Chương 33
TÔI CỐ GẮNG NGỪNG ĐẾM NGÀY NHƯ RAFE ĐÃ BẢO, nhưng cứ mỗi ngày mà Komizar đưa tôi ra ngoài, tới một quận khác, tôi biết số ngày còn lại của chúng tôi lại bị trừ đi một ngày. Cuộc viếng thăm của chúng tôi rất nhanh chóng, vừa đủ lâu để cho những người có tuổi, hoặc quận trưởng quận đó, hay những người tụ tập xung quanh nhận ra sự hiện diện của tôi và gieo hạt mầm hy vọng của hắn ta vào trong những tâm tưởng mê tín. Là một người rất ít kiên nhẫn với dối trá, nhưng hắn lại thoải mái gieo rắc những câu chuyện hoang đường về sự hiện diện của tôi tại đây như vốc một nắm hạt giống vãi ra cho gió cuốn đi. Thánh thần phù hộ Venda.
Thật kỳ lạ, giữa hai chúng tôi đã thiết lập một trạng thái ôn hòa. Giống như khiêu vũ với một kẻ địch lạ mặt. Theo từng bước nhảy, hắn có được thứ hắn muốn, sự dâng hiến nồng nhiệt hơn của các bộ tộc và cư dân vùng đồi, và tôi cũng có được thứ tôi muốn nữa, mặc dù tôi không thể đặt tên cho điều đó.
Đúng là một sức hút kỳ lạ theo những phương thức và vào những thời điểm không ngờ tới - tia lấp lóa của mặt trời, một bóng râm, một con gà trống đuổi theo một con gà mái thả rông dọc theo hành lang, khói vương trong không khí, một cốc trà cỏ Thannis ngọt, không khí mát lành buổi sáng, một nụ cười móm mém, dư âm của tiếng nguyện Paviamma vọng lại tới tôi, những sọc sẫm màu trên bầu trời khi tôi hát lời tưởng nhớ Thánh lúc chiều hôm. Chúng đều là những khoảnh khắc rời rạc chẳng làm nên một ý nghĩa gì, nhưng giờ chúng bám lấy tôi tựa những ngón tay đan vào với ngón tay tôi và kéo tôi về phía trước.
Cái lợi của việc Kaden đi vắng đó là, tôi được tự tung tự tác vào ban đêm. Trong lúc thu xếp gấp rút trước khi ra đi, Kaden chỉ kịp bảo Aster hãy tới và hộ tống tôi tới phòng tắm nếu tôi yêu cầu, cũng như giúp đỡ tôi nếu tôi có các nhu cầu cá nhân, nhưng anh ta không quy định rõ các nhu cầu đó có thể là những nhu cầu nào. Tôi bảo đảm với cô bé, yêu cầu vào ban đêm của tôi là một trong những nhu cầu được nhắc tới đó. Hóa ra là cô bé thích thú khi đồng lõa cùng tôi. Tòa Sanctum ấm áp hơn nhiều so với căn nhà tồi tàn mà cô bé sống chung cùng bố và các anh chị em họ. Tôi đã hỏi xem liệu cô bé có biết con đường nào dẫn tới hầm mộ mà không cần đi qua hành lang chính không. Đôi mắt cô bé mở to ra. “Chị muốn tới Hang Ma Cà Rồng ư?” Rõ ràng Eben và Finch không phải là những người duy nhất dùng cái tên đó cho hầm mộ.
Griz đã đúng. Con nhím nhỏ này biết mọi ngõ ngách chuột chạy trong Tòa Sanctum - và trong này, có rất nhiều lối đi như thế. Bước vào một trong những lối đi đó, tôi phải chống tay và khuỵu gối để bò qua. Khi chúng tôi đi qua một lối khác, tôi nghe một tiếng rống từ xa.
“Gì vậy?” tôi thì thào.
“Chúng ta không muốn đi đường này đâu,” cô bé nói. “Đường hầm này dẫn đến chân vách đá. Không có gì ngoài đó, trừ dòng sông, rất nhiều tảng đá ướt, cùng cơ cấu truyền động của cây cầu.” Cô bé dẫn tôi đi xuống một lối đi ngược lại, nhưng tôi đã lưu ý lối đi này. Một lối đi dẫn tới cây cầu, mặc dù, nâng cây cầu vẫn là điều không thể nhưng, nó vẫn là điều gì đó mà tôi muốn khám phá.
Cuối cùng chúng tôi cũng chui vào một cái đường hầm rộng hơn tựa như hang động, mùi dầu ngọt quen thuộc và không khí bụi bặm chào đón chúng tôi. Tôi đã nghĩ, vào giờ này, nó hẳn phải vắng tanh, nhưng chúng tôi nghe tiếng bước chân. Chúng tôi náu mình trong bóng tối, và khi những người mặc áo choàng sậm màu lướt qua như con thoi, chúng tôi bám theo ở một khoảng cách an toàn. Bây giờ, tôi đã hiểu tại sao nơi này lại được gọi là Hang Ma Cà Rồng. Những bức tường không chỉ được dựng lên từ tàn tích vụn vỡ. Xương và sọ người rải lót thành đường, cả ngàn người thiên cổ đang ôm lấy Tòa Sanctum, sẵn sàng thì thầm những bí mật của họ - những bí mật mà Aster không muốn nghe thấy. Khi cô bé nhìn thấy họ và thở dốc, tôi phải bịt tay vào miệng con bé và gật đầu trấn an. “Họ không thể làm tổn thương em.” Tôi nói, mặc dù bản thân tôi cũng không chắc lắm. Những hốc mắt trống rỗng của họ đăm đăm đeo bám theo gót chân của chúng tôi.
Lối đi hẹp dẫn tới một con dốc thẳng đứng xuôi xuống một căn phòng khổng lồ, một lối đi chứa đựng nền nghệ thuật và kiến trúc của thời đại khác, và tôi đoán rằng có lẽ nó có từ thời Cổ đại. Ở sâu trong lòng đất và có lẽ bị phong ấn tới hàng thế kỷ, nó được phục dựng tốt một cách đáng kể và cả những gì hàm chứa bên trong nó cũng vậy. Nó không giống bất kỳ căn phòng nào mà tràn ngập đây đó toàn sách, đến mức có thể khiến Học giả Hoàng gia xây xẩm mặt mày - căn phòng này là mô hình thu nhỏ của các thư viện của ông ta ghép lại cùng nhau. Ở phía xa cuối phòng, tôi thấy những người mặc áo choàng đang phân loại sách thành từng đống và đôi lúc ném một cuốn vào đống thải loại. Vài núi sách như thế rải rác khắp căn phòng. Khuất khỏi tầm nhìn một chút là một lối đi rộng mở dưới mái vòm, dẫn sang một căn phòng khác bên ngoài phòng này. Ánh sáng tỏa ra từ đó, rực rỡ và vàng chói. Tôi có thể thấy ít nhất một dáng hình bên trong đang khom khom bên một cái bàn để viết lên một cuốn sổ cái. Đây là một phương thức tổ chức mở rộng. Những cái bóng đi qua đi lại thoắt ẩn thoắt hiện trên sàn nhà. Có những người khác nữa trong căn phòng đó. Những người đó phân loại sách ở phòng ngoài và thỉnh thoảng mang một cuốn vào. Tôi rất muốn biết họ đang làm gì và họ đang nghiên cứu loại sách gì.
“Chị muốn một cuốn à?” Aster thì thầm.
“Không,” tôi nói. “Họ sẽ phát hiện ra chúng ta mất.”
“Không phải em,” cô bé trả lời, thể hiện cho tôi thấy nó có khả năng núp lùm giỏi đến thế nào nhờ dáng vóc nhỏ bé. “Và việc này cũng không hẳn là lấy cắp, bởi vì họ đốt những cái đống này trong lò nhà bếp.”
Họ đốt chúng ư? Tôi đã tưởng tượng ra cảnh hai cuốn sách mà tôi từng lấy trộm của Học giả, đều bọc bìa da, bị đốt rụi trong lửa. Trước khi tôi có thế ngăn cản con bé. Aster lao ra ngoài, yên lặng như một cái bóng, và túm lấy một cuốn sách nhỏ trong đống thải loại. Khi con bé chạy quay lại, cái ngực nhỏ phập phồng đầy phấn khích tự hào đưa cho tôi chiến lợi phẩm. Sách được đóng khác kiểu với bất kỳ cuốn sách nào mà tôi từng thấy, xén thẳng và chặt chợm, và tôi không nhận ra thứ tiếng viết trong đó. Nếu chữ viết này bắt nguồn từ tiếng Venda thì hẳn nó phải cổ hơn bài hát về Venda mà tôi từng chuyển ngữ. Đúng lúc đó, tôi hiểu ra bọn họ đang làm gì. Họ đang chuyển ngữ sách cổ, đó là lý do mà họ cần nhiều học giả có trình độ làm việc. Tôi biết ba vương quốc khác ngoài Morrighan cũng thành lập đội học giả vô cùng uyên bác - Gastineux, quê hương của mẹ tôi; Turquoi Tra, nơi ở của các nhà sư thần bí; và Dalbreck.
Bởi vì bọn họ đã vứt bỏ cuốn sách này, tôi biết nó không quan trọng đối với họ, nhưng ít nhất, bây giờ tôi đã biết mục đích của họ ở đây là gì - giải mã một hầm mộ sách được lưu lại, những cuốn sách đã lưu lạc của Người xưa. Đối với một xã hội mà rất ít trong số sách này còn được đọc, đây là một hoạt động học thuật kỳ quặc. Trí tò mò thiêu đốt tôi, nhưng tôi đấu tranh để kiềm chế thôi thúc đối diện và chất vấn họ bởi chuyện đó sẽ tiết lộ những chuyến đi lang thang vào ban đêm của tôi, khiến Aster lâm vào tình thế nguy hiểm. Tôi kẹp cuốn sách dưới cánh tay và huých cô bé đi về phía lối đi lấy sọ người lát nền, rồi chúng tôi nhanh chóng trở về phòng của mình.
Khi chúng tôi đóng cửa lại sau lưng, cô bé cười khúc khích trong cảm giác hồi hộp sau cuộc phiêu lưu của chúng tôi cùng nhau. Cô bé hỏi liệu tôi có thể đọc cuốn sách cho nó nghe không và tôi nói không thể nào, cuốn sách viết bằng một thứ tiếng mà tôi không hiểu nổi.
“Thế còn những cuốn đó?” cô bé hỏi.
Tôi nhìn theo hướng cô bé chỉ tay. Nằm gọn gàng ngay bên cạnh giường ngủ của tôi là những cuốn sách mà tôi lấy trộm của Học giả Hoàng gia. Tôi không đặt chúng ở đó. Tôi xoay người lại, nhìn quanh căn phòng xem có kẻ đột nhập nào không. Không thấy ai cả. Ai có thể vào phòng tôi và lôi chúng ra ngoài như thế?
“Aster,” tôi nói một cách nghiêm nghị. “Em đang giỡn chị à? Có phải em lấy chúng ra đó trước khi chúng ta rời đi không?”
Nhưng chỉ liếc qua và thấy biểu lộ lo lắng của cô bé, tôi đã biết cô bé không phải là người làm việc đó. Tôi lắc đầu cốt để con bé không lo lắng. “Không sao đâu. Chị quên mất chị đã để chúng ở đó. Thôi nào,” tôi nói cùng lúc vơ lấy những cuốn sách và bỏ chúng vào trong hòm. “Chuẩn bị đi ngủ.”
Cô bé không mang theo thứ gì trừ quần áo đang mặc, thế nên tôi lục lọi để tìm một chiếc áo sơ mi khác của Kaden. Chiếc áo dài tới tận mắt cá chân con bé, và nó ghì chặt lớp vải mềm sát vào da thịt. Khi tôi chải tóc, tôi thấy cô bé đang xoa xoa cái gáy tóc ngắn của mình, mơ màng tưởng tượng gáy tóc đó mọc dài ra.
“Mái tóc đó hẳn phải khiến cho cổ và vai của chị ấm áp và trông xinh đẹp,” cô bé nói.
“Chị đoán là vậy, nhưng chị có một thứ xinh đẹp hơn nhiều có thể giúp em giữ ấm. Em có muốn thấy nó không?”
Cô bé gật đầu nồng nhiệt, thế là tôi rút chiếc khăn quàng cổ màu xanh mà Reena đã đưa cho tôi từ trong túi yên cương ra. Tôi giũ phẳng những nếp gấp, những hạt bạc kêu leng keng. Tôi choàng khăn lên đầu cô bé và quấn hai đầu khăn quanh cổ con bé. “Đó,” tôi nói, “một công chúa du mục xinh đẹp. Nó là của em đấy, Aster.”
“Của em ư?” Con bé với tay lên và sờ vào lớp vải, chạm vào các hạt bạc, miệng há hốc ngạc nhiên, và tôi cảm thấy nhói đau khi mà một cử chỉ nhỏ như vậy lại ý nghĩa rất nhiều đối với cô bé. Cô bé xứng đáng nhận được nhiều hơn những gì tôi có thể cho nó.
Chúng tôi rúc vào giường, và tôi kể lại những câu chuyện đã ghi chép trong sách Thánh văn Morrighan, những truyền thuyết về sự phát triển của vương quốc Lessers dưới sự dẫn dắt của người được chọn, những truyền thuyết về tình yêu, sự hy sinh, danh dự và chân lý, và tất cả những câu chuyện khiến tôi nhung nhớ mong mỏi quê nhà. Nến lụi dần, khi tôi nghe tiếng Aster ngáy ngủ đều đặn nhẹ nhàng, tôi thì thầm lời nguyện cầu của Reena, “Cầu thánh thần ban cho em một trái tim kiên định, một đôi mắt sắc sảo và thiên thần gác cửa nhà em.”
❖ ❖ ❖
Và Harik, chân thật, thủy chung
Mang theo Aldrid tới Morrighan,
Một người chồng xứng đáng trong mắt thánh thần,
Một người còn sót lại hân hoan.
– Sách Thánh văn Morrighan, Chương II