Chương 19
HÀNH LANG TỐI TĂM, CHIẾC ĐÈN LỒNG MÀ TÔI GIẬT XUỐNG TỪ MỘT CÁI MÓC hầu như chẳng thắp sáng nổi đường tôi đi. Tôi không thể quay về theo lối mà tôi đã đi tới đây. Mọi lối rẽ đều bị bọn thống đốc hoặc lính canh án ngữ, và tôi phải rẽ gấp sang một lối ngẫu nhiên để tránh bọn họ, rồi trượt theo những cầu thang hẹp, và lao như tên theo những con đường không lớn hơn cái đường hầm bao nhiêu. Giờ tôi men theo hành lang thấp lè tè và không chắc nó có thể dẫn tới đâu. Nó trống vắng, ảm đạm và dường như hoang phế.
Hành lang ngày càng hẹp khi tôi tiến sâu vào, không khí đượm mùi ẩm mốc. Tôi có thể cảm nhận được dư vị xa xưa của thời gian nồng đậm nơi đầu lưỡi. Tôi tính quay lại nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng tới một cánh cổng và mấy cầu thang dẫn lối đi xuống. Có cảm giác như tôi đang ở trong bụng của một sinh vật đã chết. Tôi chỉ muốn làm một điều cuối cùng, đó là khám phá sâu hơn vào tận trong ruột của nó. Nhưng dẫu sao, tôi cũng bước xuống. Tôi lo lắng rằng Kaden có thể trở lại trước khi đêm về và không muốn anh ấy biết chuyện tôi đi lại linh tinh. Anh ta chắc chắn sẽ niêm phong cái cửa sập.
Những bậc đá cong cong, dẫn tôi vào bóng tối hun hút hơn, chuyện mà tôi đã dần quen với khi ở trong cái thành phố quỷ quái này, rồi, đột nhiên tôi đã nghe tiếng rầm rầm và chiếc cầu thang ngay dưới chân tôi sụp gãy. Tôi ngã, rơi tõm vào bóng tối, tuột mất chiếc đèn lồng, áo choàng của tôi cuốn quanh người, hai bàn tay tôi quào lấy những bức tường, và bất cứ thứ gì để cổ hãm cú rơi xuống. Cuối cùng tôi cũng dập mạnh một cú ngã phịch đau điếng xuống sàn. Tôi nằm yên đó, váng vất trong giây lát, băn khoăn không biết mình có bị gãy xương chỗ nào không.
Một luồng khí lạnh lẽo trào lên từ phía dưới, cuốn theo mùi khói và mùi dầu. Ánh sáng yếu ớt phơi ra một cái rễ khổng lồ bò lan xuống bức tường bên cạnh tôi như một sinh vật có vuốt bám khỏe. Trên đầu tôi, đám tua dây leo mỏng mảnh từ những rễ cây khác lơ lửng như những con rắn đang trườn. Nếu không nhờ ánh sáng và mùi dầu đèn lồng, tôi chắc chắn mình đã rơi vào khu vườn địa ngục của một con quỷ. Tôi ngồi dậy, chiếc áo choàng vẫn quấn quanh vai và ngực, sau đó xoa đầu gối trần không bọc đệm đỡ. Có một vết rách đẫm máu trên chiếc quần. Từng món một, tôi đang làm quần áo của Kaden rách bươm thành từng mảnh. Làm sao tôi có thể giải thích về những vết rách này bây giờ? Tôi đứng dậy, giũ chiếc áo choàng tung ra, và có một thứ gì đó cưng cứng đập vào chân tôi. Tôi củi xuống, giơ tay nắm lấy vạt vải. Có thứ gì đó cứng ngắc bị khâu dính vào gấu áo. Tôi xé toạc viền gấu ra, một miếng da mỏng tang rơi vào tay tôi. Một con dao nhỏ được gài trong đó.
Natiya! Chắc hẳn là con bé. Bà Dihara sẽ không bao giờ mạo hiểm như vậy. Cả Reena nữa. Nhưng tôi nhớ đến cái cằm hếch lên thách thức của Natiya khi con bé đưa chiếc áo choàng cho tôi. Nó được cuộn lại gọn gàng và buộc dây cố định xung quanh. Kaden đã chộp lấy chiếc áo từ tay con bé, và nói rằng sẽ phải để nó vào chung với túi ngủ của tôi.
Tôi lật qua lật lại con dao trên tay. Nó nhỏ hơn đoản kiếm của tôi, dài ba tấc là hết cỡ, và mỏng mảnh. Vừa khớp với bàn tay nhỏ nhắn của Natiya - và hoàn hảo để giấu kín. Nó sẽ chẳng có tác dụng sát thương đáng kể nếu phóng ra nhưng ở cự ly gần nó đủ gây chết người. Tôi lắc đầu, biết ơn sự tinh ranh của con bé, và hình dung ra con bé đã phải khẩn trương và hồi hộp đến thế nào để khâu nó vào viền áo theo cái cách không thể nào khôn ngoan hơn. Tôi bỏ con dao vào trong giày bốt cao cổ và tiếp tục thận trọng đi xuống cầu thang xoắn ốc. Rồi, thật may làm sao, chỉ thêm vài bước chân, cầu thang kết thúc và ánh sáng vàng dịu nhẹ lan tới đón tôi một cách hối hả.
Tôi bước ra, đặt chân vào một căn phòng và cố nén một tiếng thở hổn hển.
Đó là một hang động vách đá trắng, thắp sáng bằng những ngọn đèn lồng tỏa màu vàng bơ. Hàng tá cột vươn cao, chụm đầu thành một mái vòm bao phủ cả một không gian rộng lớn. Những cái rễ khổng lồ như cái mà tôi thấy ở cầu thang lách qua trần nhà và len lỏi xuống dọc theo tường và cột. Những dây leo nhỏ hơn lửng lơ ở giữa - cả căn phòng trông sống động lạ thường bởi những con rắn vàng kem.
Sàn hang động đó một phần là đá cẩm thạch bóng loáng, một phần là đá thô, và ở một số nơi, gạch vụn vun thành đống. Bóng tối nhập nhoạng đây đó giữa các mái vòm và từ xa, tôi đã thấy những hình người khoác áo choàng đang bước đi. Tôi cố gắng nhìn lén sau lưng họ nhưng họ biến mất rất nhanh vào trong bóng tối.
Họ là ai, và họ đang làm gì ở dưới đây? Tôi ôm chặt chiếc áo choàng vào người và lao ra ngoài, nấp sau một cái cột. Tôi nhìn lướt qua hang động. Nơi này là chốn nào? Bọn họ có những ngôi đền được xây dựng rất công phu bên dưới mặt đất.
Một tàn tích. Tôi đang ở trong một tàn tích được khai quật của Người xưa.
Ba dáng người mặc áo choàng đi ngang qua phía bên kia của cây cột, và tôi áp sát người vào phiến đá, nín thở. Tôi lắng nghe những bước chân của họ lướt trên nền nhà bóng loáng, những bước chân của họ khẽ khàng kỳ lạ. Âm thanh của sự tôn kính và tự chủ. Tôi bước ra ngoài ánh sáng, quên đi sự cẩn trọng, và quan sát những vạt áo choàng nâu trơn đung đưa khi họ bắt đầu rời đi.
“Dừng lại.” Tôi hét lên, giọng nói của tôi vang vọng khắp hang động.
Cả ba người dừng bước và quay lại. Họ không rút vũ khí ra, hoặc có lẽ họ không thể vì cánh tay của họ đang mang theo đầy sách.
Đường nét khuôn mặt của họ ẩn lấp bởi bóng tối của mũ trùm đầu, và họ không nói. Họ chỉ đơn giản là đối mặt với tôi, chờ đợi. Tôi đến gần họ, duy trì sự vững vàng và quyết đoán cho những bước chân của mình.
“Ta muốn nhìn rõ những người mà ta nói chuyện với,” tôi nói.
“Chúng tôi cũng vậy,” người đứng giữa trả lời.
Ngực tôi hóp chặt lại. Anh ta nói tiếng Venda hoàn chỉnh, nhưng ngay cả trong vài từ đó, tôi vẫn nghe ra sự khác biệt. Cách anh ta dùng từ. Vẻ uyên bác. Tính ngoại lai. Anh ta không phải là người Venda.
Tôi cúi gằm để hạ cằm thấp xuống nhằm giấu đi khuôn mặt trong bóng tối của chiếc mũ trùm đầu. “Tôi chỉ là khách của Komizar, và tôi đã lạc đường.”
Một trong số họ khịt mũi. “Ra là thế.”
“Hơi băn khoăn về chuyện cô vẫn cứ che mặt lại,” một người khác nói và kéo mũ trùm đầu của anh ta lên. Tóc anh ta cuốn thành các bím kiểu cách trên đầu, một đường cắt sâu hiện giữa đôi mày của anh ta.
“Đây có phải là địa lao nào đó không?” Tôi hỏi. “Các người có phải tù nhân dưới đây không?”
Họ cười phá lên trước sự ngu ngơ của tôi nhưng sau đó, liền đáp lại những thông tin mà tôi muốn có.
Họ cười nhạo sự thiếu hiểu biết của tôi, nhưng lại đưa ra những thông tin mà tôi thu thập được. “Chúng tôi là người truyền tải được trả thưởng bằng kiến thức, và ruột của con quái vật này có nhiều thứ để khiến chúng tôi bận rộn. Giờ, hãy quay lại con đường của cô đi.” Anh ta chỉ sau lưng tôi, bảo tôi đi cầu thang thứ hai lên.
Các học giả Venda? Tôi nhìn họ đăm đăm, suy nghĩ của tôi vẫn không dừng lại ở hai câu hỏi họ là ai và tại sao họ ở đây?
“Đi đi!” anh ta nói, như thể anh ta đang suỵt đuổi con mèo một tai vậy.
Tôi quay phắt lại và vội vã đi, và khi biết rằng họ không còn nhìn thấy mình nữa, tôi nép vào sau một cái cột và ngả người ra sau, đầu nhộn nhạo với cả đống câu hỏi. Người truyền tải của những loại kiến thức nào ?
Tôi nghe thấy tiếng bước chân và đông cứng cả người lại. Nhiều người thuộc bọn họ đi ngang qua, một nhóm năm người, đang lẩm bẩm về bữa trưa của họ.
Ruột của con quái vật này có nhiều thứ để khiến chúng ta bận rộn.
Bọn họ bố trí cả một đội quân lảng vảng trong những hang động này.
Một cơn ớn lạnh lan lên cổ tôi.
Tắt cả mọi thứ về họ đều không thuộc về nơi đây. Họ đang giữ vai trò gì để được hưởng phần thưởng là kiến thức? Tôi lao ra ngoài và tìm thấy cầu thang thứ hai, vừa bước được đúng hai bước, bất chợt có một mùi ám khói khó chịu nồng sực trong hang động, khiến tôi chộn chạo cả ruột gan.