Chương 10
PHÒNG CỦA KADEN Ở CUỐI MỘT HÀNH LANG DÀI, TỐI TĂM. Nó có cánh cửa nhỏ, với bản lề rộng ám gỉ sắt và một cái khóa hình mõm lợn rừng. Cánh cửa không nhúc nhích khi anh ta đẩy nó mở ra, như thể nó bị phình ra bởi ẩm ướt, thế là anh ta phải huých vai vào cánh cửa. Cánh cửa bật ra, mở tung, dập bang vào tường. Anh ta đưa tay ra hiệu mời tôi bước vào trong trước. Tôi bước vào, hầu như không thấy gì xung quanh, chỉ nghe tiếng thịch nặng nề của cánh cửa đóng lại đằng sau chúng tôi. Tôi nghe thấy Kaden bước đến gần và cảm thấy hơi nóng của thân thể anh ta sát lại phía sau mình. Dư vị của khuôn miệng anh ta vẫn còn tươi mới trên môi tôi.
“Nó đây,” anh ta nói một cách đơn giản, và tôi biết ơn vì nó làm tâm tư tôi ngừng miên man. Tôi nhìn quanh, cuối cùng cũng thấy hết không gian rộng rãi của căn phòng.
“Nó lớn hơn tôi mong đợi,” tôi nói.
“Một căn phòng trên tháp” anh ta trả lời, như thể điều đó giải thích thêm về căn phòng, nhưng bởi vì nó rộng rãi, trong khi những bức tường cong vào ở bề mặt ngoài, thế nên, có thể đúng là vậy. Tôi đi sâu vào bên trong, bước lên trên một tấm thảm lông, dày, màu đen, hai bàn chân trần của tôi cuối cùng cũng được giải thoát khỏi mặt sàn lạnh lẽo. Tôi ngọ nguậy những ngón chân sâu vào trong mớ lông cừu mềm mại và rồi, mắt tôi dừng lại ở một cái giường. Một cái giường rất nhỏ, áp tường. Trên thực tế, tôi để ý thấy tất cả các đồ đạc đều bị đẩy sát vào tường theo một trật tự có hàng có lối tẻ ngắt, đúng kiểu cách một người lính chỉ quan tâm đến tính thực dụng khi bài trí đồ đạc. Bên cạnh giường là một thùng tròn, chất đống chăn đã gấp, một cái rương lớn, một lòng lò sưởi lạnh lẽo, một thùng nhiên liệu rỗng, một cái tủ ngăn kéo, và một chậu nước, tiếp đó là một hàng đồ nghề không đồng bộ dựa vào tường xếp san sát nhau - một cái chổi, những thanh gươm luyện tập bằng gỗ, ba cây roi sắt, một chân nến cao, và đôi ủng khó coi vẫn còn bám bùn dày đặc mà anh ta đã dùng khi đi qua Cam Lanteux. Ngay trên đầu là đèn chùm bằng gỗ thô sần, dầu bên trong lồng đèn bị để lâu đến mức đã chuyển hết sang màu vàng hung. Nhưng rồi, tôi cũng thấy những chi tiết không phù hợp lắm với nơi ở một người lính, sự nhỏ bé của chúng đột nhiên lớn hơn cả chính căn phòng.
Vài cuốn sách chất chồng dưới giường anh ta. Thêm bằng chứng cho thấy anh ta đã nằm xuống mà không hề đọc gì cả. Có điều, chính những món lặt vặt ấy lại khiến lồng ngực tôi thổn thức như sắp vỡ òa. Ở phía bên kia căn phòng, những mảnh thủy tinh màu xanh lá và xanh biển treo trên một cái dây da bện tết ngay dưới thanh dầm. Lọt thỏm trong góc là một chiếc ghế, và nằm ngày trước nó là một tấm thảm dày vuông vức dệt từ giẻ vụn sặc sỡ và len thô rối. Những món quà của thế giới. Chúng tìm đến dưới nhiều sắc độ. Tấm thảm của bà Dihara. Và tiếp đó, nằm trong một cái giỏ lông trên sàn là đám ruy băng, ít nhất một tá với đủ màu, có hình vẽ mặt trời, ngôi sao và trăng lưỡi liềm. Tôi bước lại gần hơn và nhấc lên một cái, rồi trải dây lụa tím biếc đó trong lòng bàn tay. Tôi chớp mắt, thấy cay cay nơi khóe mi.
“Họ luôn luôn gửi cho tôi thứ gì đó khi tôi rời đi vì nhiệm vụ,” Kaden giải thích.
Nhưng lần gần đây nhất thì không. Chỉ có một lời nguyền từ Natiya dịu dàng, ngọt ngào, hy vọng rằng con ngựa của tôi sẽ đá gãy hàm của kẻ thù. Anh ta sẽ không bao giờ được chào đón ở trại du mục thêm lần nào nữa.
Nỗi khiếp sợ bao trùm tôi. Thứ gì đó lờ mờ, ngay cả đối với những kẻ vẩn vơ. Tôi đã thấy nó trong đôi mắt của bà Dihara và cảm nhận từ đôi bàn tay run rẩy đặt trên má mình lúc bà ấy nói lời tạm biệt. Hãy lắng nghe tiếng gió. Hãy kiên cường. Có phải bà ấy đã nghe được tiếng thì thầm nào đó xuyên qua thung lũng không? Tôi cảm thấy nó ngay lúc này, có gì đó đang trườn bò xuyên sàn nhà, và những bức tường, leo lên theo những cây cột. Một sự kết thúc. Hoặc có lẽ tôi đang cảm thấy cái chết của tôi lan tới dần.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của Kaden phía sau mình và rồi cảm thấy đôi bàn tay anh ta đặt trên eo lưng tôi. Chúng từ từ xoay một vòng tròn, kéo tôi lại gần anh ta.
Tôi hít vào một hơi thật sâu.
Hai môi anh ta lướt trên vai tôi. “Lia, cuối cùng, chúng ta có thể...”
Tôi nhắm mắt lại. Tôi không thể làm chuyện này được. Tôi bước tránh ra và xoay người lại đối mặt với anh ta.
Anh ta đang mỉm cười. Đôi lông mày nhướng lên. Một nụ cười rộng miệng, tròn đầy, bao dung. Anh ta biết rõ cả.
Cảm giác tội lỗi và tức giận đồng thời tấn công tôi. Tôi xoay người và bước đến chỗ cái rương, bật tung nó ra. Thứ gần giống nhất với chiếc váy ngủ mà tôi có thể tìm thấy là một trong những chiếc áo sơ mi ngoại cỡ của anh ta. Tôi chộp lấy nó và xoay người lại. “Tôi sẽ ngủ trên giường!” Tôi ném một trong những chiếc chăn gấp vào người anh ta.
Anh ta bắt lấy nó, cười lớn. “Đừng giận tôi, Lia. Hãy nhớ rằng, tôi biết sự khác biệt giữa một nụ hôn thực thụ của cô và một nụ hôn chỉ để diễn cho Komizar thấy.”
Một nụ hôn thực thụ. Tôi không thể phủ nhận cảm xúc của nụ hôn đầu tiên giữa chúng tôi.
Anh ta thả cái chăn xuống tấm thảm. “Nụ hôn của chúng ta trên đồng cỏ thú vị hơn nhiều, mặc dù tôi thừa nhận rằng tôi cũng sẽ luôn trân trọng nụ hôn toan tính này.” Anh ta đưa tay lên chạm vào khóe miệng, trêu chọc, như thể anh ta đang nhấm nháp ký ức.
Tôi nhìn Kaden, đôi mắt anh ta vẫn ánh lên vẻ láu lỉnh, có điều gì đó giằng xé trong tôi. Trong một khoảnh khắc, tôi đã quên mất rằng anh ta chính là Assassin, là kẻ đã đưa tôi đến đây.
“Tại sao anh lại đóng kịch cùng tôi?” Tôi hỏi.
Nụ cười của anh ta tắt dần. “Đó là một ngày dài. Một ngày vất vả. Tôi muốn dành thời gian cho cô. Và có lẽ tôi đã hy vọng mình không là kẻ xấu xa chỉ xếp sau Ác quỷ trong suy nghĩ của cô.”
Anh ta mẫn cảm, nhưng không đủ sâu sắc.
Anh ta chỉ vào cái rương. “Nếu cô lục sâu hơn một chút, cô sẽ thấy một vài đôi tất len nữa đấy.”
Tôi lục tận đáy hòm và thấy ba đôi tất dài màu xám. Anh ta quay đi, tôi trút bỏ tấm váy của địa ngục với hàng nghìn đường gờ sần ráp. Chiếc áo sơ mi của anh ta ấm áp và mềm mại, chạm tận đầu gối, còn đôi tất kéo lên vừa qua đầu gối tôi.
“Chúng trông đẹp hơn nhiều trên người cô đấy.” Anh ta nói khi đã quay người trở lại.
Anh ta kéo tấm thảm lông lại gần bên giường và lấy thêm một cái chăn khác từ trong chiếc rương, và ném nó lên trên chiếc thảm, ngay bên cạnh chiếc chăn kia. Tôi dùng bồn rửa mặt ở góc phòng trong khi anh ta dọn giường, tháo bỏ đai lưng, giày cao cổ và châm nến. Anh ta nói với tôi rằng cánh cửa ở góc dẫn tới tủ quần áo trong phòng để đồ. Nó là một căn phòng nhỏ và còn lâu mới gọi là xa hoa, nhưng so với vài đêm cắm trại giữa hàng trăm lính tráng, hầu như không còn một chút riêng tư nào, nó thật hoàn hảo. Nó có móc treo khăn tắm và thậm chí có những tấm thảm bện khác như tấm thảm của bà Dihara tạo thành lời chào mừng ấm áp vọng lên từ sàn nhà trơ trụi.
Khi tôi bước ra, anh ta giảm ánh sáng đèn chùm xuống và tắt những ngọn đèn lồng đi. Căn phòng lấp lánh ánh sáng của một cây nến vàng duy nhất, và tôi rúc vào chiếc giường hẹp, nhìn chằm chằm lên trần nhà bên trên, nơi những đốm sáng nhấp nháy đang khiêu vũ với những bóng đen dài. Gió hú bên ngoài và đập mạnh vào những cánh cửa chớp bằng gỗ. Tôi kéo chăn bông cao hơn tới tận quanh cằm. Tên phái viên còn có nhiều cơ hội sống sót đến cuối tháng hơn cô đấy.
Tôi lăn người qua lại và cuộn tròn như trái bóng. Kaden nằm ngửa trên tấm thảm và tay khoanh sau đầu, chằm chằm nhìn lên trần nhà. Vai anh ta để trần, chiếc chăn chỉ che tới nửa ngực. Tôi có thể thấy những vết sẹo mà anh ta nói không quan trọng lắm, nhưng lại từ chối nói về chúng. Tôi trườn đến gần mép giường.
“Hãy kể cho tôi nghe về Tòa Sanctum đi, Kaden. Hãy giúp tôi hiểu thế giới của anh.”
“Cô muốn biết điều gì?”
“Mọi thứ. Các thống đốc, những đạo hữu, những người khác sống ở đây.”
Anh ta lăn qua đối mặt với tôi, nhấc một khuỷu tay lên. Anh ta kể cho tôi biết Tòa Sanctum là phần trong cùng của thành phố, một pháo đài được bảo vệ dành riêng cho Hội đồng, những người cai trị Vương quốc Venda. Hội đồng bao gồm Quân đoàn Thống đốc từ mười bốn tỉnh của Venda, mười Rahtan là cận vệ tinh nhuệ của Komizar, năm Chievdar giám sát quân đội và chính Komizar. Ba mươi người tất cả.
“Anh có phải là một Rahtan không?”
Anh ta gật đầu. “Tôi, Griz, Malich và bảy người khác.”
“Còn Eben và Finch thì sao?”
“Eben, đang được huấn luyện và một ngày nào đó sẽ trở thành Rahtan. Finch là một cận vệ phò tá, trợ giúp Rahtan, nhưng khi anh ấy không làm nhiệm vụ, anh ấy sống bên ngoài Tòa Sanctum cùng với vợ của mình.”
“Vậy còn những Rahtan khác thì sao?”
“Bốn người trong số họ có mặt tại đó tối nay, Jorik, Theron, Darius và Gurtan. Những người khác vắng mặt vì nhiệm vụ được giao. Rahtan có nghĩa là ‘không bao giờ thất bại’. Đó là những gì chúng tôi phải đảm bảo: không bao giờ thất bại trong nhiệm vụ của mình và chúng tôi không bao giờ để điều đó xảy ra.”
Tôi là ngoại lệ. Tôi là thất bại của anh ta. Trừ khi tôi chứng minh được giá trị của mình đối với Venda và điều đó dường như phụ thuộc vào quyết định của Komizar.
“Nhưng Hội đồng có nắm giữ bất kỳ quyền lực thực sự nào không?” Tôi hỏi. “Chẳng phải Komizar rốt cuộc đã quyết định mọi thứ sao?”
Anh ta lật ngửa ra sau, hai tay lại vòng ra sau đầu. “Hãy nghĩ về nội các của chính cha cô ấy. Họ tư vấn ông ấy, đưa ra các lựa chọn, nhưng họ cũng không có tiếng nói quyết định cuối cùng đó là gì?”
Tôi đã nghĩ về việc đó, nhưng tôi không chắc lắm. Tôi đã nghe lén các cuộc họp nội các, những chuyện chính sự nhàm chán để chốt hạ các quyết sách. Các thành viên nội các phun ra các số liệu và dữ kiện sáo rỗng như vẹt. Hiếm có bài trình bày nào kết thúc bằng một câu hỏi để cha tôi trả lời, và nếu cha tôi tự mình đưa ra câu hỏi, Phó nhiếp chính, Đại pháp quan, hoặc một vài thành viên nội các khác có thể bước tới và nói rằng họ sẽ điều tra thêm và cuộc họp lại tiếp tục nữa.
“Komizar có vợ chưa? Và người thừa kế thì sao?”
Anh ta càu nhàu. “Không có vợ, và nếu anh ấy có con, chúng không mang họ của anh ấy. Ở Venda, quyền lực truyền lại dựa vào đổ máu chứ không thuộc kiểu được truyền lại theo huyết thống.”
Những gì Komizar đã nói với tôi là sự thật. Nó quá xa lạ với kiểu cách của Morrighan, và tất cả các vương quốc khác.
“Thật là vô lý,” tôi nói. “Ý anh là địa vị của Komizar rộng mở cho bất kỳ ai giết được anh ta? Có cách nào để ngăn một người nào đó trong Hội đồng giết anh ta và tự chiếm lấy quyền lực không?”
“Đó là một vị trí nguy hiểm khi nắm giữ. Ngay khi cô nắm giữ ngai vị, ngay lập tức lưng cô trở thành một tâm điểm. Trừ khi những người khác thấy để cô sống có giá trị hơn để cô chết, cơ hội sống sót cho đến bữa ăn tiếp theo của cô là rất mong manh. Rất ít người muốn thử.”
“Có vẻ là một phương thức cai trị tàn bạo.”
“Đúng thế. Cũng đồng nghĩa là nếu cô chọn cương vị lãnh đạo, cô phải lao lực cho Venda. Và Komizar thực sự đã như vậy. Trong nhiều năm liền, tại Venda, nhiều vụ tắm máu đã xảy ra. Yêu cầu đặt ra là cần phải có một người đủ sức mạnh để tìm ra đường lối và tiếp tục tồn tại.”
“Hắn ta đã cai trị như thế nào?”
“Tốt hơn những Komizar đời trước. Đó là điều quan trọng hơn cả.”
Anh ta tiếp tục kể cho tôi nghe về các tỉnh khác nhau, một số tỉnh lớn, một số nhỏ, mỗi tỉnh đều có những nét độc đáo và con người riêng. Chức thống đốc được truyền lại theo cách tương tự, thông qua các cuộc thách thức khi các thống đốc cai trị ngày càng đau yếu hoặc lười biếng. Anh ta ưa hầu hết các thống đốc, và khinh thường một số ít bọn họ, và một số ít đó nằm trong số những người yếu đuối và lười biếng, những người có thể không sống lâu trên thế giới này. Các thống đốc được mặc định là sẽ sống các tháng luân phiên ở các tỉnh và thành phố của họ, mặc dù hầu hết họ thích Tòa Sanctum hơn các pháo đài của riêng mình và thường kéo dài thời gian lưu trú của họ ở đây.
Nếu thành phố ảm đạm này được ưa thích hơn quê hương của họ, tôi chỉ có thể tự hỏi những nơi đó còn phải ảm đạm đến mức nào. Tôi hỏi anh ta về kiến trúc kỳ lạ mà tôi đã thấy từ đó tới nay. Anh ta cho biết Venda là một thành phố được xây dựng trên một đống đổ nát, tái sử dụng các nguồn tài nguyên sẵn có từ những tàn tích. “Nó từng là một thành phố vĩ đại. Chúng tôi chỉ đang học cách trở nên vĩ đại như thế nào. Một số người nghĩ rằng nó hàm chứa tất cả kiến thức của Người xưa.”
Đó là một đòi hỏi khá cao đối với cả một thành phố thảm hại đến như vậy. “Cái gì khiến anh nghĩ vậy?” Tôi hỏi.
Anh ta nói với tôi rằng, Người xưa có những ngôi đền rộng lớn và công phu được xây dựng ngầm rất sâu dưới lòng đất, mặc dù anh ta không chắc rằng tất cả bọn họ đã luôn ở dưới mặt đất và có thể bọn họ đã bị chôn vùi bởi sự tàn phá. Anh ta nói thỉnh thoảng một phần của thành phố có thể tự sụp đổ, theo đúng nghĩa đen bởi những tàn tích bị chôn vùi bên dưới cũng sụt xuống, tạo ra khoảng hẫng ngay dưới chân chúng. Đôi khi chuyện đó đưa đến những khám phá. Anh ta kể với tôi nhiều hơn về các cánh khác của Tòa Sanctum và những con đường kết nối chúng. Sảnh Sanctum, Khu Tháp doanh trại và các phòng họp khác là một phần của tòa nhà chính, và Cánh Hội đồng được kết nối bởi các đường hầm hoặc lối đi bộ trên cao.
“Nhưng có lẽ, có vẻ lớn như Sanctum,” anh ta nói, “nó cũng chỉ là một phần nhỏ của thành phố. Phần còn lại trải dài hàng dặm, và nó tiếp tục mở rộng.”
Tôi nhớ cái nhìn bao quát đầu tiên về thành phố, nó trỗi dậy từ xa giống như một con quái vật không mắt, màu đen. Ngay cả khi đó, tôi vẫn cảm thấy tuyệt vọng tăm tối đối với các khối xây dựng của thành phố, như thể không còn một ngày mai nào nữa.
“Có lối vào nào khác ngoài cây cầu mà chúng ta đã băng qua hay không?”
Anh ta ngừng lại, nhìn chằm chằm vào những cây rầm bên trên mình. Anh ta đã biết những gì tôi thực sự muốn biết - liệu có một lối ra khác hay không.
“Không,” anh ta cuối cùng cũng trả lời một cách lặng lẽ. “Không có con đường nào khác ngoài dòng sông mở rộng hàng trăm dặm về phía nam chúng ta và dòng chảy êm đêm. Nhưng có nhiều sinh vật ẩn trong dòng nước đó mà chỉ một số ít người mới dám mạo hiểm đối đầu ngay cả khi ở trên một cái bè.” Anh ta lăn qua lăn lại và nhìn tôi, giơ một cánh tay lên. “Chỉ cây cầu đó thôi, Lia.”
Một cây cầu mà phải cần ít nhất một trăm người đàn ông nâng lên, hạ xuống.
Ánh mắt của chúng tôi chạm nhau và câu hỏi chưa nói ra - làm cách nào để tôi thoát khỏi đây? - lởn vởn giữa hai chúng tôi. Cuối cùng tôi đã tiếp tục hỏi thêm về việc xây dựng cây cầu. Nó dường như là một kỳ quan được rèn cẩn thận, nếu so với việc xây dựng đầy rủi ro cho phần còn lại của thành phố.
Anh ta nói cây cầu mới đã được hoàn thành cách đây hai năm. Trước đó, chỉ có một cây cầu có chân nhỏ và nguy hiểm. Nguồn tài nguyên ở Venda hạn chế, nhưng nguồn tài nguyên duy nhất mà họ không thiếu đó là đá, mà trong đá lại có kim loại. Họ đã học cách pha trộn các loại với nhau để tạo thành hợp kim mạnh hơn và trơ với nước nhằm đối phó với sương mù liên miên của dòng sông.
Nó là một nhiệm vụ không tầm thường chút nào, khai thác và tinh luyện kim loại từ trong đá, và tôi ngạc nhiên vì họ dường như đã hoàn thành công việc đó. Tôi đã chú ý tới tia phản chiếu kỳ lạ từ những chiếc vòng tay mà Calantha đeo, không giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy trước đây - một thứ kim loại xanh đen đẹp đẽ tỏa sáng cả hai cổ tay xám xịt của cô ta. Những vòng tròn kim loại leng keng dọc hai cánh tay khi cô ta nâng đĩa đựng xương lên, giống như chuông reo vang ở Sacrista tại Terravin. Hãy lắng nghe. Thánh thần đang tới gần. Đối với một người coi thường sự ban phước của các vị thần, sự im lặng trùng xuống lúc Calantha cất tiếng đúng là một biểu hiện thành kính đáng kinh ngạc.
“Kaden,” tôi thì thầm, “khi chúng tôi ăn tối, và Calantha đã đọc lời kinh tạ ơn... anh đã nói rằng đó là nghi thức ghi nhận của sự hy sinh. Những lời đó là gì? Tôi đã hiểu một số, nhưng một số thì vẫn mới đối với tôi.”
“Cô hiểu nhiều hơn tôi nghĩ đấy. Cô khiến mọi người ngạc nhiên khi cô cất lời tối hôm nay.”
“Đáng lẽ không cần phải ngạc nhiên sau màn đả kích của tôi sáng nay.”
Anh ta cười toe toét. “Nói được những từ ngữ chọn lọc trong tiếng Venda không giống như sử dụng thành thục một ngôn ngữ.”
“Nhưng vẫn có những từ xa lạ với tôi. Không ai trong số các anh từng thốt lời tạ ơn đó trong suốt một bữa ăn, khắp mọi con đường mà chúng ta đi qua toàn vùng Cam Lanteux.”
“Chúng tôi đã lớn lên cùng với việc sống nhiều cuộc đời khác nhau. Có một số điều, chúng tôi phải bỏ lại sau lưng một khi chúng tôi ra khỏi biên giới Venda.
“Hãy nói cho tôi nghe về lời cầu nguyện của Calantha đi.”
Anh ta ngồi dậy và đối mặt với tôi. Ánh sáng của ngọn nến thắp sáng một bên khuôn mặt anh ta. “E cristav unter quarnad,” anh ta đã nói một cách tôn kính, “Một sự hy sinh được ghi nhớ mãi mãi. Meunter ijotande. Không bao giờ được phép lãng quên. Yaveen hal an ziadre. Chúng ta sẽ làm sống dậy điều đó vào một ngày khác.”
Những lời nói khiến tôi chán nản và cả những gì tôi đã hiểu lầm về việc đeo xương quanh người.
“Thực phẩm sẽ khan hiếm ở Venda.” Anh ta giải thích. “Đặc biệt là vào mùa đông. Những mẩu xương là biểu tượng của lòng biết ơn và là lời nhắc nhở rằng chúng ta chỉ sống được bằng cách đánh đổi sự hy sinh của một con vật thậm chí là nhỏ nhất và bằng cách đánh đổi toàn bộ sự hy sinh của rất nhiều con vật.”
Meunter ijotande. Tôi xấu hổ trước vẻ đẹp của từng âm tiết, những gì mà tôi từng coi là những tiếng cằn nhằn man rợ. Đó là một cảm xúc kỳ lạ mà tôi cảm nhận được cùng với nỗi cay đắng vì bị giam cầm của mình.
Đã rất nhiều lần tôi quan sát Kaden ở mãi tận Terravin và băn khoăn cơn bão nào đang quét qua đôi mắt anh ta. Ít nhất, giờ này, tôi đã biết được một phần của cơn bão đó rồi.
“Tôi xin lỗi,” tôi thì thầm.
“Vì sao?”
“Vì đã không hiểu.”
“Trừ khi cô sống ở đây, không thì làm sao cô có thể hiểu được? Venda là một thế giới khác.”
“Còn một từ nữa. Mọi người cùng nhau nói lúc cuối cùng. ‘Paviamma’ .”
Biểu cảm của anh ta thay đổi, đôi mắt anh ta tìm kiếm mắt tôi và sự ấm áp khiến chúng sáng bừng lên. “Nó có nghĩa là...” Anh ta lắc đầu. “Không có cách dịch trực tiếp ý nghĩa của từ Paviamma sang tiếng Morrighan. Đó là một từ tinh tế và có nhiều nghĩa, tùy thuộc vào cách nó được sử dụng. Ngay cả giọng điệu hàm chứa khi từ đó được nói ra cũng có thể thay đổi ý nghĩa của nó. Pavia, paviamas, paviamad, paviamande. Tình bạn, lòng biết ơn, sự quan tâm, lòng từ bi, sự tha thứ, tình yêu.
“Thật là một từ ngữ đẹp đẽ,” tôi thì thầm.
“Đúng vậy,” anh ta đồng ý. Tôi nhìn lồng ngực anh ấy nhô cao hơn theo một hơi thở sâu. Anh ta ngập ngừng, như muốn nói thêm, nhưng rồi anh ta lại nằm xuống và nhìn lên những xà nhà. “Chúng ta nên ngủ một chút. Komizar mong gặp chúng ta vào sáng sớm. Còn điều gì khác mà cô muốn biết không?”
Komizar mong gặp chúng ta vào sáng sớm. Hơi ấm bao trùm khắp căn phòng bị quét sạch chỉ bởi duy nhất một câu nói đó, tôi kéo chăn bông sát lại. “Không,” tôi thì thào.
Anh ta vươn tay ra và dùng ngón tay phẩy tắt ngọn nến.
Tuy nhiên, vẫn còn một câu hỏi khiến tôi nhức nhối mà tôi e ngại nói ra. Liệu Komizar có thực sự phân thây Rafe thành từng mảnh trước khi gửi về cố quốc của anh ấy không?
Trong sâu thẳm, tôi đã biết câu trả lời rồi. Những người lính Venda đã chém phân thây cả một trung đội thành từng mảnh, anh trai của tôi nằm trong số đó, một cuộc tàn sát hàng loạt, và Komizar đã khen ngợi họ vì điều đó. Ngươi đã làm tốt, Chievdar ạ. Thêm một tên sứ giả nữa có là gì đối với hắn ta đâu? Tất cả những gì tôi có thể làm là đảm bảo rằng hắn không coi anh ấy như là thứ gì đó giá trị và đáng tước đoạt từ tôi.
Tôi quay mặt vào tường, không ngủ nổi, lắng nghe tiếng thở của Kaden và tiếng trở mình trằn trọc của anh ta. Tôi băn khoăn không biết anh ta có hối hận trước những lựa chọn của mình và tất cả cổ họng mà anh ta đã buộc phải xuống tay cắt đứt hay không. Cuộc sống của anh ta bây giờ sẽ dễ dàng hơn biết bao nhiêu nếu anh ta cắt cổ tôi như mệnh lệnh đã ban cho anh ta. Gió mạnh hơn, rít qua những kẽ hở, tôi rúc mình sâu hơn vào trong những tấm chăn, tự hỏi về những hối tiếc của bản thân sắp tới, về những điều tôi chưa làm.
Căn phòng dần thu lại, tối và đen kịt, rời xa mọi thứ mà tôi từng biết. Tôi lại cảm thấy như một đứa trẻ, ước gì tôi có thể cuộn mình gọn trong vòng tay mẹ vào một đêm bão tố và bà có thể thì thầm xua tan những nỗi sợ hãi của tôi. Gió dập và táp vào những cánh cửa chớp, không thương tiếc, và tôi cảm thấy có gì đó ươn ướt chảy thành dòng xuống một bên mặt mình. Tôi với tay lên và gạt đi dòng nước ướt át, mằn mặt ấy.
Thật lạ lùng.
Thực sự rất lạ lùng.
Như là tin rằng điều gì đó là vĩnh cữu.
Một giọt nước mắt.
Như thể điều đó có thể tạo ra một sự khác biệt nào đó.