LÀM GÌ
Trai nhà Nam, gái nhà Nam, đã xét qua tất cả các nông nỗi nói ở trên, muốn tìm một "đạo", một con đường làm người, làm người nước Nam, thì nên làm thế nào?
Hãy làm cho có phương pháp.
Xét hiện tình nước mình, hiện tình thiên hạ.
Ta ra đời với cái vốn nào: lịch sử, tổ tiên ta, tôn giáo ta, nhà ta, làng nước ta.
Ta sắp sẵn thân ta như thế nào?
Ta xét lại cái hiểu biết về sự vật, về đời như thế nào?
Xong các việc ấy ta định một chí cương quyết, nuôi cái chính khí cho chí mạnh vô cùng.
Rồi tìm việc mà làm, không lúc nào nhác cái mục đích tối cao, tối quan trọng của ta là làm cho tổ quốc mạnh mẽ, giống nòi phồn thịnh, tin rằng thế là cách dự một phần vào việc thiên hạ.
NƯỚC TA CẦN GÌ?
Vì sao nhãng đã bao lâu, đạo đức đã suy. Suy nhưng vẫn còn nền, Trên cái nền ấy vẫn xây đắp được một cái nhà chắc chắn.
Một dân tộc sống hai đời phù hợp nhau. Đời tinh thần và đời vật chất. Nếu chỉ thiên vào vật chất thì tinh thần mòn mỏi, cái hại đã biết rồi. Tinh thần không đôn đốc cho vật chất, không được.
Ta hãy nghĩ đến mạnh tinh thần đã: Tinh thần của ta không thể nói là cũ hay mới. Đó là tinh thần chung của một dân tộc sống bốn nghìn năm rồi mà còn sống mãi mãi. Dân ta đã nói rằng có nhiều đức tốt và có cũng khá nhiều thói xấu. Giữ chặt lấy nền nếp luân lý vẫn có, bồi đắp hết sức cái đức tính tốt thì cái xấu cứ bạc tước dần dần.
Muốn làm mạnh tinh thần cả nòi giống, ta hãy làm mạnh tinh thần một ta đã. Ta sửa mình ta như mài giũa một thanh gươm quý không thể chịu để bám gỉ vào, lại khắc khổ từng ly từng mẩy, lại phải dúng vào nước lạnh, dầu sôi cho già thép. Ta nhìn rõ, không để nhầm vì các sự yếu và mạnh, giầu và nghèo, cũ và mới, chính và tà. Ta là một phẩn cốt của nòi giống, ta tốt phần nào là nước ta hay phần ấy. Rồi thì dầu ta không đem mình ra làm kiểu mẫu, mà sức cảm hóa của đời vẫn mạnh, người khác cũng tốt lây. Trong một phố hay một làng có một người thiện đủ gợi lòng liêm sỉ của cả phố, cả làng, người tà bậy cũng phải khép nép.
Đến phần vật chất, tự lỗi ta mà ta thiếu thốn đủ đường. Dẫu rằng kẻ chính nhân, người quân tử chẳng lấy ăn mác làm nghĩ nhưng đối với những tâm hồn tầm thường thì ăn mặc vẫn giúp đỡ cho đức tính.
Than củi ta có lắm lắm mà vẫn phải mua dầu vào. Chè nhà ngon lại bán đi để mua chè nhạt vào. Có khi bọn tai quái lại lấy ngay của mình bán cho mình sau khi mặc vào một cái bao ngoại quốc. Bán da mộc vứt đi để mua da thuộc từng cân về................................. Đã chẳng làm được cái gì ra vẻ lại còn bọc những chứng phong lưu vào cho nó làm khổ mình. Làm được một vài thứ lại mỗi ngày ganh nhau làm bạc bẽo đi để thành ra một câu chua xót: "Đồ An Nam có ra gì? - Đồ..... lại chả tốt".
Đất đồng bằng ở đông quá rồi, có chỗ mỗi cây số vuông quá một ngàn tư người ở? Không làm thêm ra nữa thì khốn...............
Dùng sức khỏe của mình làm phu thì có luôn luôn, mà làm thợ chuyên nghệ thì ít quá. Mà cái khéo của người An Nam có phải là kém đâu. Từ khi hàng ngoài ít mua được nữa, thợ thuyền được chỗ dùng đã tỏ ra rằng có thể khá lắm được. Chỉ ít học, ít tập thôi.
Cái thiếu bây giờ là thiếu chuyên môn.
CHUYÊN MÔN
Thanh niên ta có gốc sẵn, có thể có chí mạnh được, hãy tìm tòi quanh mình, hãy xem xét khắp nước, tìm lấy một việc làm.
Mỗi người trong bọn ta phải thành một giá trị.
Người Việt Nam học tài lắm. Khi lấy một cái văn bằng làm mục đích, thì văn bắng ấy dù cao đến thế nào, cũng với được: Nói về tài học thì tài vô cùng; dù chí làm, tài làm đều là những chuyện khác: Học để lấy bằng có thể làm được; đã hẳn không khó gì với một trí tuệ lại có sức lo giúp vào. Nhưng dám làm mà làm được thì còn mong ở chí khí mình đã.
Thế cho nên những văn bằng từ cao đến thấp... chúng ta thấy đã khá khá nhiều, còn những người đem học ra mà làm, hoặc làm mà được việc, vẫn thấy ít quá. Khi muốn tìm một người biết đến nơi đến chốn một vấn đề, một khoa học, hay kiếm một người để làm trọn một việ thì khó khăn quá lắm.
Cái cớ khó ấy là tại chỉ lấy văn bằng làm đích, được bằng là mãn nguyện rồi, không muốn tiến lên hẳn cõi biết, là cõi không có văn bằng nào làm chứng nữa, cho thế là phí công. Những văn bằng đủ kiếm chỗ để sinh nhai một cách tầm thường thì được, chớ có đủ để lập nghiệp đâu. Đem việc sinh nhai riêng làm giới hạn thì đi xa khó được.
Cái có khó nữa là tại thiếu chí để bền gan mà theo đuổi một việc, thiếu khí để nuôi sức hăng hái mà tiến mãi lên.
Nói rằng khó kiếm, chớ không phải là không kiếm ra được. Vẫn có, nhưng ít lắm.
Ở những nước người ta trọng sự thực, kỹ sư bậc nào khi vào đời cũng phải bắt đầu làm công việc của người thợ. Như thế các việc sáng chế không viển vông, các việc thu xếp được đến nơi đến chốn. Lẽ ấy thế nào ta cũng phải theo. Nghề nào là nghề của ta.
Các sinh viên, các thợ bạn, thì nghề chuyên môn, đích là cái nghề mình đang học. Phải tập thể dục cho đủ sức khỏe, rồi để hết hơi hết sức vào việc học của mình. Học cái gì cần đến chỗ thật hiểu, thật biết, suy xét thí nghiệm xem cho rõ. Đừng học để đi thi, học để biết để dùng, thế rồi đến lúc thi vẫn được. Gần đến lúc thì mà ngốn lấy ngốn để thì cái trò "bạo nhập thì lại bạo xuất", thi xong là quên hết. Nên từ đầu năm bài nào học kỹ bài ấy, kỳ đến thật tiêu, ăn nhập vào óc mới thôi. Cái công nấu nung trong một tháng, đem chia ra cả năm thì vẫn nhẹ nhàng mà đỡ quen thói lười, thói đùn. Việc hôm nào làm ngay hôm ấy, đó là một thói quen cần có cho được. Chỗ không được rõ đến nơi thì hỏi thầy, bàn với bạn, tìm kiếm ở sách vở, chưa thấy chưa thôi. Trong các năm học thì: để cái đích mình cho cao, phải đến hạng "thày nghề" mới tạm nghỉ. Đừng cho "gọi là đủ” đã là được. Thôi học rồi vẫn tìm, vẫn xem học mãi. Nhớ lời minh "Nhật Tân" của vua Thang. Bức văn bằng chỉ đủ cho người tin. Phải đến chỗ mình có thể tin mình mới thôi, nghĩa là không bao giờ thôi.
Có nhiều người may. Ra đời làm ngay được cái nghề mà hợp với tài mình, ý thích mình. Cố nhiên là sung sướng. Tiền kiếm có thể ít đấy. Nhưng tiêu tiền ít hay nhiều chỉ là một chuyện quen thôi. Cái đó không ngại. Cốt là tâm vẫn được thư thái, biết được rằng việc mình có ích với đời. Chớ đứng núi này mà trông núi khác. Cố mãi, cố mãi cũng lại nhớ lời minh của Thang "nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân". Vẫn phải đến chỗ "thày nghề”.
Cũng có người vì cảnh ngộ không được may mắn làm cái nghề mình thích. Nhưng nếu nghề ấy biết rằng nó có ích với nước, với đời, là được rồi. Trăm hay không bằng tay quen. Lúc ấy mình vận dụng hết cái sức của chí mình. Hết công hết sức làm mãi, học mãi, tìm mãi. Cái nghề ấy có thể là nghề chuyên môn của đời mình được, có thể làm đẹp cho đời mình, không phải ân hận rằng mình không giúp được nước, được đời.
Cũng có người gặp phải nghề không hợp với mình; nghề ấy nuôi sống được gia đình mình nhưng nó không có đủ đất để thi thố tài mình. Ấy thế thì đừng để cho nước cho đời khỏi thiệt thòi vì tài mình bỏ phí. Cái nghề mà ta thích, ta vẫn có thể theo đuổi ngoài việc thường của mình được. Người ta vì sinh nhai mà học nghề ấy phải hai ba năm thì ta theo đuổi trong năm năm, trong hơn nữa. Cái ngày sung sướng là ngày ta có thể vui rằng ta đã chữa được vận mà dù sao ta vẫn giúp ích được.
Chúng ta, hết thảy, phải thành những giá trị. Giá trị chúng ta tăng là giá trị nước chúng ta lên một bậc. Phương pháp giúp nước không phương pháp nào hơn phương pháp này. Không nói, không nổi nóng. Ta làm, làm cho đến được.
Dù làm việc gì cũng kỳ cho đến thật đẹp, thật xong, thật tốt.
CHỌN NGHỀ
Chọn nghề cốt nó hợp với tài mình, với ý thích của mình, cốt nó có ích với nước với đời. Còn như việc được nhiều tiền hay ít chỉ là chuyện phụ thôi.
Cần nhất là việc làm cho thực được, đồ làm cho thật kỹ. Ngoài cái thú thanh cao ngắm một công trình mà mình đã để hết tài trí của mình vào đó, cái giầu có không phải đợi mà nó vẫn đến.
Phạm Ngũ Lão đan sọt bên cạnh đường. Sọt chắc mà bền, người ta ai cũng nhớ của. Đến lúc làm tướng vẫn cái chí làm cẩn thận ấy mà làm được việc đại tướng.
Trần Nguyên Hãn bán dầu. Dầu tốt mà đong đầy. Cả một vùng từ làng Gốm đến Hoắc Sa ai cũng nhớ mua. Ra giúp Lê Thái Tổ, Nguyên Hãn vẫn cẩn thận, vẫn trung hậu mà nên được bậc khai quốc công thần.
Đương làm đại vương mà rồi phải bán than. Bên bến Bình Than anh hàng than được tiếng là than ròn và gánh nặng, đắt hàng. Vì cái Sự cố kỉnh ấy Trần Khánh Dư đánh một trận ở Cửa Vân Đồn làm cho Ô Mã Nhi táng đởm.
Đào Duy Từ đi chăn trâu. Chiều về gác roi lên sừng, ghé vào tràng học, cùng thầy đồ bàn nghĩa sách. Lũy Thày bây giờ còn lại cái chí của người mục tử.
Người tráng sĩ chỉ sợ không đủ tài. Có tài thì ngại gì không có chỗ dùng. Ở đài các làm được việc đài các, nhưng ở bần tiện cũng vẫn làm được việc bần tiện. Không chê việc thiện nhỏ mà không làm, không lấy công việc hèn mà không cố sức. Chỗ khó là ở công việc tầm thường, vẫn giữ được phẩm cách của người quân tử, vẫn giữ được tiêt tháo bậc đại trượng phu, vẫn cặm cụi làm cho phễu dầu mình rót vẫn đầy tràn, cái sọt mình đan vẫn tròn trặn vững vàng.
Trần Bình làm thằng mõ chia phần vẫn cố làm cho thật công bằng, cái mầm ấy sau này mọc nên tài kinh bang tế thế.
Đã là có ích thì không nghề gì hèn. Một khi một người hiền làm thì nghề gì cũng thành cao quý. Đã làm thì không đồ gì có thể cẩu thả được.
Vót cái tăm được tinh vi thì xây nhịp cầu cũng kỹ càng.
MỘT VIỆC CẦN XÉT KỸ
Một việc can hệ nói kỹ lại: tìm vợ, tìm chồng.
Mang tiếng dở người, có người hỏi cẩn thận: vợ là gì?
Thế mà cũng phải hỏi vợ là gì?
Làm trai đi trên đường đời, đi phải có bạn. Ấy vợ là người bạn đường đấy. Con đường dài, chồng có việc chồng, vợ có việc vợ, có cùng làm thì việc mới đầy đủ.
Độc thân, kể ra thì làm việc tiện, nhưng việc ấy không thể lâu dài, không nhìn được xa, không hết được bổn phận.
Vậy vợ là gì, là người nội trợ, to hơn nữa là nội tướng, là người bạn trăm năm cả đời, là hạnh phúc của một đời. Đó là đối với mình. Đối với gia đình là người hầu hạ cha mẹ mình, thay mình và cùng với mình, là người làm cho tôn đường nhà mình được nối dõi, là người mẹ của đàn con mình. Rộng lên nữa thì có quan hệ đến nòi giống mình, đến nước mình.
Thế cho nên chọn vợ là việc khó lắm.
Xưa kia cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Lắm người cho là đáng buồn cười. Nhưng nghĩ cho kỹ, thì trong một thời có giáo dục, cha mẹ đã từng trải đã hiểu rõ nhân tình, thế cố, kén chọn cho con giai con gái tất là đỡ nhầm. Cha mẹ để cho con chọn lấy là một việc khó cho con lắm.
Đang lúc khí huyết hăng, tất hay bằng ở sắc đẹp. Chọn một người vì sắc người ta, thì thật là khinh người ta quá lắm. Vả lại sắc nào mà bền được. Người đàn bà ngày xưa có cái sắc "Một cười nghiêng thành người, lại cười nghiêng nước người" đã chẳng nói đấy ư. Đã lấy sắc thờ người, sắc kém thì không còn giữ được lòng yêu nữa.
Bằng ở đức thì kỹ càng hơn. Có đức thì giữ được trong sạch từ trước, giữ được phẩm cách về sau. Yêu vì đức thì yêu được mãi. Cửa nhà được êm đẹp, con cháu được nhờ. "Phúc đức tại mẫu" không phải chỉ là để đức lại cho con, còn là dậy được con, làm gương cho con nữa.
Cha mẹ hay để ý môn đương hộ đối. Hiểu hẹp là quá thực, song hiểu rộng ra là có lý. Không phải là con quan lại lấy con quan, ấy là nhà có học, có lễ lại nên kén vợ, kén chồng ở nhà thi lễ. Hỏi những người có vợ rồi, thì biết cái nỗi buồn khi vợ mình nói những câu thô lỗ hay cư xử không hợp lối nhà mình. Lại phải nghĩ đến những người đàn bà tủi thân khi chồng mình có những cử chỉ phàm phu, mà không thấy ở cha mình. Con một nhà có liêm sỉ khi thấy người bạn "trăm năm" của mình không giữ được thanh cao thì khổ tâm dường nào.
Có gan mà hóa dần được thì may còn nói gì, không có thì đó là một đời âm thầm dài dài ghê sợ.
Lấy vợ, lấy chồng, gọi được bố mẹ người ta là bố mẹ, việc đó có một cái giá trị lớn, lúc bấy giờ hai nhà mới thật như một.
Gia đình thường vẫn là một cái bảo đảm gần chắc chắn cho mình. Không phải là trong chỗ tối tắm không có hoa hương lạ, nhưng vẫn ít có.
Trong lúc đòi không có nhất định, cứ đợi hẳn ở bố mẹ cũng khó, vì những giá trị đã thay đổi nhiều rồi, người ta đã nhầm.
Việc kén chọn ta cứ từ từ là hơn. Đừng để cho cái mà ta gọi là "tiếng sét" đánh bắn mình. Cũng đừng để cho cái "tình say mê ngây ngất" của tiểu thuyết xô đẩy được mình. Mình phải xét kỹ, chớ để bọn ngã lòng, hay bại trận họ bảo rằng: "hôn nhân là một cuộc đánh số".
Kén được vợ hiền hay người chồng xứng đáng là một kỳ công, kỳ công mình có thể làm được. Phải tìm tòi là lẽ tự nhiên. Gặp một người hãy đứng xa. Lại gần thì mình hay quáng mắt và người hay hàng chợ; rồi sau ngày cưới, đã hối, đã nhìn thấy những chỗ nứt nở, rồi phải vá víu, nối chắp đến khổ thân.
Hãy ở xa mà xem cách ăn ở của người ta. Cái tư tưởng "tự nhiên khi không có khán giả" của người ta, xem có thể hợp được với mình không, hay có thể hợp vào với tính mình mà làm một khối đầy đủ không? Cái mong ước cuộc đời sau này của người ta có thể là cuộc đời mong ước của mình không. Còn mình có thể gọi cha mẹ người ta là cha là mẹ không? Người ta có thể ở trong gia đình của cha mẹ mình không?
Cũng phải để ý đến sức khỏe nữa bởi vì người vợ của mình phải sinh con đẻ cái cho gia đình, cho chủng tộc mình. Mình mang bệnh tại mình hay gia truyền thì phải có cái gan chậm việc hôn nhân của mình lại chứ đẻ một đứa con không mạnh, thật phải cố lắm mới giữ được hạnh phúc. Việc đó đáng sợ.
Đã chọn được người rồi phải cẩn trọng ở lễ cưới. Dù cưới theo lễ nào cũng phải cẩn trọng, vì đó là gốc của hạnh phúc, có thể vì đó mà không hay có lâu bền.
Nếu đã nhầm mà việc đã rồi, người bạn đường của mình không như ý mình mong mỏi thì vợ hay chồng đều phải có cái can đảm mình nhận với mình cái lầm ấy. Dù sao chồng mình hay vợ mình vẫn là người bạn cùng đường của mình, mình có thể tin ở lòng cố gắng của người bạn ấy. Mình nhận ngay một cách cả quyết và nhẫn nại làm cho gia đình mình phải có hạnh phúc. Lấy cái sức bền vững trong êm ái, lấy cái công ngày tháng trong tình yêu, chắc là có thể hóa được. Khi thành công rồi, vì đó là một cái thành công tốt đẹp, thì trước lo âu bao nhiêu, sau lại êm đẹp bấy nhiêu, khác gì cưới một người vợ hay một người chồng theo ý tưởng ao ước của mình, hưởng một cái hạnh phúc mà tay mình gây nên được.
Cái thú độc thân là cái thú nguy hiểm, không gia đình thì tuyệt nòi giống mòn tổ quốc. Mà thú được bao lâu. Đến lúc bốn năm mươi tuổi, dưới gối không con, trong nhà không bạn, người độc thân bấy giờ mới biết đau khổ, đau không chữa được, hay chỉ chữa được bằng cách làm cho đau khổ hơn.
Người sống cô độc lúc ấy thành một quái vật. “Cây khô không lộc", người ấy sẽ khô khan, chán nản hay ác độc, vì trong đời đã không có một bàn tay êm ái buộc những vết thương của đường đời, yên ủi lúc đau, khuyến khích lúc mệt, vì đã không được cảm bằng những nụ cười ngây thơ của con trẻ nó dạy mình yêu, nó dạy mình chữ "nhân", vì nhìn sau mình thấy một cái "không" vô hạn.
Cũng có một chỗ khá lo. Là sợ vợ sẽ ràng buộc, mình sẽ ít làm việc mất.
Vậy phải nhân lúc mới lấy nhau, cái lúc tâm tình mới đang mạnh mẽ, nói ngay rằng: "Anh yêu em vô cùng, rồi thì yêu đến công việc theo tôn chỉ của anh. Ngoài ra không còn có sức nào hơn nữa." Người đàn bà bao giờ cũng mau hiểu, cũng biết điều, cũng dễ châm chước, sẽ rõ ngay rằng cái việc tôn chỉ ấy là một việc lớn, mình có muốn cũng khó phá được. Thế rồi liệu thu xếp ngay, ốn thỏa ngay.
Việc ấy không nên để chậm.