← Quay lại trang sách

Chương 14

TÔI PHÁT HIỆN GRIZ ĐANG DẪN MỘT CON NGỰA RA KHỎI CHUỒNG. Kaden và Komizar vẫn quay lưng lại phía tôi, tôi vội vã chặn anh ta lại. Anh ta nhìn thấy tôi đi tới, liền dừng lại, vẻ mặt cáu kỉnh thường trực của anh ta tan dần.

“Tôi có thể nói chuyện với anh không?” Tôi hỏi. “Riêng tư.”

Anh ta nhìn từng phía. “Chúng ta một mình đúng như mong đợi.”

Tôi không có thời gian để ngoại giao. “Anh có phải là một gián điệp không?” Tôi hỏi thẳng thừng.

Anh ta bước tới, cằm dúi vào ngực. “Đừng nói chuyện đó nữa,” anh ta trầm giọng càu nhàu. Đôi mắt anh ta hướng về những thống đốc gần đó đang túm ba tụm năm nói chuyện. “Tôi đã giúp cô một việc, cô gái. Cô đã cứu mạng tôi và đồng đội của tôi. Tôi trả nợ. Chúng ta huề rồi nhé.”

“Tôi không tin chuyện chỉ có vậy, Griz. Tôi đã thấy gương mặt anh. Anh quan tâm tôi.”

“Đừng tự thêm thắt vào.”

“Nhưng tôi vẫn cần sự giúp đỡ của anh.”

“Chúng tôi đã xong nhiệm vụ, công chúa ạ. Cô có hiểu điều đó không?”

Nhưng chúng tôi không thể làm gì. Tôi vẫn cần thêm sự giúp đỡ. “Tôi có thể tiết lộ cho bọn họ tất cả chuyện anh nói tiếng Morrighan trôi chảy,” tôi đe dọa. Tôi rất cần sự giúp đỡ của anh ta, ngay cả khi tôi phải hăm dọa anh ta để được giúp đỡ.

“Và nếu cô làm điều đó, cô sẽ kết án tử hình cả gia đình tôi. Ba mươi sáu người tất cả. Anh, chị, em họ, con cái của họ. Còn hơn cả đội quân mà cô đã chứng kiến họ chết như thế nào. Đó là điều cô muốn chứ?”

Ba mươi sáu. Tôi săm soi khuôn mặt đầy sẹo của anh ta và nhận thấy nỗi sợ hãi, có thực và rất thật. Tôi lắc đầu. “Không,” tôi thì thầm. “Đó không phải là điều tôi muốn.” Tôi cảm thấy hy vọng của tôi sụp đổ khi một cánh cửa khác bị đóng lại. “Bí mật của anh sẽ được giữ kín.”

“Và bí mật của cô cũng vậy.”

Ít nhất, tôi đã xác nhận được rằng anh ta biết thân phận thực sự của Rafe. Tôi biết ơn vì Griz đã che đậy giúp anh ấy nhưng chúng tôi vẫn cần được giúp đỡ nhiều hơn.

Tôi mở miệng định hỏi một chút thông tin cuối cùng, nhưng anh ta quay lại một cách thô bạo, cùi chỏ cố ý thúc vào mạng sườn của tôi. Tôi gập người, khuỵu một gối xuống. Anh ta cúi xuống, mặt quạu quọ, nhưng giọng anh ta trầm và đều. “Chúng ta đang bị theo dõi,” anh ta thì thầm. “Chửi lại tôi đi.”

“Đồ ngu ngốc, đần độn!” Tôi đã gào lên. “Xem. Anh đã làm gì đây!”

“Đúng đó,” anh ta thì thầm. “Tôi có thể cho cô một lời khuyên. Nếu khôn ngoan cô nên kết bạn với Aster. Đứa nhãi đó biết mọi kẽ nứt trong Tòa Sanctum như một con chuột.” Anh ta đứng thẳng lên và lườm tôi. “Vậy thì tránh xa tôi ra!” Anh ta gầm lên khi lao đi. Một nhóm thống đốc gần đó bật cười lớn.

Tôi liếc qua ngang sân và thấy Kaden đang quan sát chúng tôi.

Anh ấy bước tới và hỏi Griz muốn gì. “Không có gì.” Tôi trả lời. “Anh ta chỉ càu nhàu và nhỏ dãi lên đống đồ như những người khác.”

“Có lý do chính đáng cả,” Kaden trả lời. “Đây có thể là chuyến cuối cùng trong một thời gian dài nữa. Mùa đông đã gần kề.”

Anh ta vừa giống như đã đóng sầm một cảnh cửa khác lại. Ở Civica không có sự khác biệt lớn giữa mùa đông và mùa hè, chỉ chênh nhau vài độ, gió mạnh hơn, áo choàng dày hơn và mưa. Nhưng không đủ để tác động đến thương nghiệp và giao thông. Và theo tính toán của tôi, vẫn còn hai tháng nữa mới tới mùa đông. Chúng tôi chỉ mới chớm vào thu, và đang trong thời kỳ rộ hè cuối cùng. Chắc chắn mùa đông không thể tới Venda sớm hơn so với Civica được. Nhưng tôi cảm thấy hơi lạnh se se trong không khí, và ánh nắng lấp lóa mỏi mệt của mặt trời đã khác với nắng ngày hôm qua rồi. Mùa đồng đang ở rất gần. Các cánh cửa đóng lại trước mũi tôi đủ nhiều rồi - tôi không thể để cánh cửa này cũng đóng nốt.

✽ ✽ ✽

TÔI ĐI THEO KADEN XUYÊN QUA QUẢNG TRƯỜNG TỚI MỘT CÁI CỔNG dẫn ra khỏi Tòa Sanctum. Anh ta đang đưa tôi đến Jehendra để kiếm ít trang phục phù hợp, như Komizar đã hạ lệnh. Tôi đi sát anh ta, e sợ những người bên ngoài cánh cổng không khác gì những người bên trong. Thật là một niềm vui sướng pha trộn khi Komizar đã đi rồi. Nó cho tôi chút không gian để thở - ít ra cũng là thoát khỏi sự dò xét của hắn ta - nhưng nó cũng có nghĩa là hắn đã vượt khỏi tầm với của tôi. Tôi muốn hỏi Kaden về Rafe, anh ấy đâu rồi, và họ đã đối đãi với anh ấy thế nào đêm qua nhưng tôi biết thế chỉ khiến anh ta nghi ngờ lời tuyên bố không muốn dính dáng gì đến tên Phái viên đó của tôi, nếu Kaden nghi ngờ, thì Komizar cũng sẽ nghi ngờ luôn. Tôi cầu nguyện để lũ lính canh không cho Rafe thấy sự khinh khi của chúng đối với lũ lợn Dalbreck. Có lẽ sau bữa tối đêm qua và sự chú ý thường xuyên của Komizar dành cho anh ấy, chúng sẽ gắng kiềm chế hơn.

Chúng tôi bước đi cạnh nhau, nhưng tôi để ý thấy dáng đi của Kaden thỉnh thoảng khập khiễng. “Tôi xin lỗi về vết đau ở chân anh,” tôi nói.

“Như cô đã nói, trước sự sống còn, không tồn tại quy tắc nào cả. Các anh trai cô đã dạy dỗ cô tốt lắm.”

Tôi nuốt cái cục thịt mềm mềm trong cổ họng xuống. “Đúng vậy.”

“Họ cũng dạy cô phi dao?”

Tôi đã gần như quên hết về Finch và tiêu điểm đen gần đây mà tôi nhắm trên ngực hắn. “Các anh trai của tôi đã dạy tôi rất nhiều điều. Chủ yếu là chỉ bằng cách để tôi ở bên họ, quan sát và tiếp thu.”

“Cô đã tiếp thu được những gì nữa?”

“Tôi đoán anh sẽ phải tìm ra thôi.”

“Tôi không chắc hai ống chân của tôi muốn biết.”

Tôi cười toe toét. “Tôi nghĩ bây giờ hai ống chân của anh đã an toàn rồi.”

Anh ta hắng giọng. “Tôi xin lỗi vì giọng điệu nói chuyện với cô sáng nay. Tôi biết tôi đã...”

“Ngạo mạn? Trịch thượng? Khinh thường?”

Anh ta gật đầu. “Nhưng cô biết đấy, tôi không cảm thấy như thế về cô. Kiểu nói năng như thế đã trở thành một phần con người tôi sau ngần ấy năm. Đặc biệt, giờ tôi đã quay lại đây. Tôi...”

“Tại sao? Anh đã bao giờ nói cho tôi biết tại sao anh lại ghét người hoàng tộc đến vậy đâu? Trong khi anh có biết ai khác ngoài tôi đâu?”

“Tôi biết đám quý tộc, nếu không nói là hoàng thân quốc thích. Không khác gì nhau lắm.”

“Tất nhiên, anh biết chứ,” tôi móc máy.

“Một Assassin thân cận của Komizar, khoác tay với các quận trưởng và các phu nhân như chuyện thường ngày cơ mà. Anh gọi tên thử xem nào. Chỉ có một quý tộc duy nhất anh đã từng gặp thôi.”

“Lối này,” anh ta nói, chộp lấy cánh tay tôi để dẫn tôi xuống một con hẻm, tận dụng lối rẽ đột ngột của chúng tôi như một cách né tránh thắc mắc của tôi. Tôi nghi ngờ câu trả lời của anh ta sẽ là mình không biết một ai hết, nhưng anh ta không muốn thừa nhận. Anh ta ghét người hoàng gia vì tất cả người Venda đều ghét họ. Thái độ kỳ thị phổ biến đó là điều được trông mong. Đặc biệt là từ một số nhân vật quyền lực tại Venda.

“Chỉ là, anh cũng biết đấy. Thủ lĩnh tôn kính của anh định giết tôi. Anh ta bảo tôi vậy.”

Kaden lắc đầu và giơ túi tiền mà Komizar ném cho anh ấy như thể nó là bằng chứng cho điều ngược lại. “Anh ấy sẽ không giết cô đâu.”

“Có lẽ anh ta chỉ muốn tôi ăn mặc tử tế khi tôi lủng lẳng ở một đầu dây thừng thôi.”

“Komizar không treo cổ ai. Anh ấy chặt đầu họ.”

“Ồ, hay đấy. Thật là nhẹ nhõm. Cảm ơn vì đã khai sáng tôi.”

“Anh ấy sẽ không giết cô, Lia,” Kaden nhắc lại. “Trừ phi cô làm điều gì đó ngu ngốc.” Anh ta ngừng lại và chộp lấy cánh tay tôi. “Cô sẽ không làm gì ngu ngốc, đúng không?” Những người qua đường dừng lại và quan sát chúng tôi. Tôi thấy bọn họ đều nhận ra Assassin. Họ biết anh ta là ai và dành cho anh ta một khoảng cách tôn trọng.

Tôi quan sát kĩ Kaden. Ngu ngốc hoàn toàn là một khía cạnh của quan điểm đánh giá. “Tôi chỉ đang làm những gì anh yêu cầu. Làm theo sự dẫn dắt của anh và cố gắng thuyết phục người khác tin vào ‘năng lực’ của tôi.”

Anh ta ghé sát lại, hạ giọng, nói, “Phô trương vừa phải thôi, Lia, và đừng bao giờ thách thức Komizar như cô đã làm với Griz và Finch. Cô sẽ nhận lại phản hồi dữ dội nếu cô làm vậy. Hãy để anh ấy sử dụng năng lực của cô khi anh ấy thấy phù hợp.”

“Giúp anh ta thực hiện một trò giả mạo, ý anh là thế?”

“Và tôi sẽ nói lại với cô lời của chính cô: Trước sự sống còn, không tồn tại quy tắc nào hết. ”

“Nếu đó không phải là một trò giả mạo thì sao?”

Vẻ mặt anh ta tối sầm lại. Tôi nhận ra rằng trong tất cả thời gian của chúng tôi ở Cam Lanteux, anh ta chưa từng một lần thừa nhận rằng tôi thực sự có thể có “năng lực”, kể cả khi tôi cảnh báo anh ta về vụ bò rừng giẫm đạp tán loạn. Thật lạ lùng, anh ta đã lợi dụng tin đồn về năng lực của tôi như một cái cớ để giữ lại mạng sống cho tôi, mà không thừa nhận một chút tin tưởng nào của chính anh ta.

“Cứ làm như anh ấy hạ lệnh,” cuối cùng, Kaden nói.

Tôi gật đầu miễn cưỡng, và chúng tôi tiếp tục bước đi. Dường như anh ta quan tâm sâu sắc đến “năng lực” đó hơn cả Griz và Finch.

Đó có phải là sức mạnh tiềm tàng mà cả anh ta và Komizar đều không thể kiểm soát nổi? Bà Dihara sẽ cười vào ý tưởng sử dụng năng lực khi Komizar thấy phù hợp. Bà ấy đã ngần ngại khi tôi gợi ý điều đó. Không thể triệu hồi “năng lực”, đơn giản bởi vì, một năng lực giống như một phương thức hiểu biết tinh vi, một phương thức cổ xưa như chính vũ trụ. Một tiếng thở dài khẽ thoát ra khỏi môi tôi.

Mong manh quá. Ôi, tôi ước gì có một cây chùy có mấu nhọn nặng nề thay cho nó để tôi có thể sử dụng được biết bao.

Kaden tiếp tục giải thích rằng những lời đe dọa của Komizar chỉ là cách hắn ta thiết lập ranh giới và ra oai với tôi. Một chút tôn trọng của tôi có thể hữu ích vô cùng.

“Và túi tiền của anh ta là hối lộ? Giống như rượu ăn cắp mà anh ta tặng cho các thống đốc? Có phải anh ấy đang cố mua lấy sự tôn trọng của tôi không?”

Kaden nhìn sang tôi. “Komizar không cần phải mua bất cứ thứ gì. Cô nên biết điều đó từ bây giờ.”

“Bộ quần áo tôi mặc trên người rất ổn. Tôi thích áo sơ mi và quần âu của anh hơn.”

“Tôi cũng vậy, và tủ quần áo của tôi không phải là vô hạn. Bên cạnh đó, nó bơi trên người cô, và nếu Komizar muốn cô có quần áo mới, cô sẽ có quần áo mới. Cô không muốn lăng mạ sự hào phóng của anh ấy đâu. Cô nói cô muốn hiểu thế giới của tôi. Jehendra sẽ mở rộng tầm mắt của cô hơn nữa.”

Hào phóng? Tôi cố tránh nghẹn lời. Nhưng Kaden mù quáng theo một kiểu nhất định khi nói đến Komizar. Hoặc có lẽ chỉ đơn giản là anh ta cũng ôm ấp một hy vọng hão huyền tương tự như Rafe đã hy vọng vào đội quân gồm có bốn người đó - rằng cùng nhau, chiến đấu lại một cách mãnh liệt, họ có thể làm được mọi chuyện kể cả chuyển đúng thành sai trong thế giới của họ.

Tôi lê bước đến cạnh anh ta, dằn lòng đối với những hoài nghi về sự hào phóng của Komizar bởi vì hiểu biết về thế giới của Kaden, bao gồm cả Jehendra, có thể giúp tôi thoát khỏi nơi đáng nguyền rủa này. Tôi đã thăm dò về những điều khác. “Hắn nói rằng anh sẽ là Keep khi hắn vắng mặt. Vậy nghĩa là gì?”

“Không có gì. Nếu cần phải quyết định một việc gì đó trong khi anh ấy không có mặt tại đây, thì trách nhiệm đó sẽ là của tôi.”

“Đó có vẻ như là một công việc quan trọng.”

“Không thường xuyên đâu. Komizar nắm bắt và kiểm soát sát sao những vấn đề liên quan đến Venda. Nhưng đôi khi cũng có chuyện một quận trưởng nào đó không thể dẹp được một vụ tranh chấp hoặc cần phải phái một đội tuần tra đi thám sát.”

“Anh có thể ra lệnh nâng cao cây cầu?”

“Chỉ khi cần thiết. Và chuyện đó sẽ không cần thiết.” Lòng trung thành đậm chất Venda đượm sâu trong giọng điệu của anh ta.

Chúng tôi lặng lẽ bước đi, tôi đang ở bên trong thành phố của anh ấy, tiếng huyên náo lùng bùng bên tai. Âm thanh từ hàng nghìn con người áp sát, tiếng huyên náo của những công việc cấp bách ngày một khẩn trương hơn. Những ánh mắt soi mói chúng tôi từ những bậc cửa và những ngôi nhà nhỏ vá chằng vá đụp. Tôi cảm nhận được những cái nhìn đăm đăm dán vào lưng chúng tôi rất lâu sau khi chúng tôi đã đi qua. Tôi chắc rằng, phần nào đó, họ đã nhận ra tôi là người ngoài thành. Khi con hẻm dần hẹp lại, những người dân Venda đi ngược chiều phải lách người, vòng qua chúng tôi, sống lưng của họ quệt cả vào tường đá. Mọi người dường như chen chân trên từng centimét diện tích của thành phố bất tận này. Những câu chuyện mà họ thêu dệt nhan nhản như nấm sau mưa và nghe có vẻ tự nhiên như thật.

Đường hẻm cuối cùng cũng mở rộng ra khi nối vào con phố lớn hơn, tấp nập người qua lại. Những tòa nhà cao xung quanh cản ánh mặt trời, còn những túp lều xiêu vẹo nằm chênh vênh ở bên rìa những cấu trúc đó. Thành phố bị đâm ngang chém dọc bất chấp mọi quy tắc. Đôi lúc chỉ có một bức tường vải canvas rung rinh trước gió để phân tách không gian sinh sống. Mọi người sống ở bất cứ đâu họ có thể, tràn lan trong những con ngõ mù khói, tối tăm, và cố gạn một chỗ để gọi là nhà.

Trẻ con đi theo sau chúng tôi, mời mọc những miếng chả thịt ngựa để làm món nướng, những chiếc bùa hộ mệnh bằng da, hoặc những con chuột nhỏ đang rúc rích trong túi chúng. Chuột là thú cưng ư? Liệu có ai trả tiền để mua những thứ như thế này không nhỉ? Nhưng khi một cậu bé mô tả những con chuột của nó là bụ bẫm và nhiều thịt, tôi nhận ra chúng không được bán để làm thú cưng.

Chúng tôi đã đi bộ ít nhất một dặm trước khi đến một cái chợ rộng lớn. Đây là Jehendra. Đó là không gian mở rộng nhất mà tôi từng thấy trong thành phố cho đến nay, rộng bằng ba kỵ mã đấu trường. Bên trong chỉ có một số công trình xây dựng phục vụ mãi mãi. Phần còn lại đã được bài trí cùng nhau giống như một chiếc chăn nhiều màu sắc. Một số quầy hàng chỉ là một cái sọt lật úp để bày bán những món đó nữ trang rẻ tiền, nhỏ nhất. Chuông, trống và dây đàn zitarae bập bùng hòa nhịp điệu chói tai đặc trưng của thành phố.

Chúng tôi đi qua những quầy hàng treo thịt cừu lột da trên móc làm mồi cho lũ ruồi đầu tiên. Xa hơn chút nữa xuống phía dưới, những chậu đất sét nông đầy ủm tận miệng toàn thảo dược mạnh, dàn ra trên những tấm chăn, những người phụ nữ mời thử một nhúm miễn phí để thuyết phục chúng tôi tin theo họ. Trên khắp các lối đi, những chiếc lều ba mặt phô ra những đống quần áo, một số mòn xác xơ và rách nát. Các quầy hàng khác bày bán những loại vải dệt cạnh tranh với những loại vải mang đến trên những chiếc xe kéo Previzi. Những chiếc lồng bồ câu đầu hói, gầy trơ xương gù gừ dọc lối đi sụt lún dẫn tới chuồng nhốt những con heo con hồng tươi. Tôi nhìn thấy hết hàng này đến hàng khác, thực phẩm, đồ gốm, cho tới những quầy hàng tối tăm hơn trong những công trình xây dựng cố định mời mọc những thú tiêu khiểu không nhìn thấy phía sau những tấm rèm kéo.

Trái ngược với bức tranh thành phố ám tro bụi và kiệt quệ sức sống, Jehendra ngập tràn sắc màu và sống động. Mặc dù Kaden chẳng nói gì cả, nhưng tôi cảm thấy anh ta đang dò xét tôi khi tôi dừng lại bên những quầy hàng và khảo sát những món đồ. Có lẽ nào anh ta sợ tôi sẽ dùng ngôn ngữ thô lỗ chất chứa chán ghét như tôi đã đi qua Cam Lanteux? Một số loại hàng hóa chào mời được làm một cách thô sơ, vải vụn xoắn lại thành những con búp bê, hoặc những quả bóng bằng ruột động vật lọc mỡ thắt nút.

Tôi thèm khát muốn tiêu những đồng xu của Komizar để mua hết những thứ khác ngoài quần áo ra, với cả, thật là khó bỏ đi khi thấy những khuôn mật nài nỉ đầy hy vọng rằng tôi sẽ mua hàng hóa của họ. Tôi đi qua một quầy bán bùa may mắn. Những viên đá xanh dẹt khảm những ngôi sao trắng dường như là kiểu thiết kế được ưa chuộng, đôi khi có một mảng đá đỏ tỏa ra từ trung tâm, và tôi băn khoăn liệu nó có gợi lại câu chuyện về thiên thần Aster hay không?

Tôi nhớ những gì Kaden đã kể, rằng thứ mà Venda không thiếu là đá và kim loại. Ít nhất thì người Venda cũng có vẻ không bị thiếu trí nhớ. Những câu chuyện lịch sử của họ có lẽ không chính xác lắm nhưng tối thiểu họ vẫn nhớ chúng - và một vài người, giống như những nghệ nhân này sùng kính chúng đến độ biến chúng thành nhưng món trang sức hợp thời để tưởng nhớ.

Có một điều mà tôi chưa nghe thấy ở Venda sáng nay, tiếng hát tưởng nhớ Thánh luôn luôn chào đón buổi sáng khắp Morrighan. Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi có thể nhớ những lời ca đó, nhưng có lẽ tôi chỉ nhớ những người đã hát bài ca đó: Pauline, dì Berdi, các anh trai tôi. Ngay cả cha tôi cũng chưa bao giờ bỏ lỡ nghi thức hát tưởng nhớ buổi sáng này, bài hát về lòng dũng cảm của Morrighan và tính kiên định của Người được chọn còn sót lại. Tôi chà ngón tay cái của mình lên tấm bùa hộ mệnh, ngôi sao khảm trên đó như một sự tưởng nhớ được trang trí tỉ mỉ tựa bất kỳ nốt nhạc nào.

“Đây,” Kaden nói, và anh ta tung cho người lái buôn một đồng xu. “Cô ấy sẽ lấy cái đó.”

Người lái buôn đeo lá bùa vào cổ tôi. “Tôi biết cô sẽ lấy nó,” anh ta thì thầm vào tai tôi. Anh ta lùi lại, ánh mắt nhìn chằm chằm vào tôi. Thái độ của anh ta khiến tôi dè chừng, nhưng có lẽ đó là kiểu cách quá quen thuộc với những thương nhân Venda.

“Hãy mang theo nó để có sức khỏe tốt,” anh ta nói.

“Tôi sẽ làm thế. Cảm ơn anh.”

Chúng tôi tiếp tục đi xuôi con đường, Kaden dẫn trước, cho đến khi chúng tôi đến một số căn lều dàn thành hàng liên tiếp có bày quần áo và vải vóc treo trên những cây cột. “Một trong những cái lều đó chắc sẽ có món đồ nào đó hợp với cô, anh ta nói. “Tôi sẽ đợi ở đây.” Anh ta ngồi ở một đầu chiếc xe đẩy trống và khoanh tay, hất đầu về phía những căn lều.

Tôi thờ ơ bước qua những căn lều, không chắc nên đi vào căn lều nào, đặc biệt là khi tôi không có chút hứng thú nào với việc tìm kiếm thứ gì đó “hợp” để mặc lên người. Tôi quan sát từ xa, không định bước vào bên trong bất cứ chiếc lều nào trong số chúng, nhưng rồi tôi nghe tiếng một giọng nói khe khẽ. “Miz! Miz!” Từ trong bóng tối của căn lều, một bàn tay vươn ra nắm lấy tay tôi và kéo tôi tuốt vào bên trong.

Tôi hít vội một hơi đầy hốt hoảng nhưng nhận thấy ngay đó là Aster. Tôi hỏi cô bé làm gì ở đây, và cô bé nói đây là cửa hàng của bố cô bé. “Không hẳn là cửa hàng của ông ấy, nhưng, đôi khi, ông ấy làm việc ở đây. Nâng những đồ vật quá nặng mà Effiera không nâng nổi. Tuy nhiên, hôm nay thì không, vì ông ấy bị ốm, thế nên ông ấy đã bảo em tới, nhưng Effiera không nghĩ rằng một người tầm vóc như em...” Aster vỗ tay, che miệng. “Em xin lỗi, Miz. Em lại đi đây. Chuyện em ở đây cũng không có gì quan trọng. Tại sao chị ở đây vậy?”

Bởi vì chị bị kéo mạnh vào lều của em mà, tôi muốn trêu chọc, nhưng tôi biết Aster mặc cảm, nên tôi không muốn khiến em ấy tự ti thêm. “Komizar nói rằng chị cần vài bộ quần áo phù hợp.”

Đôi mắt cô bé trố ra như thể chính Komizar đang đứng đây, và ngay tắp lự, một phụ nữ ngồi xổm nhào đến giữa lều từ sau tấm rèm kéo ngang sau lưng.

“Vậy thì, cô đến đúng chỗ rồi. Tôi biết đích xác Ngài ấy thích cái gì. Tôi có...”

Tôi chấn chỉnh lại bà ấy ngay lập tức. Tôi không phải là một “vị khách đặc biệt” của Komizar. Aster nhiệt tình giới thiệu thêm vào chi tiết về thân phận của tôi. “Chị ấy mới đến đây! Chị ấy là một công chúa. Chị ấy đến từ một vùng đất xa xôi, và tên chị ấy là Jezelia, nhưng...”

“Suỵt, gái ơi!” Người phụ nữ nhìn lại tôi, nhai nhai thứ gì đó mắc trong hõm má, và tôi băn khoăn liệu cô ấy có khạc nhổ vào tôi khi biết rằng tôi đến từ phía thù địch. Cô ấy quan sát tôi một lúc lâu.

“Tôi nghĩ rằng tôi có đúng những gì cô cần đấy?” Cô ấy ước lượng số đo của tôi với con mắt thuần thục và nói cô ấy sẽ sớm quay lại. Cô ấy yêu cầu Aster ở bên cạnh tôi trong lúc chờ đợi.

Ngay khi Effiera đi khỏi, Aster chui đầu qua một khe hở bên hông chiếc lều và huýt sáo thật kêu. Trong vài tích tắc, hai đứa bé da dính xương nhỏ hơn Aster chui qua vạt cánh lều. Cũng như Aster, tóc chúng bị cắt sát tận da, và tôi không biết chắc liệu chúng là trai hay gái, nhưng mắt chúng đều mở to và thèm thuồng. Aster giới thiệu đứa nhỏ nhất, Yvet và đứa kia là một bé trai tên là Zekiah. Tôi để ý cậu bé bị mất đầu ngón trỏ bên tay trái. Phần bị cụt còn lại vẫn còn đỏ và sưng, như thể vết thương mới xảy ra gần đây thôi, cậu bé cố ý dùng tay còn lại xoa xoa chỗ đó. Lúc đầu, chúng quá nhút nhát nên không dám nói chuyện, nhưng Yvet đã hỏi bằng một giọng hơi run run rằng có đúng là tôi đã từng ở những vùng đất khác như Aster đã khẳng định hay không. Aster nhìn tôi bằng đôi mắt đầy trông đợi như thể uy tín của cô bé đang bị thử thách giữa chừng.

“Đúng rồi, những gì Aster nói là thật,” tôi nói. “Em có muốn nghe kể về những nơi đó không?”

Chúng háo hức gật đầu, và tất cả chúng tôi ngồi trên tấm thảm ở giữa lều. Tôi kể cho chúng nghe về những thành phố bị lãng quên ở đâu đó giữa hư vô, những thảo nguyên ngập cỏ đồng tiền trải rộng như biển cả, những tàn tích lấp lánh, lung linh tới hàng dặm, những đồng cỏ cao trên núi nơi các vì sao ở rất gần đến mức con người có thể chạm vào vệt đuôi phát sáng của nó, và một bánh xe quay khung xe tơ kéo ánh sao thành sợi chỉ trên một bánh xe xoay tròn lớn. Tôi đã kể cho chúng nghe về những con vật có cái đầu như cái đe hàn và có râu chạy theo từng đàn vô số, nhiều như đá cuội lòng sông, và về những thành phố đã sụp đổ bí ẩn nơi có những ngọn suối chảy ra mỹ tửu, những con đường lấp lánh ánh vàng ròng, và những Người xưa vẫn làm phép thuật.

“Chị đến từ nơi đó, phải không?” Yvet hỏi.

Tôi nhìn cô bé, không biết phải trả lời như thế nào. Tôi đến từ đâu?

Thật kỳ lạ, Ciciva không phải là nơi xuất hiện trong tâm thức của tôi.

“Không,” cuối cùng tôi thì thầm. Và sau đó tôi kể cho chúng nghe về Terravin. “Ngày xửa ngày xưa,” tôi kể, đưa nó vào một câu chuyện xa xôi, cách trở như tôi cảm thấy bây giờ, “có một cô công chúa, tên cô ấy là Arabella, cô ấy phải trốn chạy khỏi nanh vuốt của một con rồng xấu xa, nó đang đuổi theo để bắt cô ấy làm bữa sáng. Cô ấy chạy tới một ngôi làng để tìm kiếm sự bảo vệ.” Tôi kể cho chúng nghe về một cái vịnh xanh trong ánh lên như ngọc bích, cá lấp lánh ánh bạc nhảy cả vào lưới, nơi đó có một người phụ nữ khuấy những nồi hầm không đáy, và những căn nhà tranh dệt từ cầu vồng cùng hoa tươi, một vùng đất kỳ diệu mà bất cứ nàng công chúa nào đã từng mơ thấy. Nhưng rồi con rồng lại tìm thấy cô ấy và cô ấy phải rời đi.

“Công chúa sẽ quay lại đó chứ ạ?” một giọng nói lạ cất lên.

Tôi nhìn sang bên trái, giật mình. Tới hơn bốn đứa trẻ nữa đã chui vào và khoanh chân ngồi ở lối vào của chiếc lều.

“Chị nghĩ cô ấy sẽ cố gắng quay về,” tôi trả lời.

Effiera lướt đến từ phía sau, vỗ tay và xua bọn trẻ đi.

“Nào, chúng ta bắt đầu,” cô ấy nói. Tôi quay lại thấy ba người phụ nữ nữa đang đứng ở phía sau căn lều, cánh tay họ chất nặng vải vóc. Trong số đó, có những tấm da mềm nhiều sắc độ - nâu vàng nhạt, nâu, nâu vàng, và một số nhuộm thành màu tía, xanh lá, và đỏ nữa. Một người phụ nữ khác đang giữ các phụ kiện như dây lưng, khăn và bao kiếm vắt trên cánh tay.

Tim tôi đập thình thịch, tôi không biết tại sao, nhưng rồi tôi đã nhận ra - ngay trước khi họ dỡ đống vải đó.

Trang phục của tộc man di. Những thứ này không giống như đồ mà Calantha mặc, chúng được làm từ chất liệu mỏng và nhẹ, thường được mang tới trên những chiếc xe caravan của đoàn lữ hành Previzi. Tôi nhìn Effierra không dám chắc. Biểu cảm của cô ấy rất kiên quyết. Tôi chắc nó không phải là những gì mà Komizar đã nghĩ tới, nhưng theo một cách nào đó, những thứ vải vóc này dường như là đúng đắn. Vẫn là cảm giác lạ lùng mà tôi từng có ngay lần đầu tiên tôi đi vòng quanh chỗ rẽ và thấy Terravin. Một cảm giác đúng đắn được mách bảo. Trang phục, tất nhiên, không giống như ở quê hương, tôi tự nhắc nhở mình. “Tất cả những gì tôi cần là thứ đồ gì đó giản đơn như quần và áo sơ mi. Thứ trang phục mà tôi có thể mặc và cưỡi ngựa được,” tôi nói.

“Và đây, cô sẽ có, nào, thay đổi sang quần áo đơn giản lần nữa.”

Effiera trả lời, và với một cái phẩy tay nhanh chóng, những người phụ nữ tiến vào, theo chuyển động vòng tròn, và bắt đầu lấy số đo và ghim thử bộ trang phục cưỡi ngựa cơ bản.

✽ ✽ ✽

KADEN VÀ TÔI ĐÃ ĐI BỘ QUAY LẠI TÒA SANCTUM. Effiera hứa sẽ gửi hai bộ trang phục mà tôi đã đặt mua cho Aster vào cuối ngày hôm nay sau khi thực hiện một vài thay đổi. Nỗi sợ hãi mà tôi mang theo kể từ khi tôi đi qua cây cầu vào thành của Venda phút chốc đã được dỡ bỏ. Khoảng thời gian ngắn ngủi của tôi trong lều, đầu tiên là với lũ trẻ, sau đó là với những người phụ nữ khi họ cầm vải, áo gi-lê, áo sơ mi và quần nam, là một niềm an ủi dịu dàng. Tôi cảm thấy ít giống như một người ngoài thành hơn và tôi hy vọng mình có thể tiếp tục giữ gìn cảm xúc đó.

“Tiêu tiền vào quần áo trong khi có quá nhiều việc cần thiết khác nữa có vẻ ngớ ngẩn thật.” Tôi vẫn thắc mắc về chiếc ví còn xẹp của Komizar.

“Cô nghĩ người Venda làm gì hàng ngày để sinh sống? Họ có công việc và nghề nghiệp riêng, và những cái tàu há mồm phải nuôi. Tôi đã trả cho Effiera gấp đôi những gì cô ấy có thể nhận được từ một người khác. May trang phục là phương thức kiếm sống của cô ấy.”

“Effiera? Anh biết tên tất cả những người bán hàng ở Venda sao?”

“Không, mình cô ấy thôi.”

“Vậy, chắc anh đã mang các quý cô trẻ trung khác tới chỗ cô ấy nhỉ?”

“Thực tế, đúng vậy đó.”

Anh ta không kể chi tiết, và sự im lặng của anh ta khiến tôi băn khoăn không rõ họ là ai. Nhiều người khách đã đến thăm Komizar hay là những cô gái trẻ mà anh ta yêu thích?

“Tại sao chúng ta đã quay trở lại rồi?” Tôi hỏi. “Vẫn còn sớm. Tôi tưởng anh muốn tôi nhìn thấy thành phố của anh. Tôi mới chỉ thấy một phần nhỏ.”

“Komizar muốn tôi xem xét vài việc ở quận Tomack.”

“Chẳng phải là có các quận trưởng phụ trách rồi sao?”

“Không phải chuyện này. Chuyện về đám lính.”

“Tôi có thể đi cùng với anh.”

“Không.”

Câu trả lời của anh ta nóng nảy và cụt ngủn và chẳng giống Kaden chút nào. Tôi quay lại và nhìn chằm chằm thật lâu vào anh ta.

“Tôi sẽ đưa cô trở về theo đường khác,” anh ta đề nghị, “Đi qua một số tàn tích thú vị hơn.”

Một sự thỏa hiệp, bởi vì cho dù là chuyện gì diễn ra ở quận Tomack này, anh ta đều không muốn tôi biết. Chúng tôi lại đi xuôi những ngõ hẹp, những con hẻm và vài con đường dường như chỉ là lối mòn thỏ chạy, nhảy qua những rãnh đã bị rửa trôi bởi nước mưa và bước qua những đám cỏ chết đã bị giẫm nát. Cuối cùng chúng tôi cũng tới một con đường dễ đi và rộng rãi, rồi Kaden dẫn tôi đi qua một cái vạc lớn đang sôi lăn tăn trên bếp lửa. Có những chiếc ghế dài bằng gỗ thô rải rác theo vòng tròn quanh cái vạc, một ông già chào mời những vại bia bình dân.

“Đó là trà thảo mộc Thannis,” Kaden nói. “Một loại trà ủ từ cỏ dại.” Anh ta mua cho chúng tôi mỗi người một cốc, và chúng tôi ngồi xuống một trong những chiếc ghế dài đó. Cỏ Thannis là một thứ khác mà Venda có vô số, anh ta giải thích. “Nó mọc gần như khắp nơi. Gờ tường, kẽ hở, những cánh đồng đầy đá. Đôi khi những người nông dân nguyền rủa nó. Một khi nó đã trồi lên, rất khó để ngăn nó lan tràn. Cỏ Thannis là kẻ sống sót cuối cùng, giống như người Venda ấy?” Anh ta nói lá cỏ màu tía, mọc mầm nhanh như nấm sau mưa, nhưng chỉ vào độ cuối thu, trong một vài ngày trước vụ gieo hạt, nó chuyển sang màu vàng sáng. Đó cũng là lúc nó có vị ngọt, nhưng có độc tính. “Một cốc trà cỏ Thannis lá vàng có thể sẽ là cốc trà cuối cùng của cô.”

Tôi rất vui khi thấy loại nước chúng tôi uống là một món bia ủ lạ lùng và không có màu vàng kim. Tôi nhấp một ngụm và phun hết ra ngoài. Nó có vị như bụi. Bụi chua, bụi thiu.

Kaden cười phá lên. “Nó có vị vậy đấy nhưng là hương vị truyền thống của Venda, giống như những mẩu xương được đeo ở thắt lưng chúng tôi. Người ta cho rằng chính trà Thannis đã giữ cho các quý bà Venda và các thị tộc khởi thủy ở đây sống sót qua vài mùa đông đầu tiên. Trong thực tế, chính loại trà này có lẽ đã giữ tôi sống sót không chỉ một mùa đông. Khi các nguồn cung khác đã cạn kiệt, vẫn luôn có Thannis.”

Tôi ráng hớp một ngụm nữa và cố nuốt trôi, rồi ngay lập tức cố tiết ra nước bọt để xua tan dư vị của nó trong miệng mình. Tôi chắc chắn đó không phải là một loại mùi vị mà tôi từng nếm qua, thậm chí trong mùa đông lạnh lẽo. Tôi lén nhìn ông lão đang vừa khuấy chiếc vạc vừa ngân nga một đoạn vè cho khách bộ hành nghe: Thannis - liều thuốc cho trái tim, Thannis - liều thuốc cho trí tuệ, Thannis - liều thuốc cho tâm hồn, Thannis ơi, chúc các con dân Venda sống trường thọ. Ông ấy lặp đi lặp lại bài hát, một bài hát lên bổng xuống trầm không đầu không đuôi.

Bồng bềnh trong làn hơi nước bốc lên từ chiếc vạc, tôi phát hiện một ai đó đang đứng trên một mỏm đá cao từ phía xa, dõi theo tôi. Một người phụ nữ. Dáng hình của người đó dường như dập dờn theo làn hơi nước, mờ ảo, nhạt nhòa dần và rồi tan biến. Bà ấy biến mất. Tôi chớp mắt và nhìn xuống cốc trà còn bốc hơi của mình.

“Trong này có gì vậy?” Tôi hỏi.

Kaden mỉm cười. “Tôi đảm bảo chỉ có một loại lá cỏ lành tính thôi.” Anh ta gọi ông lão và hỏi xem ông ấy có loại kem nào làm dịu vị để trà thêm ngọt giúp tôi không. Ông vui vẻ làm theo, mặc dù ông ấy gần như đã bỏ hết trà Thannis ra; kem, mật, hoặc rượu mạnh gia tăng hương vị sẽ phải tính thêm giá. Thậm chí thêm vào hẳn một lượng kem đáng kể mà trà Thannis cũng chỉ dễ uống hơn một chút. Rượu mạnh điều vị có tác dụng tốt hơn.

Chúng tôi nhấm nháp đồ uống của mình và quan sát lũ trẻ đuổi theo những người đi qua, nài nỉ họ bất cứ điều gì cốt để bán được chút gì đó.

“Chúng dường như còn quá nhỏ. Cha mẹ của chúng đâu rồi?” Tôi hỏi.

“Hầu hết không có cha mẹ, hoặc cha mẹ của chúng cũng đang ở trên một con phố khác và làm công việc tương tự.”

“Anh không thể làm gì giúp họ ư?”

“Tôi đang cố gắng, Lia. Komizar cũng vậy. Nhưng anh ấy chỉ có thể xẻ thịt rất nhiều những con ngựa như vậy.”

“Và đột kích rất nhiều đoàn lữ hành. Có nhiều cách khác để gây dựng một vương quốc mà.”

Anh ta liếc nhìn tôi, nhếch môi cười xếch. “Có sao?” Ánh mắt của anh ta hướng trở lại ra ngoài con đường. “Khi các hiệp ước xa xưa được thảo ra và các đường biên giới được thiết lập, Venda không phải là một vùng trong phạm vi các đàm phán đó. Những vùng đất màu mỡ của Venda luôn ít, và mỗi năm lại có thêm nhiều cánh đồng bị hoang hóa. Hầu hết các vùng nông thôn của Venda đều vô cùng nghèo nàn, hơn nhiều những gì cô đang thấy ở đây, đó là lý do tại sao ngày thành phố ngày càng phát triển. Họ đến tìm kiếm hy vọng và một cuộc sống tốt hơn.”

“Anh đã lớn lên theo cách này à? Trên những đường phố Venda?”

Anh ấy nuốt ực ngụm trà thannis cuối cùng của mình và đứng dậy, trả lại chiếc cốc cho ông lão. “Không, có lẽ nếu tôi lớn lên như thế thì cũng là may mắn rồi.”

“May mắn? Cha mẹ anh tệ quá sao?”

Anh ta khựng lại khi đang dở bước. “Mẹ tôi đã là một vị thánh.”

Đã.

Tôi nhìn chằm chằm vào anh ta, một tĩnh mạch nổi lên, vẫn trên thái đương của anh ấy. Chính là điều này. Điểm yếu của anh ta. Phần chôn giấu mà anh ta từ chối chia sẻ.

Cha mẹ anh ta.

“Chúng ta cần phải đi thôi.” Anh ta đưa tay ra, chờ đợi chiếc cốc rỗng của tôi. Tôi muốn có thêm câu trả lời, nhưng tôi biết cảm giác đau nhói với những ký ức về một người mẹ và người cha như thế nào. Mẹ của tôi đã lừa dối tôi, kiềm hãm “năng lực” của tôi, còn cha tôi thì...

Bụng tôi quặn lại.

Chỉ là một tờ thông báo nhỏ ở bãi tập trung của làng. Anh Walther đã nói với tôi chuyện đó như thể nó sẽ xoa dịu tôi nhưng tờ thông báo vẫn là một lời kêu gọi hãy bắt giữ và dẫn giải tôi về chịu tội phản quốc, do chính cha tôi đưa ra. Một vài dòng không bao giờ xóa nhòa được và ông ấy đã chứng tỏ điều đó khi ông ấy treo cổ chính cháu trai mình. Tôi vẫn không biết vai trò của cha tôi là gì trong việc treo thưởng để săn lùng tôi, nhằm lấy mạng tôi. Có lẽ, ông ấy nhìn nhận việc này như là một phương thức tiện lợi để gạt bỏ hoàn toàn các phiên tòa xét xử hỗn tạp. Ông biết các anh trai tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ông ấy nếu ông ấy hành hình tôi.

“Lia, cốc của cô?”

Tôi rũ bỏ ký ức, đưa cho anh ta chiếc cốc, và chúng tôi tiếp tục lên đường. Ở đây, cũng như ở trên thảo nguyên, các di tích và các công trình phục dựng mới nằm kề bên nhau, và đôi khi không thể phân biệt được cái này với cái kia. Một mái vòm đồ sộ từng nằm trên đỉnh một ngôi đền vĩ đại đã bị dập vùi trong đống đổ nát, và chỉ có một khối đá chạm khắc lấp ló lên từ lòng đất cho thấy nó không phải là một ụ đất bình thường trong khung cảnh này. Ngay cạnh đó, người ta xếp chồng các khối đá lên nhau, làm thành một cái chuồng dê. Kaden nói với tôi rằng động vật được canh giữ rất cẩn thận ở đầy. Chúng dễ bị trộm mất.

Chúng tôi tiếp tục đi một quãng đường dài nữa, cuối cùng, Kaden cũng dừng lại ở một đống tàn tích khiêm tốn, đặt tay lên một cái cây bám sâu vào một bức tường như những ngón tay xương xẩu. “Cái cây này từng cao hơn bất kỳ ngọn tháp nào ở Venda.”

“Làm sao biết được?” Tôi nhìn những bức tường đổ nát quây thành một bãi hình vuông khổng lồ. Cây cối mọc trên đỉnh những phế tích tựa như những người lính gác vặn vẹo. Không còn lại phế tích nào cao hơn 3m5 nữa và một bức tường gần như đã sụp vỡ hoàn toàn. Dường như viển vông khi cho rằng phế tích này đã từng vươn cao sững sừng trên toàn thành phố. “Nó có lẽ chỉ từng là những bức tường của một trang viên nào đó.” Tôi nói.

“Không đúng,” Kaden nói chắc nịch. “Nó đã vươn cao tới hơn 180m thẳng lên bầu trời.”

“180m?” Tôi lẩm bẩm thốt lên sự hoài nghi của mình.

“Các tài liệu tìm thấy đã xác nhận điều đó. Chính xác nhất theo những gì đã được giải đoán, đây là một tượng đài dành cho một trong những thủ lĩnh của họ.”

Tôi thực sự không biết nhiều về lịch sử nền văn minh xa xưa trước khi nó bị tàn phá. Rất ít chi tiết còn được ghi lại trong Thánh văn Morrighan - hầu hết chỉ là những hậu quả sau đó. Chúng tôi chỉ biết về sự sụp đổ của họ, và các học giả đã thu thập được một số di vật còn sót lại sau hàng trăm năm. Tài liệu giấy rất hiếm thấy. Giấy là thứ đầu tiên bị tan thành mây khói, và theo Thánh văn, khi Người xưa cố gắng sống sót, giấy là thứ đầu tiên họ sử dụng để làm chất đốt. Mục tiêu sống còn áp đảo giá trị ngôn ngữ.

Các tài liệu cổ đã được giải thích lại càng hiếm. Các học giả của Morrighan đã có nhiều năm tìm tòi về những thứ như vậy. Người Venda dường như không thể đảm bảo đủ cái ăn cho dân chúng của mình, nói chi đến dạy dỗ họ các thứ tiếng khác. Họ đã hoàn thành công trình khổng lồ tầm vóc đó bằng cách nào nhỉ?

Tôi nhìn vào nơi anh ta chỉ. Những phiến đá trắng vĩ đại lấp lóa từ phía xa. Khi chúng tôi lại gần chúng, anh ta nói rằng các đường hầm bên dưới thành phố tiết lộ rằng phế tích đã bị chôn vùi gần hết. Chỉ có phần đỉnh vẫn lộ ra. Những phế tích này không phải từ một ngọn tháp, mà là một ngôi đền dạng khác. Nhưng ngay chính trung tâm của nó có một cái đầu khổng lồ chạm khắc và một phần vai của con người. Khuôn mặt đó không phải là khuôn mặt hoàn mỹ của một vị thần, cũng không phải là khuôn mặt của một hình tượng người lính. Tỷ lệ của nó rất kỳ lạ; trán quá rộng, mũi quá to, gò má nhô cao khiến anh ta trông như lả đi vì đói. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi không thể quay đi - anh ta trông giống như một tượng đài tưởng nhớ một người mà anh ta sẽ không bao giờ biết, một người trong một thời đại khác cũng có cùng khao khát và mong muốn như những người đang sống ở đây bây giờ. Tôi với tay lên và lướt ngón tay trên xương gò má nứt nẻ của anh ta, tự hỏi anh ta là ai và tại sao Người xưa muốn anh ta phải được ghi nhớ.

Các phiến đá gãy vỡ của ngôi đền ở xung quanh nằm trên mặt đất gần anh ta. Một mảnh lớn được chạm khắc, nhưng hầu hết các con chữ đã bị xóa nhòa bởi thời gian. Chỉ còn sót lại những vệt lõm mờ nhạt của một vài chữ cái. Tôi không thể đọc nổi, nhưng ngón tay tôi lần theo các đường rãnh, ghi những dòng chữ đã bị quên lãng vào trong trí nhớ.

FOR V R [1]

Tôi nhìn hình hài cô độc với nỗi buồn khôn xiết, không nói nên lời. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy phần nào biết ơn vì đã bỏ công nghiên cứu Thánh văn Morrighan nhiều giờ để sự thật và lịch sử không bị mai một thêm một lần nữa.

“Chúng ta nên đi thôi,” Kaden nói. “Chúng ta sẽ đi một con đường khác, một đường về nhanh hơn.”

Tôi bước ra khỏi tượng đài và nhìn xung quanh, chờ đợi anh ta dẫn lối. Chúng tôi đã rẽ quá nhiều ngả, tôi không rõ mình phải đi tiếp theo hướng nào - và rồi nó ập đến với tôi, giống như những bàn tay rộng mở đập vào vai tôi, đánh thức tôi.

Tôi nhìn chằm chằm vào Kaden, và nhận ra những gì anh ta đang làm.

Anh ta không đơn giản là sốt sắng giúp đỡ tôi một cách tử tế, và muốn cho tôi thấy nhiều hơn về Venda. Đây chỉ là một phần trong dự tính của anh ta từ đó tới giờ. Anh ta cố tình đánh lạc hướng tôi - và cách đó hiệu quả. Tôi không biết Tòa Sanctum ở hướng nào, nếu lấy nơi đang đứng làm mốc. Anh ta không muốn tôi quen thuộc với mạng lưới đường phố rối rắm này, thế nên anh ta đang đưa tôi đi theo đường khác để quay về. Những ngã rẽ, quẹo và những đường hẻm mà chúng tôi men theo không phải là đường tắt - chúng là chướng ngại khiến tôi không thể tìm được đường đi của mình quanh thành phố mê cung này.

Tôi quay quanh, nhìn vào những hướng khác nhau, cố gắng nén nỗi chịu đựng của mình. Đúng là một việc bất khả thi. “Anh vẫn không tin tưởng tôi,” tôi nói.

Hàm anh ta cứng lại, mắt anh ta - viên đá thẫm màu. “Vấn đề của tôi là, Lia, tôi hiểu cô quá rõ. Giống như cái ngày mà cô dùng dấu chân bò rừng để tách ly bọn tôi. Cô luôn luôn tìm kiếm cơ hội. Cô tìm kiếm hầu như mọi ngày. Nếu cô cố gắng làm điều gì như thế ở chốn này, cô sẽ không thể làm nổi đâu. Tin tôi đi.”

“Bơi qua con sông à? Tôi đâu có ngu đến vậy. Có gì khác để tôi thử không?”

Anh ta nhìn tôi như thể anh ta thực sự bối rối. “Tôi không biết.”

Để sống sót, không có nguyên tắc nào tồn tại hết. Tôi tự nhắc nhở mình khi tôi tiến về phía anh ta. Mỗi bước đi đều giống như có lưỡi thép sắc cắt xuyên qua tôi, nhưng tôi đã nắm lấy bàn tay anh ta và siết chặt một cách dịu dàng. Cảm nhận hơi ấm và sức mạnh của anh ta, sự hiểu biết kỳ lạ của anh ta. “Có phải anh đã bận tâm đến chuyện có lẽ tôi sẽ định thử tìm kiếm các cơ hội trải ra trước mắt mình,” tôi nói khẽ khàng, “và tôi không định tìm kiếm bất cứ điều gì khác hết?”

Anh ta nhìn tôi chằm chằm tưởng như kéo dài cả cuộc đời, rồi bàn tay anh ta siết chặt ngón tay tôi, và anh ta kéo tôi lại gần. Bàn tay anh ta ép chặt lên lưng tôi, ôm tôi sát lại vào người mình, chỉ còn hơi thở, thời gian và những bí mật ở giữa hai chúng tôi.

“Tôi hy vọng thế,” cuối cùng anh ta cũng thì thầm và rồi, khi khuôn mặt chỉ còn cách tôi vài centimét, anh ta buông tôi ra và bảo rằng đến lúc quay về rồi.

Mãi mãi hoặc vĩnh cửu (nguyên văn là FOREVER) nhưng thời gian đã làm mất đi những chữ e của từ đó (FOR V R).