trường chảy về thành những con suối, tụ lại thành hồ dưới chân đồi.
Người chú chạy vào trong nhà lấy ra một miếng bông đặt lên mũi người cháu, miếng bông còn phập phồng. Người mẹ càng rên rỉ thê thảm.
Người mẹ: Con ơi, ới con ơi...
Người chú: Cháu còn sống chị ạ, chị đừng khóc nữa, hãy bình tĩnh.
Người mẹ (bỗng trở thành gày tọp và xanh lét, vẫn rên rỉ): Con ơi, ới con ơi.
Các ông chú bà bác tới tấp lau chùi máu, giã thuốc dấu, đắp thuốc dấu lên khắp mình đứa trẻ bị thương và bắt đầu đắp lên khuôn mặt giập nát của nó.
Khuôn mặt quỷ: Lũ bay, kẻ khẩu hiệu! Ha ha, khẩu hiệu cứu quốc!
Dưới ánh hỏa châu rực rỡ những suối máu vẫn từ các ngả chảy về tới tấp, hồ máu dềnh lên, muôn vàn biểu ngữ được căng ra, những dòng khẩu hiểu bằng máu tươi được trưng lên từng bừng: "NỘI CHIẾN CỨU QUỐC."
Người mẹ (càng gầy và xanh, tiếng rền rĩ yếu thoi thóp): Ới con ơi là con ơi...
Người chú: Chị ơi, hãy tỉnh dậy, chị, cháu hãy còn sống mà..
Đứa cháu gái đứng bên chú bỗng biến thành đứa trẻ ăn mày, đầu tóc rối bù mặt mũi lem luốc hốc hác, quần áo rách tơi tả.
Đứa cháu gái: Cô chú có biết không, cháu hết tiền rồi, cháu làm sao mà có tiền để nuôi mẹ cháu, cô chú có tiền không, nếu mà cô chú có tiền thì cô chú hãy cho cháu đi để cháu nuôi mẹ cháu.
Khuôn mặt đứa con gái trắng bệch và mờ đi vào ánh hỏa châu rực rỡ. Hàng ngàn tấm biểu ngữ "NỘI CHIẾN CỨU QUỐC" đã được viết xong và đương tiếp tục viết nữa. Biểu ngữ chi chít căng cao trên đầu đám đông bộ hạ của tên ác quỷ; biểu ngữ cắm chi chít quanh hồ máu; biểu ngữ cắm lan ra giữa hồ máu, ánh máu rung rinh đỏ rợn dưới ánh hỏa châu và phản chiếu ngược lại những dòng chữ máu "NỘI CHIẾN CỨU QUỐC". Có những dòng khẩu hiệu máu đã khô chuyển sang màu tím đen; có những dòng máu vừa đặc quánh màu đỏ thẫm; có những dòng biểu ngữ mới viết, máu tươi còn lỏng nguyên tụ lại thành những giọt đỏ long lanh, lã chã rụng xuống như những giọt nước mắt tử sĩ thương nhớ những người thân còn trên dương gian. Khuôn mặt quỷ cất tiếng cười ha ha, đôi mắt sáng quắc long sòng sọc, râu tóc bạc của nó ánh màu máu trở thành một màu râu ngô quái đản. Hỏa châu liên tiếp phóng lên không trung để tô đậm màu tối đen của những kiếp người bị đày ải trong hỏa ngục nội chiến. Súng đủ cỡ lớn nhỏ cùng plastic nổ vang rền như một thứ pháo tết để giễu những kiếp người đã từ lâu quên khuấy mùa xuân.
Một tia chớp nữa lóe sáng, nhưng lần này không có tiếng súng, trái lại một tia nắng vàng bùng lên, một màu vàng buồn thảm. Cảnh phòng học cũ xuất hiện: Người chú vừa hốt hoảng vùng đứng dậy khỏi chiếc ghế bành, hai tay còn ôm lấy mặt bàng hoàng.
Trong khi đó thì...
MÀN TỪ TỪ HẠ