Chương 25
KADEN IM LẶNG KHI ANH TA CHUẨN BỊ ĐI NGỦ, MỘT KIỂU IM LẶNG KHIẾN NGƯỜI KHÁC GAI NGƯỜI - nhịp thở của anh ta, những bước chân nặng nề của anh ta, tiếng nước rót ra khỏi bình... Tất cả đều căng thẳng.
Anh ta chà mặt mình ở chỗ chậu nước, và luồn những ngón tay ướt sũng vuốt tóc. Cử động rất thô bạo. Anh ta băng ngang căn phòng, giật phăng thắt lưng đang đeo một cục cằn.
“Lính gác nói với tôi rằng, hôm nay cô ngồi trên bức tường bên ngoài cửa sổ.” anh ta nói mà không thèm quay nhìn về phía tôi.
“Điều đó bị cấm sao?”
“Không khuyến khích việc đó. Sẽ là một cú ngã sâu đấy.”
“Tôi cần không khí trong lành.”
“Họ nói cô ngân nga những bài hát.”
“Hát tưởng nhớ Thánh. Chỉ là một truyền thống buổi tối ở Morrighan. Anh vẫn nhớ điều đó chứ?”
“Bọn lính nói rằng mọi người tụ tập để lắng nghe.”
“Thì đúng là họ có làm vậy, nhưng chỉ một số ít. Tôi là một kẻ đáng hiếu kỳ mà.”
Anh ta mở khóa chiếc rương, ném thắt lưng và bao gươm vào. Dao của anh ta đặt ngay dưới tấm thảm lông nơi anh ta sẽ nằm ngủ - anh ta giữ lưỡi dao ở gần, ngay cả trong phòng riêng có khóa. Phải chăng đó là một thói quen hay là một yêu cầu bắt buộc đối với Rahtan để luôn luôn sẵn sàng? Nó nhắc nhở tôi rằng tôi vẫn giữ con dao của Natiya trong giày của mình và tôi phải kín đáo nếu tôi lấy nó ra.
“Có gì sai không? Có phải là vì cách tôi đọc lời nguyện không?” Tôi hỏi trong lúc vật lộn với những dây buộc áo ở sau lưng.
Anh ta tháo một chiếc ủng ra. “Cô đọc ổn lắm.”
“Vậy thì sao mà...?”
“Không có gì.” Anh ta nhìn tôi cáu tiết với đám dây buộc.
“Lại đây, để tôi xem nào.”
Tôi quay lại. “Aster có vẻ như đã thắt nút chúng.” Tôi nói.
Tôi cảm thấy những ngón tay của anh ta dò dẫm để cởi dây, rồi cuối cùng cảm thấy lớp vải áo được nới lỏng ra. “Rồi đó,” anh ta nói. Tôi quay sang đối mặt với anh ta. Anh ta nhìn xuống tôi, đôi mắt trìu mến. “Có gì đó khác. Khi tôi nhìn cô trong chiếc váy này, tôi...” Anh ta lắc đầu. “Tôi e sợ. Tôi đã nghĩ... Mà thôi, đừng bận tâm.”
Tôi chưa bao giờ thấy anh ta phải đấu tranh quá nhiều với những lời mình nói ra. Hoặc thừa nhận nỗi sợ hãi. Anh ta bước ra xa và ngồi lên giường. “Hãy thận trọng với cách mà cô kích động mọi người, Lia.” Anh ta kéo nốt chiếc ủng còn lại ra.
“Anh lo lắng cho tôi không?”
“Tất nhiên là tôi lo lắng cho cô rồi!” Anh ta cau có quát.
Tôi sựng người, kinh ngạc với sự tức giận của anh ta. “Tôi đã được chào đón, Kaden. Đó là tất cả. Đó không phải là những gì anh muốn sao?”
“Chào đón kiểu đó cũng có thể mang đến một bản án tử hình đấy.”
“Ý anh là từ phía Hội đồng.”
“Ở đây chúng tôi không có gì nhiều đâu, Lia, ngoại trừ lòng kiêu hãnh.”
“Và một tù nhân đã được vinh danh. Thế mới nên chuyện.”
Anh ta gật đầu. “Cô chỉ mới đến đây thôi và...”
“Nhưng, Kaden, những người chào đón tôi là người Venda.” Đôi mắt anh ta nhìn xoáy vào tôi. “Nhưng họ không phải là những người nắm giữ vũ khí có khả năng lấy mạng người trong tay.”
Không thể phủ nhận rằng những công cụ thương nghiệp của Effiera chẳng khác gì công cụ của Malich và những nhóm binh lính dưới quyền anh ta. Tôi ngồi xuống bên cạnh Kaden. “Tộc Meurasi là thị tộc như thế nào? Tại sao bọn họ lại quan trọng hóa vấn đề đến vậy?”
Anh ta giải thích rằng thành phố này đầy rẫy những người đến từ khắp mọi tỉnh thành, họ muốn thành lập khu sinh sống riêng cho thị tộc của họ, và mỗi một thị tộc đều có đặc trưng riêng biệt. Quận này khá khác biệt với quận khác, nhưng riêng tộc Meurasi sở hữu đầy đủ mọi biểu trưng của người Venda. Nhiệt huyết, bền bỉ, kiên định. Họ tôn vinh những phương cách cổ xưa mà những người khác đã lãng quên, nhưng ở họ, lời hứa về lòng trung thành là quan trọng hơn tất cả.
“Họ sẽ mặc quần áo của riêng họ, ngay cả khi họ phải ghép những miếng vải vụn lại với nhau mới thực hiện được. Mọi người đều đóng góp những gì họ có thể. Dòng máu của họ xa xưa tới nay đều kế thừa từ đứa con duy nhất mà Phu nhân Venda sinh ra.
Komizar đầu tiên đã tái hôn sau khi phu nhân ra đi và có nhiều con với những người vợ khác, nhưng chỉ có với phu nhân Venda một đứa con duy nhất, Meuras. Vì vậy, vâng, thật vinh dự cho bất kỳ ai được chào đón bởi tộc này, nhưng vinh dự đó lại thuộc về một tù nhân...” Anh ta lắc đầu như thể cố gắng tìm ra điều đó rồi nhìn tôi. “Vẫn chưa hết đâu. Cô có nói gì với Effiera trong lều không?”
Tôi nhớ lại vẻ mặt của cô ấy khi Aster nói với cô ấy tên của tôi, và sau đó là những tiếng thì thầm khẽ khàng khi tôi cởi áo và khi họ nhìn thấy hình kavah trên vai tôi. Những phương cách cổ xưa. Liệu người Meurasi có lưu truyền những lời lảm nhảm của một phụ nữ điên không? Một cái tên đẹp, Yvet đã nói vậy. Có lẽ còn nhiều ý nghĩa hơn thế nữa, nhưng trước phản ứng của Hội đồng đối với sự chào đón dành cho tôi và cả sự phản đối rõ ràng của Kaden, tôi quyết định giữ lại quân bài này trong lòng vào lúc này đã.
“Không,” tôi nói. “Chúng tôi chỉ nói về trang phục.”
Anh ta nhìn tôi cảnh giác. “Hãy cẩn thận. Đừng kích động họ, Lia.”
“Tôi đã nghe anh nói thế ngay từ đầu.”
“Tôi không nghĩ là cô đã nghe hiểu đâu.”
Tôi nhảy dựng lên. “Tại sao mấy chuyện này lại thành ra lỗi của tôi?” Tôi hét lên. “Anh là người đã đưa tôi đến Jehendra ngay cả khi tôi nói tôi không cần trang phục! Tôi đã mua một thứ, và họ lại mang đến cho tôi một thứ khác. Liệu tôi có nên xúc phạm họ bằng cách từ chối đống đồ không, tôi chắc là tôi cũng sẽ bị khiển trách nếu đã làm thế! Và tối nay, tôi đâu có xin được hát lời nguyện tôn vinh sự hy sinh đâu? Không hề! Calantha gí đĩa xương vào mặt tôi. Tôi phải làm gì đây? Có chuyện gì tôi làm mà anh từng coi là đúng đắn trong mắt mình chưa?”
Anh ta thở dài và dựng gối lên, đứng dậy. “Cô đúng. Tôi xin lỗi. Cô đã không cầu xin bất cứ điều gì. Chỉ tại tôi mệt mỏi thôi. Thật là một ngày dài.”
Cơn giận của tôi lắng xuống. Có lẽ, nó chỉ là một trong những kỹ năng đã qua huấn luyện của Assassin: không để lộ tâm từ, Kaden chưa bao giờ biết mệt mỏi là gì. Anh ta luôn luôn tỉnh táo và sẵn sàng, có điều, lúc này, cơn mệt mỏi của anh ta quá rõ ràng.
Tôi co chân lên trên thành giường để tháo giày. “Anh đã ở đâu cả ngày nay.”
“Làm nhiệm vụ. Tham gia nhiệm vụ với tư cách Keep.”
Nhiệm vụ nào có thể hại anh ta thành ra thảm như thế này nhỉ? Hoặc, có lẽ anh ta không được khỏe chăng? Anh ta chộp lấy cái chăn trên ngực và kéo chúng tới chỗ tấm thảm lông.
“Tối nay tôi sẽ ngủ trên thảm.” Tôi đề nghị.
“Không. Tôi không phiền chuyện đó.”
Anh ta cởi bỏ áo sơ mi. Những vết sẹo của anh ta luôn luôn khiến tôi sững sờ, bất kể tôi đã trông thấy chúng bao nhiêu lần. Chúng là những lời nhắc nhở khắc nghiệt về chuyện thế giới mà anh ta đang sống bạo tàn đến thế nào. Anh ta thổi tắt đèn, và ngay khi tôi đã thay đồ xong, anh ta thổi tắt cả nến nữa. Đêm nay, ngay cả những cái bóng khiêu vũ để ru tôi vào giấc ngủ cũng không có nốt.
Đã yên lặng một lúc lâu, tôi tưởng anh ta đã ngủ ngon rồi thì anh ta cất tiếng hỏi, “Cô có làm gì khác hôm nay không?”
Trí óc của anh ta vẫn chưa đủ mệt và vẫn bị những câu hỏi khuấy đảo. Có phải anh ta nghi ngờ gì không nhỉ? “Anh nói ‘khác’ là ý gì?
“Chỉ là băn khoăn cô đã làm gì cả ngày. Ngoài cái việc trèo ra ngoài cửa sổ.”
“Không làm gì,” tôi thì thào. “Cũng là một ngày thật dài đối với tôi.”
Ngày tiếp theo, khi Kaden phải ra ngoài, anh ta cử Eben tới bầu bạn với tôi nhưng tôi biết đó chỉ là một kế giúp anh ta để mắt đến tôi. Eben sẽ canh chừng tôi, chỉ như khi thằng bé ở trên đồng cỏ du mục cùng với tôi - ngoại trừ, giữa chúng tôi, bây giờ, mọi thứ đã khác rồi. Nó vẫn là Rahtan tập sự, nhưng giờ có một điều sai lầm trong lập luận và một sự dịu dàng chưa từng có trước đây trong đôi mắt của nó.
Có thể, đó là vì tôi đã giải thoát cho nó khỏi gánh nặng phải tự tay giết con ngựa của chính mình. Có lẽ lời thì thầm công nhận cái tên Spirit của tôi đã khiến cho nó mở lòng về chuyện gì đó vốn được giấu kín. Chỉ một chút. Hoặc có thể là do chúng tôi đã có chung một nỗi đau: chứng kiến người thân yêu của mình bị tàn sát ngay trước mắt.
Theo lệnh của Kaden, Eben được phép đưa tôi ra ngoài phòng, nhưng không ra khỏi Tòa Sanctum, không tới cánh này hoặc tòa tháp nọ, chỉ được lui tới hạn hẹp trong một phạm vi chỉ định. “Vì sự an toàn của chính cô,” Kade đã nói thế khi tôi ném cho anh ta một cái nhìn trừng trừng đầy băn khoăn. Thực ra, tôi biết anh ta đang cố gắng giữ tôi tránh khỏi đường đi của Malich hoặc của một số thành viên Hội đồng. Cho đến cuối bữa ăn tối qua, rõ ràng, sự chống đối vẫn dâng cao, và tăng thêm, trong đó một số ít là bởi sự chào đón mà tôi nhận được, nhưng Hội đồng thống nhất, giờ đây, có vẻ như đã chia thành hai phe, những kẻ hiếu kỳ và những kẻ thù ghét.
Eben đưa tôi đi theo đường vòng tới một bãi giữ ngựa nằm phía sau Cánh Hội Đồng. Một con ngựa con mới sinh ra trong lúc thằng bé đi xa. Chúng tôi quan sát con ngựa non có bốn chân khẳng khiu như cái que đang nhộn nhạo trong một cái quây nhốt gia súc nhỏ, nhảy lên vô cùng sung sướng vì đã thử và tự đứng lên trên đôi chân của mình một cách thành công. Eben giữ thăng bằng trên thanh rào bãi giữ ngựa, cố nén một nụ cười.
“Ngươi sẽ đặt tên gì cho nó?” Tôi hỏi.
“Nó không thuộc về tôi. Chẳng muốn nó chút nào. Quá nhiều rắc rối khi huấn luyện.” Đôi mắt thằng bé lấp loáng những nỗi đau mà nó vẫn hằng mang theo, và tuổi đời non dại khiến sự phủ nhận của nó trở nên khiên cưỡng.
Tôi thở dài. “Ta không trách ngươi. Thật khó để gắn bó với một thứ gì khác sau khi...” Tôi bỏ lửng suy nghĩ trong mông lung. “Dẫu vậy, con ngựa thật đẹp, nhưng phải có ai đó huấn luyện nó. Tuy nhiên, có khả năng những người huấn luyện giỏi việc đó hơn ngươi.”
“Tôi cũng giỏi như bất kỳ người coi sóc ngựa nhiều tuổi nào. Spirit biết phải làm gì chỉ với một cú huých bằng đầu gối của tôi. Nó...” Cằm thằng bé hếch lên và rồi, với giọng trầm lắng, nó nói thêm, “Cha tôi đã tặng nó cho tôi.”
Và giờ tôi đã biết nỗi đau mà Eben phải chịu đựng sâu sắc thực sự đến đâu. Spirit không chỉ là một con ngựa bình thường.
Eben chưa bao giờ nhắc tới cha mẹ mình. Nếu Kade không nói với tôi rằng Eben đã chứng kiến họ bị tàn sát, tôi đã nghĩ rằng hẳn nó được một con quái thú nào đó sinh ra và thả xuống trái đất với đầy đủ quần áo và vũ khí như một tên lính Venda bé nhỏ.
Tôi hiểu cái hố mà Eben đã rơi vào, và chiều sâu gớm ghiếc của cái hố đó mà cho dù có muốn giả vờ như nó không ở đó đến thế nào, cái miệng đen ngòm của nó vẫn cứ nuốt chửng con người ta hết lần này đến lần khác.
Thằng bé thôi hẳn việc nhắc đến cha mình một cách thuần thục, gỡ tóc dính vào mắt, và nhảy xuống khỏi thanh rào.
“Chúng ta nên quay về,” Eben nói.
Tôi muốn nói điều gì đó có vẻ thấu tường, điều gì đó an ủi để xoa dịu nỗi đau của thằng bé nhưng tôi vẫn đang ở trong cái hố sâu của chính mình. Chỉ có vài từ được thốt ra, “Cảm ơn về chuyện đôi giày của ta, Eben. Chúng có ý nghĩa với ta nhiều hơn ngươi có thể tưởng tượng ra.”
Nó gật đầu. “Tôi làm sạch chúng nữa đó.”
Tôi băn khoăn liệu có phải cũng giống như Griz, hành động này chỉ đơn thuần là trả cho xong nợ.
“Ngươi không nợ gì ta hết, Eben. Chuyện ta làm với con ngựa là vì ta nhiều hơn vì ngươi.”
“Tôi biết điều đó rồi,” nó nói và vội vã đi trước tôi.
Chúng tôi đi bộ quay về, song lại đi theo một đường hầm khác, nhưng giờ tôi đã nhớ đường đi tốt hơn rồi, và tôi đang dần nắm bắt được mô hình của bố cục kiến trúc hỗn loạn nơi đây. Các đại lộ nhỏ, đường hầm và các tòa nhà tỏa ra từ những cấu trúc lớn hơn của nó. Cứ như thể nhiều công trình kiến trúc lớn trong thành phố cổ đại này đã dần dần đan kết với nhau, tựa một con vật thô lỗ mọc thêm tay, chân và mắt không theo một quy tắc thẩm mỹ nào, chỉ để phục vụ nhu cầu tức thời. Tòa Sanctum là trái tim của con thú, và những hang động ẩn bên dưới là bộ lông của nó. Không ai từng nhắc đến những điều gì đang khuấy động bên dưới nền Tòa Sanctum, và tôi chưa bao giờ nhìn thấy những người mặc áo choàng trong các bữa ăn. Họ chỉ ở đúng chỗ của họ.
Khi chúng tôi bước tới hành lang cuối cùng, dẫn về phòng của Kaden, tôi hỏi, “Eben, những hang động bên dưới là gì? Aster có nhắc đến chúng với tôi.”
“Cô nói hầm ngầm à? Hang Ma Cà Rồng, Finch gọi thế. Đừng xuống đó. Chúng chỉ có không khí bí bách, sách vở cũ kĩ, và những linh hồn đen tối.”
Tôi cố nén cười. Nó gần giống với mô tả mà tôi đã từng nói về thư viện lưu trữ ở Civica, chỉ khác là ở đó, những linh hồn đen tối là các học giả của Civica.
✽ ✽ ✽
VÀI NGÀY TIẾP THEO TRÔI QUA GIỐNG NHƯ NHỮNG NGÀY TRƯỚC ĐÓ, NHƯNG MỖI NGÀY đều ngắn hơn ngày hôm trước. Tôi đã biết rằng thời gian luôn giở trò khi con người ta mong nó dài ra. Mỗi một ngày trôi qua mà không có tin tức gì về người của Rafe, tôi lại biết rằng các kỵ sĩ Venda có thể đã tiếp cận gần hơn chút nữa với nguồn tin cho rằng Đức vua Dalbreck vẫn tráng kiện và nhiệt huyết - bản án tử dành cho Rafe. Ít nhất, Komizar cũng vẫn vắng mặt trong hơn hai tuần nữa. Chuyến đi vớt vát lại cho chúng tôi thêm ít thời gian có lợi để người của Rafe tìm tới nơi. Tôi cố gắng bám vào hy vọng đó, mong mỏi điều tốt lành cho Rafe nhưng tình hình cho thấy, lúc này, rõ ràng là nên tìm một lối thoát riêng cho hai chúng tôi.
Thời tiết ngày càng lạnh, một cơn mưa đá khác giội ướt cả thành phố. Bất chấp giá lạnh, mỗi ngày tôi đều trèo ra ngoài cửa sổ, ngồi trên bức tường và hát lời tưởng nhớ Thánh, tìm kiếm từ họ giống như lật tung đống giấy tờ để tìm ra câu trả lời, bám chắc lấy những manh mối hé lộ dù chỉ một tia sáng sự thật. Mỗi một ngày, lại có một nhóm lớn hơn tụ tập và lắng nghe, một tá, hai tá, và đông hơn nữa. Phần nhiều là trẻ con. Một ngày nọ, Aster gia nhập đám đông và cô bé đề nghị tôi kể một câu chuyện. Tôi bắt đầu với truyền thuyết về Vương quốc Morrighan, cô gái được Thánh thần dẫn dắt tới một vùng đất trù phú, rồi kể câu chuyện về sự ra đời của hai vương quốc nhỏ hơn, Gastineux và Cortenai. Mọi kiến thức lịch sử và các văn tự mà tôi nghiên cứu trong nhiều năm giờ đều biến thành những câu chuyện để mê hoặc bọn họ. Bọn họ cũng khao khát những câu chuyện như Eben và Natiya đã từng khi chúng tôi ngồi quanh đống lửa trại - những câu chuyện về những con người khác, những vùng đất khác, những thời đại khác.
Những giây phút này ít nhất cũng cho tôi điều gì đó để mong đợi, bởi vì không có một cơ hội nào để nói chuyện riêng với Rafe. Ngay cả khi Kaden bỏ tôi lại một mình trong căn phòng đã khóa chặt, và tôi lẻn ra ngoài được, thì tôi cũng phát hiện ra bây giờ lính gác cũng đã được bố trí ở bên dưới cửa sổ phòng Rafe rồi, gần như thể họ biết rằng anh ấy không thể chui ra ngoài qua khung cửa sổ hẹp nhưng ai đó nhỏ nhắn hơn có thể chui vào trong. Bữa tối cũng không cho tôi thêm chút cơ hội gặp gỡ riêng tư nào, nỗi tuyệt vọng của tôi lớn dần. Tại đây, trong Tòa Sanctum này, chúng tôi có lẽ vẫn cách trở nhau tới cả một lục địa mênh mông. Tôi đã suy diễn những giấc mơ liên miên của mình đến mức trầm trọng hóa tình thế. Tôi đã mơ một giấc mơ khác nữa và thấy Rafe đang rời đi, nhưng thêm nhiều chi tiết hơn trước kia. Anh ấy mặc phục trang mà tôi chưa từng nhìn thấy, Rafe, một chiến binh mang dáng vóc khiến người khác phải nể sợ. Vẻ mặt của anh ấy rất dữ dội và bạo liệt, và anh ấy đeo gươm ở cả hai bên sườn.
✽ ✽ ✽
BUỔI TỐI Ở SẢNH SANCTUM THẬT LÀ DÀI VÀ KHÓ CHỊU, không khác gì trong cung điện Morrighan, nhưng ồn ã, tục tằn và có vẻ như luôn luôn ở trên bờ vực của sự hỗn loạn. Nghi thức ca ngợi sự hy sinh mang đến một khoảnh khắc yên lặng đáng hiếu kỳ, đối lập hoàn toàn với các hoạt động xô bồ của họ. Tôi đã biết tên của toàn bộ Hội đồng - các thống đốc, các tướng lĩnh - Chievdar và các cận vệ thân tín - Rahtan, mặc dù tên của nhiều người trong số đọc lên gần giống nhau. Gorthan, Gurtan, Gunthur. Mekel, Malich, Alick. Riêng tên của Kaden dường như không giống chút nào với tên của ai khác. Tên Chievdar mà tôi đã đụng độ trong thung lũng, Stavik, là một người cực kỳ gắt gỏng nhưng hóa ra lại là người lễ độ nhất trong số năm tướng lĩnh quân đội.
Các thống đốc là những người dễ bắt chuyện nhất. Hầu hết đều vui mừng được ở tại Tòa Sanctum thay vì ở quê nhà hoang tàn - nơi họ đã ra đi và tới đây, điều đó có lẽ đã khiến tâm tính của họ dễ chịu hơn. Ba cận vệ thân tín (Rahtan) đi vắng, nhưng bốn người có mặt khác cùng với Kaden, Griz, và Malich cho đến thời điểm này, đều là những người có sức mạnh áp đảo Hội đồng mạnh mẽ nhất. Jorik và Darius là những người đã đứng lên và rút gươm ra cùng Malich khi họ trông thấy tôi mặc chiếc váy của thị tộc, còn hai người khác, Theron và Gurtan dường như luôn trưng ra nụ cười chế nhạo như một lớp màu vẽ chiến trận trên mặt. Tôi hình dung ra họ là những người chắc có lẽ sẽ được Komizar cử đi hoàn thành cái nhiệm vụ mà Kaden đã thất bại - và tôi không nghi ngờ gì chuyện họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ không nương tay. Họ sở hữu phẩm chất của một Rahtan thực thụ. Không bao giờ thất bại. Thật khó khăn để tôi có thể chấp nhận rằng Kaden đã cứu mạng tôi theo một cách nào đó, bằng cách đưa tôi đến đây.
Mỗi buổi tối, sau bữa ăn, Hội đồng đều say sưa với các các trò chơi có đá hoặc bài, hoặc đơn giản là họ uống rượu thâu đêm. Rượu nho chính vụ quý giá của Morrighan bị tu ừng ực như một loại bia rẻ tiền. Tôi thấy các trò chơi dùng đá thật xa lạ, nhưng những trò dùng bài thì tôi có biết. Tôi nhớ lại lời khuyên hàng đầu của anh Walther: Đôi khi thắng cuộc không chỉ phụ thuộc vào chuyện nắm rõ luật chơi, mà còn phụ thuộc vào việc khiến cho địch thủ của mình chủ quan tưởng rằng hắn biết rõ người chơi hơn thực tế. Tôi quan sát từ phía xa, phân tích từng sắc thái và nét tương đồng của trò chơi mà tôi đã từng chơi với các anh trai và bạn bè của họ. Tối nay, đặt cược cho một trò đặc biệt tăng lên, các chồng cọc xếp cao với số lượng lớn ngay trước mặt Malich. Tôi nhìn vẻ mặt dương dương tự đắc của hắn ta chẳng khác nào một con gà trống được thả rông trong sân chăn nuôi gia cầm, chính là nụ cười tự mãn khi trước lúc hắn ta nói với tôi rằng giết chết chị Greta thật dễ dàng.
Tôi đứng lên và đi quanh những người chơi. Tôi quyết định rằng tôi cũng đang cần giải trí.