SỐNG CÓ MỤC ĐÍCH
Rượu nguy, thuốc phiện nguy.
Nhưng nguy nhất là sống không có mục đích.
Sáng dậy điểm tâm ở gánh phỏ đầu phố, vào làm trong sở cho qua giờ, về ăn cơm rồi ngủ trưa, làm buổi nữa, ăn bữa nữa, rồi tổ tôm, rồi xem hát hay chớp ảnh, ăn đêm. Sáu ngày đều đều như thế, chủ nhật: cuộc chơi đặc biệt, cá ngựa.
Việc mình làm không thể yêu được, còn thời giờ lại phải đem "giết" đi. Cuộc đời như thế thực là đáng thương.
Rồi qua tháng này đến tháng khác, hết năm trước đến năm sau. Cuộc đời dài dàng dặc, dài ghê. Không giải thoát được bằng rượu, bằng thuốc phiện, bằng bệnh, thì rồi đến cái buổi đáng sợ, lúc hưu trí, quen tiêu nhiều rồi, giờ phải tiêu ít, quen chơi nhiều rồi, giờ không còn sức, không còn tiền mà chơi được nữa. Nhìn cái chết nó chưa đến như ngắm ngàn dậm sa mạc, không có một chỗ nào có chòm cây bóng mát để nghỉ cái linh hồn, đau khổ nhất là chán nản.
Nếu giữa con đường dài và ảm đạm ấy tinh thần có lúc tỉnh táo được, bạ chuyện huyền hoặc nào cũng nghe, tưởng là thoát được khỏi vòng thường, nhưng lại càng đáng thương bao nhiêu. Óc đã không tìm tòi, chí lại không mạnh mẽ, sao biết được sự thực, cho nên nỗi mê tín quàng xiên.
Thành ra một đời dài, dài mà không từng sống, một đống tuổi mà chết dần chết mòn, chết từ ngày chưa sống tí tị nào.
Kịch bi thảm nào bằng.
Cũng có người, nóng thì ngồi dưới quạt máy, lạnh thì nằm trên đệm bông, ngày năm ba bữa, áo đủ mùi, đi ra thì lên xe, xuống kiệu, ở nhà thì kẻ dạ người hầu, mà rút cục chữ sống cũng chỉ có cái nghĩa vật chất của nó thôi.
Cũng có người cũng có cái cảm tưởng là sống thực, vì đã lên trên một kịch trường, vì đã hoạt động, vì đã nói năng, nhưng rồi nghĩ cho kỹ vẫn làm một cái bánh xe bị quay, một cái chuông bị giật, mục đích sai lầm, trước còn tỉnh biết, sau cũng tự an ủi, tự mê.
Cũng có kẻ sống say mê với hát, với đàn, với nhẩy múa, với chơi bời. Rồi một lúc tỉnh, cuộc đời rộn rạc, cái chán nản không thể ngăn được cái giá trị nhỏ nhìn tưởng là to, mà cầu cứu ở chén thuốc hay dòng sông.
Đã đáng buồn, đã phí bao nhiêu mạng vô dụng.
Ấy thế mà, một cái hy vọng lớn, một cái mục đích cao, một lòng yêu, một nỗi giận, đủ cho cả một đời rỗng tuếch, một cái gân, một nhẽ để sống đấy.
Việc quan trọng của một đời ta không phải là ở chỗ nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn.
Nếu chúng ta tìm được một việc mà làm, một tôn chỉ mà theo, một mục đích mà đi tới, thì cái đời chúng ta có ý nghĩa, cái đời đáng sống. Như thế trên đời này, ngửa không thẹn với giời, cúi không thẹn với đất, mở mắt nhìn người không phải cúi đầu. Chúng ta để hết lòng hết chí, ta làm việc ta, rồi ngày mai, hay một hôm nào đó, chết, ta có thể chết mà vẫn mỉm cười một cách thỏa mãn, chết không còn nỗi tiếc gì nữa.
Sống đã có nghĩa thì rồi chết cũng có nghĩa.
SẮP SẴN
Đời ta, ta quyết làm cho nó một ý nghĩa
Ta hãy xem thử gân sức, xem thử gan óc mình, với cái chí mình, liệu có làm được không?
Ta phải "sắp sẵn" mới được.
Ta phải sắp sẵn để lúc cần ra, lúc có thể làm được, ta phải ra tay và kề vai vào gánh vác việc đời.
"Sắp sẵn" những gì?
Cái xác thịt ta đủ sức chưa? Mặt mày này với phong sương đã đủ giãi dầu chưa? Hay mưa còn run, giá còn cảm. Tay có nhắc nổi, có nhanh nhẹn không? Chân có kéo xa được không? Quả tim buồng phổi liệu có chịu đựng được những lúc cố gắng không? Hay là rút cục, lại phải lấy câu "lực bất tòng tâm" mà tự mình an ủi.
Cái học của ta đã đến bậc "biết" chưa? Lúc tuổi thơ đã quen xem xét chưa? Nếu chưa, bây giờ đã cố bù, cố gỡ được phần nào? Bây giờ còn học, còn tập nữa thôi, hay cho thế là đủ rồi. Cái học của mình có phải là học bền vững không? Có học cho hiểu, cho biết không, hay là chỉ khu khu buộc mình vào chỗ cơm gạo.
Mình có những tài gì? Đã luyện cho nó quen chưa? Có tập cho nó cao hơn không?
Đã nghiêm khắc mà tự mình xét mình chưa?
Đã xét cho biết người chưa? Người quanh mình, người cùng nước, người thiên hạ.
Đã làm chưa, cái việc cốt yếu là đọc sử, cuốn gia phả quý báu. Có ngẫm nghĩ đến việc cũ mới biết những sức đã mầm mống, nuôi ở trong óc, trong lòng mình.
Thế rồi định chí. Việc ấy đã làm chưa? Tỉnh táo mà xét, thẳng thắn mà xoay cho đúng hướng, chí mình đã định rồi thì mải miết theo đuổi.
Thân mình khỏe để làm, học thức nhiều để dùng, tài năng cao để khuôn xếp, nhận xét rõ để đỡ nhầm. Bao nhiêu thứ dùng cả để đạt được cái chí.
KHỎE ĐÃ!
Thân lươn nếu chịu ép một bề thì cũng bắt chước những người yếu, người hèn mà chép miệng thở dài: "thôi, giời đã sinh ra cái thân yếu thì đành vậy, chớ làm thế nào?"
Nhưng, “khỏe thì làm thày của xác mình, yếu thì làm đầy tớ nó”. Lư Thoa nói thế mà thật, chẳng trái ngược gì cả. Mình khỏe, muốn đem xác mình đến chỗ nguy hiểm bậc nào mà nó chẳng nghe. Yếu thì đành phải hầu nó, kiếm mấy người nữa mà nâng giấc nó. Nó đau, nó ốm những chăm nom cho nó mà đủ khổ. Mà động muốn đi xa một tí là chân nó những muốn gẫy. Muốn làm việc nhọc, ngực nó không kịp thở. Có khổ gì bằng: muốn làm mà đành phải buộc gối bó tay.
Mà đừng có đổ lỗi cho các cụ ta chẳng chịu vận động cho nên nỗi. Chương trình học từ đời xưa chả có những khoa cưỡi xe bắn cung đó ư? Ông Khổng lúc nào cũng đeo gươm. Thày lang Biển Thước vẫn bảo: "người ta phải vận động, nhảy nhót thì thân thể mới khỏe mạnh, thư thái". Nước ta làm quan to như ông Lê Tuấn Mậu còn đóng khố đi vật, quan nghè Đinh Công Cưu vẫn đá cầu giữa triều đình. Phạm Ngũ Lão nhảy gò cao như chơi. Phạm Tử Nghi đánh gậy, con đường Thiên Lôi, bến Niệm Hải Phòng, còn giẹp xuống đó.
Lại cũng chớ đổ lỗi là ăn không có thịt, uống không có rượu vang. Mình yếu, chỉ tại mình cả.
Phải tập cho:
Khỏe mình,
Dai sức,
Dạn nắng gió.
Gan.
Khỏe là có sức mà không ốm, làm việc không vì thiếu sức mà phải bỏ, lúc nào trong mình cũng điều hòa, vui tươi, dùng đến sức là có ngay, đã làm là chắc được, không ngại ở chỗ nhức đầu, số mũi, hay là thận hư, "đau tim" cái bệnh cao quý. Khỏe là nhắc được nặng, đi được nhanh, nhẩy và leo trèo được cao,
Không những có sức, lại phải giữ sức nữa. Có thế thì làm việc mới đến nơi đến chốn, không bỏ dở. Muốn như thế thì không những phổi phải mạnh, máu chạy tốt mà ai còn phải chịu nặng nhọc quen.
Lại phải dạn dầy. Đi nắng mà nhức đầu, ra lạnh mà khản cổ, rét hay run, đói khát không chịu được, thì khó bàn được đến chuyện làm.
Có ba thứ mà thiếu chí cũng hỏng. Chí thuộc về tâm hồn, mạnh ở từng trải, nhưng một phần lớn cũng do ở thân thể. Người yếu mà có chí vẫn là ít có.
Trông nom luyện tập thế nào?
Phải theo phép vệ sinh đã.
Hãy ngồi ngoài sân, ngoài vườn hơn là ở phòng đóng kín cửa. Như thế thì không khí hít vào được thứ trong sạch, có sức mạnh của trời đất. Đi nắng cho quen. Tóc sinh ra không phải là để cạo hẳn đi. Phải để cho đủ che đầu. Quần áo cũng chẳng nên kín lắm. Bó mấy lần áo, đóng quần kín mít đến gót, bàn chân còn đem gói giò, cổ lại đánh một cái đai chặt chẽ, thế thì không khí còn vào chỗ nào để cho da thở, nắng còn vào chỗ nào cho máu chu lưu; khăn quàng làm yếu cổ, bít tất làm mềm tay, kính rợp bịt lấy mắt cho vi trùng tự do đục. Uống trong ít không đủ rửa ruột, tắm ngoài không đủ tráng da, nguy mất.
Ngày nào cũng nên tắm, mà tắm nước lã, cả mùa rét nữa, vừa để sạch vừa để cho mát, vừa quen lạnh. Nước nóng thì dám bảy hôm dùng một lần cho tan ghét.
Ăn uống đơn sơ, vừa đủ, nhai kỹ. Đã nói ở trên.
Về tình dục thì rất nên tiết độ. Sức phí đi không lấy lại được. Việc đó không những quan hệ tới luân lý với linh hồn mà lại liên lạc lớn với sức khỏe, với nòi giống. Sức người chỉ có hạn. Khi hại, hại đến cả con cháu......
Cả đến bộ thần kinh cũng rất cần vệ sinh. Đừng ở những chỗ ồn ào xe ngựa. Đêm ngủ phải cho đủ nghỉ, tùy theo khỏe yếu mà ít nhiều. Đừng để đến nỗi ngủ gật hay ngái ngủ. Nhà hát, nhà chớp bóng nhốt người vào buồng kín rồi đánh trống thổi kèn cho dinh tai, nhẩy múa lộn bậy cho quáng mắt, thán khí ở năm trăm cuống họng thở ra mà đủ ngạt. Những chỗ ấy không phải là chỗ nghỉ ngơi sau một
ngày khó nhọc.
Phép tu dưỡng đại khái chỉ thế.
Khoẻ
Muốn mưu đồ việc gì cũng phải khỏe, phải mạnh mới mong thành công được. Ai cũng biết thế.
Ông Hébert, người dạy phép tự nhiên nói rằng: "ta phải khỏe. Kẻ yếu là đồ vô dụng, đồ hèn".
Ai cũng muốn sung sức để làm việc, để phụng sự cái tôn chỉ của mình. Vì thế mà người ta có bổn phận tập luyện thân thể cũng như bổn phận luân lý vậy. Còn hơn nữa, không có sức thì sao mà làm trọn được bổn phận luân lý. Gặp lúc nguy nan thì chỉ có chắc được ở tay chân mình thôi. Không chạy, không nhảy, không ném, không leo, không bơi, không đánh đỡ được thì hỏng.
Thế nào là "người khỏe”, là người lúc nào cũng sẵn sàng mà chống đỡ được các việc xẩy ra. Người khỏe phải "bền" sức; sức muốn bền thì ngực và tim phải tốt. Người khỏe phải có "bắp thịt", bắp thịt dùng được chứ không phải bắp thịt béo. Phải "khéo tay", khéo là do ở tập luyện. Có khéo thì mới dùng được bắp thịt của mình. Người khỏe phải “nhanh”. Lại phải có can đảm, bền chí, tỉnh táo, chịu khó.
Phương pháp nào mà đem lại được cả những đức về sức lực và tinh thần ấy.
Phương pháp tự nhiên
Con chim phải bay, con ngựa phải chạy. Người ta phải đi, chạy, nhảy, chèo, bơi, ném, chống đỡ. Vậy sẽ luyện tập các môn ấy, vừa luyện tập vừa theo vệ sinh trong và ngoài, vừa ăn uống vừa phải đơn sơ vừa điều độ, vừa tiết dục.
Có sân vận động càng tốt, không có cũng không sao. Người ta phải rong ruổi trên đường đời, dùng ngay cánh đồng, đồi núi, sân trại, chòm cây mà tập mới tự nhiên, sẵn sàng mà không xa sự thực.
Sáng dậy, trong phổi có nhiều hơi độc, hãy thở ra ngoài mà thở đều đều, thở thật sâu cho dốc hết phổi ra, khí huyết không chạy đều cũng cần dúng tay vào nước và xát khắp mình mẩy.
Thế rồi đi, đi lên, đi lui, đi rón rén, đi cúi mình, đi bốn chân.
Leo lên cây, lên cột, lên sợi dây.
Nhảy qua rãnh, qua ngòi, qua cái ghế, bụi cây, bờ rào.
Ném xa, ném trúng. Ngày nào cũng tập thì tiến bộ trông thấy. Nhiều khi thoát hiểm bằng môn ném.
Mang thúng đất, đội; cõng người.
Chạy chậm, nhanh, bất thình lình dừng lại.
Đấu sức, xô nhau hay đánh quyền.
Cứ phỏng như vậy mà tập dù ở trong buồng gần một cửa sổ cũng có thể, ngoài sân ngoài vườn càng hay.
Ở phương Đông ta cũng có nhiều cách luyện tập mà lối tốt hơn cả là quyền học. Nhưng khó nhất là tìm được thầy. Những người có thể hạn cho ta một trăm ngày, sáu tháng hay một năm mà giỏi được, đích là lừa ta đó. Những người có thể mặc cả với ta về công xá lại đáng ngờ lắm nữa, vì người có học văn cao thế nào, thì võ cũng vậy, tất nhiên phải có nhân phẩm. Tìm được thày có cái học nguồn gốc, có thể dạy mình từ biết thịt biết xương, biết cách cử động cho thuận thuận tay chân, thật là khó. Có thầy đi đủ được chí để theo học được đến nơi lại khó nữa. Nhưng đã học được rồi thì ngoài cái thú thanh cao về học lại còn được hy vọng đem thân mình gửi vào một việc mà những sức vóc tầm thường không dám làm.
Nói tóm lại, luyện tập có hai đường.
Phép Tây bao nhiêu người đều nên theo cả. Dù rằng thành công, không ở chỗ thực mạnh thực biết, nhưng dễ đến bậc khoẻ. Phép Đông thì cần chí hơn nhiều, hy vọng cũng lớn hơn, nhưng không phải ai cũng có thể đến được.
Cây bảo kiếm quý ba trăm lần rèn. Không luyện sao thành thanh kiếm tốt.
Cần nhớ:
Tập cho vừa phải. Tập xong mà hơi mệt là được.
Ví dụ tập 45 phút thì các môn tập cứ nặng dần cho đến phút 30, rồi lại nhẹ dần cho đến khi hết.
Cách tập phải nhẹ sau mỗi lúc tập nặng, Ví dụ chạy rồi thì đừng nhảy vội, hãy ném, trèo, hay mang xách.
Nên tập những thứ hơi nguy hiểm một tí cho quen, đỡ sợ, và cho đỡ chóng mặt: đi trên tường thấp, trên đầm, nhẩy trên tường xuống.
Các môn tập nên thay đổi luôn. Không nên tập mãi một kiểu.
Một cách tập tốt là họp mươi anh em dự một cuộc săn bò tót. Một tay khá đóng vai bò tót. Rồi chạy, rồi trốn, trèo sườn đê, xuống dốc, leo cây, dò xem vết chân, nhảy qua ngòi. Tập được đủ thứ mà vui vẻ. Tập vui dễ khỏe hơn là tập buồn.
Bơi
Bơi để thoát thân, để cứu người.
Vậy tập sao cho dạn nước, tập nhảy xuống dưới tập bơi khi có cả quần áo. Tập cởi giầy dưới nước.Bơi một tay còn một tay cắp dìu người. Tập cứu người.
Biết đủ cách làm cho người bị chết đuối lại thở được. Hô hấp nhân tạo.
Đo sức
Người bình thường ít ra cũng:
Chạy 500m trong 1'40"
Nhảy cao có đà: mỗi chân nhảy được một mét.
Nhẩy xa có đà: mỗi chân 3m50.
Leo thừng 5m, không dùng chân.
Ném tạ 7kg250, mỗi tay xa 5m50
Cử tạ 40 kg được một lần.
Bơi 100 mét hết 3'.
Lặn lâu 10”
CHỊU KHỔ .
Chịu cực cho quen. Thật dễ hiểu lắm.
Nhưng đối với những tâm hồn mạnh mẽ thì cực nhọc hình như là cái thích của họ. Thích chịu cực đó là cái đặc tính của những người làm được.
Có thể sai bảo người được, mà tự mình đi làm. Sẵn xe, có tầu, nhưng đi chân cho biết, xem có mệt không... xem mệt đến đâu. Cùng ai khiêng vác đồ gì, nhận lấy góc nặng nhất, người ta chiếm mất phần danh dự ấy, mình lấy làm khó chịu lắm. Cùng làm việc với người ta, phần khó nhất giữ cho mình, coi như là mình có quyền giữ lấy.
Đi chùa Hương mà ngồi kiệu, đường gập gềnh ra mình không được nếm. Một cuộc du lịch mà không có gió bụi hình như không có vị gì. Cùng bạn đi một con đường trơn và giốc, mình đã phải vất vả điêu đứng, gặp bạn còn được câu chuyện mà nói: Anh nhỉ, cái đường đi hôm ấy, hôm nọ... Nếu đường phẳng, gió xuôi thì còn nói chuyện gì. Người đời vẫn tưởng những chuyện vui thì nhớ lâu; thực ra những nỗi khó nhọc mình mới nhớ dai, vì mình đã phải đem gan sức ra mà thử.
Bể dội sóng, đường bụi bặm, trận mưa bão, bãi cát trắng, hay là đỉnh núi cao, khu rừng thẳm, một bãi tha ma, một tòa thành đổ những cái đó có duyên với người tráng sĩ. Sóng cả thích ở cái thú vượt qua, gió to thú ở đứng vững, trận mưa lớn thú ở không sợ rét, bãi cát trắng thú ở những nỗi xa xăm. Núi cao thú ở trèo, rừng thẳm thú tìm đường, bãi tha ma nói câu chuyện kim tích, bức thành đổ nảy lòng muốn phù chì.
Ăn no, rồi ngủ kỹ, cái kiếp ấy không chịu nổi.
TRONG SẠCH.
Mấy anh em ngồi than vãn cùng nhau về cái nỗi "tham" nó đã tràn ngập nhiều hạng người trong xã hội.
Một anh đi buôn kêu khổ về những khoản "trà thủy" phải đưa.
Một anh em than phải “vi thiềng” trong một việc dính đến mình.
Câu chuyện “hoa hồng” làm chua xót anh nọ.
Đến cái “phong bì” làm cho gia đình kia túng thiếu.
Chỉ "tiền xe" cũng chết anh ấy.
Khoản "quà" cũng chết nữa.
Bao nhiêu chữ lễ phép, lịch sự, cũng dùng để chỉ mỗi việc nó là "tiền đút". Những người “đút tiền” nhiều, những người muốn hay đòi “ăn đút” cũng nhiều quá.
Đút tiền cho nó đỡ bận đến mình, đút tiền cho nó xong chuyện. Đút tiền, vì nó là tiện hơn nhất. Đút tiền thì qua được nhiều nỗi khó khăn, đút tiền được dễ dãi nhiều thứ.
Nhận cho kỹ, kẻ đút tiền dù được dễ dàng, vẫn không sao tránh được tiếng hèn. Kẻ ăn đút, dù ở vào bề thế nào cũng vẫn là bị đồng tiền hay món quà của người ta sai khiến.
Mỗi người kể một chuyện, mỗi người có một thí dụ............
Một anh đi xa về nói rằng chỗ ấy cũng thế, chỗ nọ cũng thế. Một anh quen biết nhiều lại chêm thêm: Người nọ cũng thế, người kia cũng thế..........................................................
Nhưng mà... để cho nó tràn mà hụp đi thì nó ngập hết. Chỉ một mỏm đất cứng nổi lên là rêu mọc ra, bèo bám vào, đất tụ lại, có thể làm cái đảo muôn vàn năm được.
Dù chỉ còn có một người trong sạch, ta quyết làm người trong sạch ấy, là vì trong sạch mà thiệt thòi, dù trong sạch mà đói khổ, cũng chỉ thiệt chỉ đói cái xác ta thôi. Tâm hồn ta vẫn thảnh thơi, vẫn sung sướng được là tâm hồn trong sạch.
Cơn gió mạnh trong sạch nổi lên được thì các cơn khác yếu hơn có thể phụ vào mà thành ra trận gió lớn quét sạch được bụi tham bỉ đi.
Nên ghi rằng: Biếu người ta là làm bẩn cái tiết của người ta. Nhận của người ta là làm đục cái trong của mình.
ĐỨC NGHÈO
Người ta chỉ than nghèo. Mấy ai đã suy xét về sự nghèo. Thế mà nghèo quả có giá trị của một đức tốt.
Vì nghèo mà phải làm lụng, phải vận động, sức được mạnh.
Vì nghèo, ăn uống đơn sơ nên ít bệnh; có bệnh cũng dễ chữa.
Đã nghèo thì ăn mặc tầm thường, không vì đồ trang sức mà vương tai nạn; không đến nỗi vì sợ lấm áo mà bỏ mất việc.
Không ai giữ nhà tốt bằng nghèo, nghèo không bận trí vì phải canh giữ, giấc ngủ không phải cắt đứt vì thức nhắc.
Nghèo thì ít bạn, nhưng được bạn chân thật bạn của mình, bạn chí minh, chớ không phải bạn của tấm áo quần mình mang.
Nghèo không mất tự do; chịu thiếu quen thì không sợ người ta đem ăn mặc mà trói buộc mình, bắt mình làm trái với lương tâm mình.
Tiền bạc không bận mình thì đi hay ở là do nơi mình, có thể giữ được phẩm cách người quân tử: "ăn không cầu no, ở không cầu yên".
Nghèo thì gần được "thiên nhiên", “sống thiên nhiên”, không bị vật chất làm sai được bản tính. Đã ở dưới quyền vật chất thì yếu sức mình, mà liêm sỉ cũng khó giữ được nữa.
Đi không phải xe, ngựa, đi xa không có khó gì? Ăn không cá thịt, ăn đã không phải là một việc phải lo lắng, có đủ thời giờ mà suy nghĩ về cái nghĩa đời người, Màn sương, đệm cỏ cũng đủ ngủ được, giường chiếu, êm ấm có cần gì. Đã biết thế thời lợi không thể đem ra mà giử được mình, vàng không thể dùng để sai khiến mình. Mình giữ vững được "chí", mạnh được khí.
"Nghèo” quả là một "đức",
GIẦU.
Không tiền làm gì được. Thế mà có cái gì mà một chí mạnh mẽ không làm được.
Bắt đầu chỉ một chén trà thơm, rồi cùng đến một chén rượu ngon và ngọt. Ngồi trên xe kéo thấy dễ chịu mà rồi phải có cỗ xe máy hơi.
Đã cho trà thơm là ngon, đã biết ngồi xe là sướng, con đường cứ sâu mãi mãi. Rồi không chén nước nào ngon đủ nữa, rồi không cỗ xe nào sang đủ nữa. Vì lòng dục thả rông rồi. Mà "nhân-dục-vô-nhai". Đến nỗi thấy rằng rượu ngon không có là đời không có vị, đến nỗi không nhẩy múa là đời không đủ say mê, không xem chớp bóng là đời nhiều chỗ rỗng, thì hỏng dễ lắm: thiếu một thứ không chịu nổi nữa. Đời đã là đời của lòng "dục" rồi. Nước lã có một vị; rượu thì vô số mùi, đi chân chỉ có một lối mà xe bao nhiêu hạng.
Trong một nước từ trên đến dưới đã ganh vì lợi cả, cơ tan nát tránh sao được. Tất cả những người đến nỗi quên liêm sỉ, muối được mặt mà làm những điều đê tiện, chỉ vì lợi đó thôi. Sử đời này đã có bao nhiều đoạn đau đớn vì lòng dục thả theo lợi. Tiền đã mua được bao nhiêu lương tâm.
Người ta nói rằng "danh với lợi là hai cái bả". Xem tình trạng bây giờ thì "danh" cũng ít ai chuốc lấy nữa, chỉ còn một cái lợi thôi.
..................................................................................................................................................................................................................................
"Giầu" chẳng đáng sợ lắm sao?
HIỂU RÕ:
YÊU.
Người ta nói về yêu, chỉ thấy:
- Mợ ơi, mợ đẹp nhất đời, tôi "yêu" mợ!
- Tôi "yêu" phong cảnh này quá!
Cả đến: tôi yêu cái nếp áo này vô ngần.
Yêu một sắc đẹp, một cảnh đẹp, yêu một đồ trang sức đẹp, sao bằng yêu cái đẹp của đạo lý. Khóc người nhân tình một buổi trời xuân sao bằng rỏ nước mắt trên một trang quốc sử khi đọc những hành vi của một vị nghĩa sĩ, một bậc anh hùng.
Có cái yêu người ta tan lòng, nát ruột mà sinh ra mê man, sinh ra chán nản. Có cái yêu người ta nhức lòng hởi dạ, đứng được dậy, làm được việc; kề vào vai mà nghiêng ngửa được vạc ngàn cân, yêu mà để cả thân thể vào một việc.
Cũng là yêu, mà mạnh mẽ thay cái yêu của người chí sĩ.
GHÉT, GIẬN.
Ghét một người láng giềng hay nói, ghét một mầu áo, mầu tường không vừa ý mình, giận một nỗi bực mình, giận một người bạn đã bỏ dở cuộc chơi với mình. Đó là cái ghét, giận của da của thịt.
Sao bằng ghét những điều ô trọc, ghét những truyện lọc lừa, ghét những kẻ đê tiện, ghét những phường gian ngoan.
Đặng Dung vuốt ngực thở dài, giận mình nỗi bạc đầu chưa trọn việc. Nguyễn Trãi nhìn theo Ải Bắc giận người ác độc chí thêm già.
Cũng là ghét, cũng là giận.
SỐNG
Trên bãi bể Sầm Sơn cập Khôi - Huệ đã "sống" những ngày tươi thắm!
Dưới cặp mắt thùy mỵ của Thảo, Úc đã "sống" những phút ngây ngất.
Ở tiệm nhảy Sao Chổi một thế hệ đã sống những khắc thần tiên.
Cả đến:
Gia đình son trẻ ấy đã "sống" một cách đầy đủ.
Hay là bộ Tam Phong của hội H.O.L.A.O đã "sống" những chớp mắt oanh liệt.
Mà luôn cả: Ông Hàn Ỷ đã "sống" một cuộc đời đầy hạnh phúc.
Chữ "sống" dùng trong bấy nhiêu đoạn có phải là ở cái nghĩa mà ta phải cho nó không? Sống như thế có phải là "sống" không, hay là tươi thắm đã nhạt màu, cơn ngây ngất đã hết, tiền đã cạn, sức đã cùng, phong vị tầm thường đã nhạt nhẽo quá, thì đem ngay vào cỗ săng, cắt ngay đến chén cay đắng, đâm ngay xuống dòng nước chảy xuôi.
Chúng ta có thể hiểu chữ "sống" như thế không? Để cái thích ở lòng dục, ở xác thịt, ở sự tầm thường thì sống có gọi là sống không? Có đủ nghĩa không?
Đối với chúng ta, sống hãy là hoạt động đã. Bởi vì chỉ có chết mới nằm yên thôi. Sống là làm một việc, theo đuổi một mục đích, trước khi chết không nghỉ phút nào, không dừng bước nào, sống là làm cho đời mình tươi thắm vì lòng nhân ái, vì những điều nghĩa làm được, ngây ngất khi theo đuổi cái đích xa xôi, tự cho là thần tiên tuy rằng đằng vật dục trăm đường thiếu thốn, chỉ khi nào thắng được lòng xấu xa của mình đem lại được yên vui cho người, mới gọi là oanh liệt thôi.
Khi hai tay buông xuôi, không còn nỗi gì đáng tiếc, thế là sống đã đầy đủ.
Lại cũng có giết thân để thành nhân, bỏ mình vì làm nghĩa, vì dân, vì nước mà chết, thì cái chết không khác nghĩa cái sống một mảy may nào.
"Chết" lại hóa ra 'sống".
Chớ như sống mà nghe việc nhân không hiểu, thấy việc nghĩa không động, lòng không có một tấm yêu, chí không có một mục đích, cảnh xác vẫn còn, mà tâm tư đã chết, thì sống đó mà thực đã "chết" rồi.
SỐNG PHẤN ĐẤU
Ta quyết phải tìm một lẽ sống, một cách sống. Sống một cách phấn đấu.
"Mạnh sống, yếu chết” nói mãi hóa nhàm, câu ấy đã thành ra câu văn, đọc đến không thấy cảm gì nữa, không thấy mạnh tý nào.
Không thể sống theo nhờ trời được nữa, chậm kén chọn một cách sống lúc nào là mất cái hy vọng từng ấy.
Ngâm nga một vài vần thơ có thể hả lòng hay khoan khoái trong một lúc, ru ngủ trong chốc lát mối lo sợ. Rượu có thể làm cho người ta chếnh choáng mà quên đời. Câu hát nhịp đàn cũng vui được đó. Nhưng mà ngủ có giấc, mê rồi tỉnh, vui hờ hững phải hết. Tỉnh rồi, ngắm thấy việc mình có ra gì, thân thế mình rồi có ý nghĩa gì không. Sau cơn mê, giấc mộng, vẫn không hơn cũ.
Buồn về nỗi mình, nhưng không muốn cho buồn tới chết thì phải sống. Không thể hững hờ coi đời mình như việc thiên hạ, cháy nhà hàng tổng. Phải tìm ra một việc, rồi định chí làm, làm đến cùng.
Tháng tháng có ít tiền, kể cũng sống yên được, roi vọt không lâm đến thân mình, kể cũng sống nhàn được. Nhưng cái thân đã cho là yên là nhàn, thì còn muốn gì nữa. Đã không muốn thì làm gì? Vì vậy mà người xưa một ngày ba lần như một ông thầy nghiêm xét việc mình, vì vậy là ăn không cần no, ở không cần yên
.........................................................................................................................................................................................................................................................................
Chí phải nuôi luôn như thế.
Việc đã định rồi thì một lúc không thể nghỉ được, tập luyện người cho mạnh, săn sóc công việc cho siêng, việc có thể mượn người làm được không mượn, sức có cách hà tiện được không hà tiện, ở chỗ tạm yên được cũng coi như ở chỗ nguy. Ngồi một mình cũng như lửa bén tới lông mày vậy.
Mùa rét thì dầu với giá lạnh, lúc mưa thì dạn với gió mưa, không để cho tước lộc bận mình không để cho thân gia bận lấy ý nghĩ, lúc nào cũng chống chọi.
Đời như vậy có cái vị như gừng ớt, sống mạnh, sống không tầm thường.
Sức đem vật lộn, sức vì đó mà tăng, tài đem ra kinh doanh, tài vì đó mà tiến. Chí cứ phấn đấu mãi, chí phải mạnh để làm cho đến lúc việc xong, cho kỳ được.
Phấn đấu phải được. Nếu còn thua ấy là phấn đấu còn chưa đủ sức đấy thôi.
NHỮNG GIÁ TRỊ CŨ
Khổng Tử nói rằng: "Cái nghĩa tùy thời lớn lắm”.
Thời này công việc của chúng ta, lấy hình thức mà xem thì là công việc mới. Nhưng công việc là cái hình ở ngoài, còn cái gốc, cái vốn, thì vẫn là gốc là vốn cũ.
Vậy ta hãy xem cái hương hỏa giáo dục của ta, sẵn cho ta những gì?
Gốc luân lý ta có tám chữ: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm và sỉ. Ta hãy tìm ra cái nghĩa nguồn gốc của mỗi chữ, mỗi đức tính.
Hiếu : Hiếu là thảo, là thuận, là ăn ở cho thỏa thuận là ăn ở cho thỏa thuận lòng cha mẹ, làm cho cha mẹ được vinh hiển, tôn trọng. Cha mẹ ác nghiệt cùng cực, mà vua Thuấn ở được cha mẹ vui lòng. Khổng Tử khen là đại hiếu. Hiếu là đầu của trăm nết. Không hiếu với cha mẹ ấy là người bỏ đi.
Đễ : Đễ là thảo với anh em, trên hòa, dưới thuận, yêu báu lẫn nhau, kính mếm lẫn nhau.
Trung : Trung là ngay, trong lòng ngay thẳng, không thiên tư, sai lạc; ở với vua, với nước, với quan trưởng, với bạn hữu, ngay thẳng một lòng, dầu hoạn nạn cũng không thay đổi dạ, trung chính như ông Tô Hiến Thành, chết cũng không đổi như Quan Vũ.
Tín : tín là tin, không giận người, không giận mình, bụng nghĩ, miệng nói, việc làm, kính cẩn giữ gìn không sai, không lừa dối, không nuốt lời.
Lễ : lễ là lễ phép, là kính. Kính cẩn giữ mình cho trân trọng nghiêm phép. Khổng Tử dạy:" Không phải lễ chỗ nói, không phải lễ chỗ nhìn, không phải lễ chỗ động". Lễ là để chính mình. Sau này người ta quên dùng theo ý ấy, chỉ biết lấy lễ để thờ người thôi.
Nghĩa : Nghĩa là nghĩa, là công lý, là minh bạch, chính đáng, cương quyết, phải trái. Ở Đào Viên, Lưu, Quan, Trương, ba người lấy nghĩa, công lý mà kết hợp với nhau.
Liêm : Liêm là liêm chính, không tham lam, không lấy của ai phi nghĩa. Dương Chấn đi cầy thấy vàng ngoảnh đi, không nhìn.
Sỉ : Sỉ là hổi thẹn. Biết hổ thẹn không làm việc phi nghĩa, không ăn của phi nghĩa, không nói lời phi nghĩa, không để cho thân đê nhục. Hai ông Di, Tề, hổ thẹn thóc của nhà Chu phi nghĩa mà không ăn.
Tám chữ gồm cả đạo làm người.
QUÂN TỬ
Nho giáo dạy cho người ta có cái đạo người quân tử. Quân tử là cái tôn chỉ của giáo dục.
Người quân tử lấy việc "sáng đức sáng của trời đất cho, làm mới dân, đi đến chỗ chí thiện" làm mục đích của mình.
Quân tử ăn ở hòa thuận với mọi người, chỉ trông cậy vào sức mình chớ không chờ sức người giúp, đối với thiên hạ không câu nệ điều gì mà cũng không a-dua theo ý ai, việc gì cũng lấy công nghĩa làm chuẩn đích mà theo, chẳng tranh cạnh với ai hay cùng làm với mọi người mà ghét bè đảng, chỉ lo không làm được đạo; chớ không sợ nghèo, không tham sống mà bỏ đạo, có khi giết mình mà làm cho trọn đạo; ăn cơm rau, uống nước lã gập tay mà làm gối, mà vẫn vui vẻ, chớ bất nghĩa mà được giầu sang thì coi như đám mây bay mà thôi. Quân tử cẩn thận cả lúc ngồi một mình, "việc gì làm cũng kính cẩn". Coi người trong bốn bể như anh em một nhà. Người ta làm đức với mình, lấy đức mà báo lại, người ta gây oán với mình, chỉ lấy thẳng mà ở lại thôi. Khi nghèo người quân tử không bỏ mất nghĩa, khi giầu không rời đạo ra. Người quân tử phải làm việc công; làm việc công là vì nghĩa, là để giúp đời.
TRÁNG SĨ
Làm việc thì thích như bậc tráng sĩ. Lúc hội ẩm ở Hồng Môn, đi với Bái Công đến trước Hạng Võ cùng bao nhiêu tướng tá họ múa gươm, Phàn Khoái không ngại gì mà cũng múa một cách mạnh mẽ. Hạng Võ khen là bậc Tráng sĩ. Tráng sĩ không sợ. - Bắt ngựa của vua Tần, Vua Tần không giận mà còn làm ơn. Trong lúc vua Tần bị khốn, bọn người núi liều chết ra đánh. Vua Tần khen là Tráng sĩ. Tráng sĩ không quên ơn. Nhiếp Chính giết kẻ địch cho người tri kỷ, giết xong không để cái mặt mình mà cầu danh. Tráng sĩ không vì danh. Chị Nhiếp Chính không tiếc mạng mình ra nhận em để cho danh em không mất.
Đó là chí tráng sĩ. - Đỗ Khắc Chung trước mặt Ô Mã Nhi gầm thét mà ung dung, không để nhục mệnh vua, tráng sĩ có gan. - Nguyễn Chế Nghĩa cưỡi ngựa múa thương xông vào trận Mông Cổ như không biết chết, Hưng Đạo Vương gọi là tráng sĩ: tráng sĩ anh hùng. Phạm Tử Nghi dẹp đuổi quân hung tàn để bênh vực cho người yếu đuối, đến lúc phải chết để yên việc, Phạm Tử Nghỉ ung dung đem đầu đưa cho người ta: Tráng Sĩ hy sinh. Tráng sĩ gặp chuyện bất bình không bao giờ bỏ qua.
NHÂN NGHĨA
..............................................................................................................................................................................................................................................................
Những sự tiến bộ về khoa học của thế kỷ thứ mười chín là một khoái chí cho các nhà bác học nhưng cũng là một cái "tha hồ" cho lòng dục vọng. Cái mộng binh lửa của thế kỷ thứ hai mươi lại nhân lòng dục vọng mà nẩy ra. Lấy gì mà làm nguội những cớ điên đảo ghê gớm ấy.
Mặc Tử thấy người ta làm cái thang dăng thành, đến van xin bỏ đi, chỉ sợ kẻ yếu không nơi ẩn trú. Võ Hầu dùng địa lôi rồi cũng không muốn truyền lại sợ tai hại sinh linh. Đó là lòng nhân làm át được dục.
Đã đành rằng chống với sức khỏe thì phải dùng hết sức hết, tài, nhưng nếu không chừa một đường sống cho nhân loại, trên việc cạnh tranh, chỉ nghĩ một thời, một đời, thì không bao giờ khỏi vận đen tối cho đời nữa.
Vì thế mà Khổng Tử phải nói "nhân", Mạnh Tử lại nói thêm "nghĩa", Đạo của hai bậc thánh hiền chỉ "nhân, nghĩa" thế mà thôi.
"Nhân" là đạo người, tình nhân loại, tử tế, phúc đức; "Nghĩa" là phép thẳng, công bằng, tốt.
Nếu chỉ lấy cớ rằng hai ông ấy sinh ra từ bốn năm thế kỷ trước Cơ Đốc kỷ nguyên mà bảo rằng đạo của hai ông là cổ thì ra người bây giờ không phải là người nữa sao. Vẫn là người thì vẫn phải rõ đạo người, vẫn phải công bằng. Ấy chỉ vì nhân nghĩa người ta không trọng nữa mà mới đến tình thế này.
Người đời này chi biết mình mà không biết đến ngoài mình, chỉ biết chúng mình mà không biết đến ngoài chúng mình. Nguy ở đó.
Nho giáo với nhân nghĩa, là một hy vọng hòa bình cho đời.
Vậy chúng ta gắng gỏi hết sức vì nước ta, nhưng chúng ta, cũng nên hiểu rằng người ta có thể gắng gỏi được. Lòng trung hậu ấy làm cho đời thêm đẹp hơn vậy.