CHƯƠNG 11
Gibson bỏ ra hai ngày tự dối mình.
Ít ra, anh nợ ông thẩm phán điều này, bởi anh đã nhìn thẳng vào mắt ông và hứa sẽ không tham gia. Vài ngày làm bộ làm tịch, giả vờ rằng anh có thể sống với điều đó. Sống với ký ức của Hammond Birk co rúm ở lối vào căn nhà xe kéo như một chú chó sũng nước. Biết rằng ông thẩm phán sẽ chết trong căn nhà xe kéo đó. Người đã cứu vớt cuộc đời anh, đã thúc đẩy anh để anh làm việc gì đó cho riêng mình, từng là tiếng nói cảm thông và khôn ngoan trong cơn bão hỗn loạn, sẽ phải sống nốt những ngày cuối cùng trong sự thờ ơ và bẩn thỉu.
Không, anh không thể sống với điều đó.
Ý anh đúng như những gì anh đã nói với Birk và Swonger - anh không nghĩ mình có thể thành công khi mà Bộ Tư pháp đã thất bại, nhưng anh cần phải biết chắc chắn. Vậy nên vào nửa đêm ngày thứ hai, anh vùng dậy khỏi giường và lập một thư mục về Charles Merrick. Gibson không biết gì về gã cả, nhưng gã có một cái tên và một quá khứ - Gibson chỉ cần hai điều đó. Không như những kẻ hèn nhát vô danh đã lấy mất việc làm của anh ở Spectrum Protection. Có lẽ chính xác vì những vấn đề của Gibson mà bản thân anh không thể giải quyết được, Charles Merrick mới nhanh chóng trở thành mục tiêu cho mọi cuồng nộ của Gibson.
Thế là anh làm điều anh vẫn luôn làm khi suy tính một cuộc tấn công tin tặc - lẻn vào cuộc đời của Charles Merrick. Sự nổi tiếng của Merrick khiến việc đó dễ hơn so với một kẻ vô danh. Tất cả những gì đã được viết về Charles Merrick có thể lấp đầy các thư viện và Gibson đắm chìm trong việc ghi lại mọi chi tiết vụn vặt về cuộc đời người đàn ông đó: lập những từ và cụm từ khóa, lập danh sách các chi tiết cuộc đời gã, lọc dữ liệu để tìm ra các mô thức và thói quen định nghĩa Charles Merrick. Hai cuốn sách đã kể lại câu chuyện về sự suy sụp tài chính của Merrick và Gibson chọn cuốn được độc giả chấm điểm cao hơn: A Shark in Shark’s Clothing: The Rise and Fall of Merrick Capital . Anh không chắc là cuốn sách còn có thể cho anh biết thêm điều gì, vì cuộc đời người đàn ông này đã được ghi chép đầy đủ trên mạng và trên báo chí, nhưng tốt hơn là nên xem hết. Từng chút một, Gibson lập nên một thời gian biểu và bức tranh cuộc đời người đàn ông đó. Tới cuối tuần, anh đã biết rõ và đầy đủ cuộc đời của Charles Merrick.
Có lẽ việc anh phải làm lúc này là tìm một công việc. Đó hẳn là điều ông thẩm phán muốn Gibson làm. Nhưng anh đơn giản là không muốn. Giống như một người chạy bộ vừa hoàn tất cuộc marathon hành xác, để rồi phát hiện ra rằng đích đến đã bị dời đi xa hơn về phía cuối đường, anh không còn ý chí để bắt đầu lại cuộc đua lần nữa. Anh đã kiệt sức và hơn nữa, có ý nghĩa gì chứ? Ngay cả nếu anh tìm được một công việc khác, họ sẽ giật nó khỏi tay anh như họ đã làm ở Spectrum Protection. Dù cho họ có là ai.
Anh biện bạch cho quyết định của mình bằng cách tự nhủ rằng Merrick chỉ là một việc cỏn con, nếu việc đó chẳng là gì - chỉ vài tuần là xong. Rằng nó là việc anh cần làm cho ông thẩm phán. Nhưng sự thật là một khi cơn sốt adrenaline quen thuộc bùng lên, tầm nhìn của anh sẽ hẹp lại và thiển cận hơn rất nhiều. Thế giới nếu không liên quan tới Charles Merrick sẽ không còn thu hút sự chú ý của anh nữa. Ngay cả tên con gái anh, vốn luôn có thể thúc đẩy anh hành động, giờ cũng không có tác dụng. Anh lấy làm hổ thẹn vì điều đó, nhưng ngay cả sự xấu hổ đó cũng không làm anh chùn bước. Không phải là lúc này.
Gibson nhìn lên trang bìa tờ tạp chí có mặt Merrick được dính vào tường phía trên cái bàn dã chiến của anh và mỉm cười. Trong hai mươi bốn giờ qua, một chi tiết trong cuộc phỏng vấn với tờ tạp chí Finance bắt đầu khiến anh thấy khó chịu. Gibson suýt thì bỏ chi tiết đó cho tới khi YouTube cuối cùng giúp anh kết nối các điểm lại với nhau.
Trước khi bị bắt, Merrick là một diễn giả ăn khách và Gibson tìm thấy nguyên một kênh YouTube với các bài phát biểu của hắn. Người đàn ông này rất sôi nổi trước đám đông khán giả, đầy sức hút và tự phụ. Gã sẽ thành công trong chính trị. Và như một chính trị gia, Merrick có xu hướng đưa ra nhiều biến thể của một bài phát biểu. Gibson đã xem vài bài như thế, hy vọng đọc vị được gã. Giữa bài phát biểu thứ ba, anh với tay lấy tờ tạp chí và lật nó tới cuối bài phỏng vấn. Tua lại bài phát biểu, anh nghe Merrick lặp lại khẩu hiệu của gã về những đồng xu lẻ trở thành triệu đô như thế nào. Gần giống hệt. Nhưng có một khác biệt then chốt. Gibson nhấp chuột qua vài bài phát biểu - cùng một sự khác biệt trong từng bài phát biểu và trong bài báo trên Finance . Anh đọc lại dòng đó trong bài phỏng vấn. Đó là một chi tiết nhỏ, có thể là lỗi đánh máy. Một sự không nhất quán có thể chẳng là gì hay cũng có thể ám chỉ rằng tiền bạc của Charles Merrick không nằm trong két sắt ở Thụy Sĩ như mọi người đều nghĩ. Nếu linh tính của Gibson đúng, Merrick đã duy trì sự kiểm soát chặt chẽ tài sản của gã từ trong tù. Điều đó đòi hỏi một kiểu mạng lưới nào đấy. Và mạng lưới thì luôn dễ bị tấn công.
Chỉ một người biết chắc điều đó - Charles Merrick. Nhưng Lydia Malkin, phóng viên đã thực hiện cuộc phỏng vấn, hẳn cũng đã biết. Cô ở đâu, Lydia Malkin? Dậm chân đầy phấn khích, anh tra cô trên Google, mọi suy nghĩ về tìm việc đã bị lãng quên. Giờ chỉ có Merrick mà thôi.
Chỉ là Merrick không hề hay biết.
Nỗ lực hùng hổ của anh thất bại, tai anh ù đặc. Anh đã cố gắng vực dậy bản thân để làm điều mà anh không tin là khả dĩ. Hơn thế nữa, đấy là điều mà anh biết là không nên thử. Anh thực sự đuổi theo Lydia Malkin chỉ vì một từ trong cuộc phỏng vấn? Và nếu anh đúng thì sao? Rồi sao nữa? Anh sẽ tới nhà tù liên bang Niobe, bất chấp việc ông thẩm phán đã xin anh tránh xa việc này? Nếu hai gã đần kia, Birk và Swonger, giải mã được những lời kiêu căng của Merrick, thì còn bao nhiêu người khác đã đi tới kết luận tương tự? Anh sẽ theo đuổi chuyện này tới đâu?
Anh sợ rằng anh đã biết câu trả lời cho câu hỏi đó rồi. Anh nhớ lại một tấm bản đồ thế giới cũ được đóng khung treo trong văn phòng của cha anh ở Charlottesville.
Ở bên lề tấm bản đồ đó, giữa biển khơi, người làm bản đồ đã viết, bằng những chữ cái báo điềm gở, “Những con quái vật ở đây.” Anh đã hỏi cha điều đó có nghĩa gì và cha anh đã nói, Những lằn ranh mà con không thể không vượt qua, Gib. Có nghĩa là phải chắc chắn.
Cuối cùng, Gibson đã lần theo Lydia Malkin tới một địa chỉ ở Queens, New York, qua đồ ăn của cô. Cô thuộc về một nhóm người kì lạ bị ám ảnh với việc chụp hình những bữa ăn của họ ở các nhà hàng và đăng lên mạng. Gibson thực sự không hiểu, nhưng nó chắc chắn khiến việc tìm ra cô dễ dàng hơn, bởi cô cũng không buồn tắt dữ liệu định vị GPS mà điện thoại của cô lưu vào trong mỗi bức ảnh. Vấn đề chỉ là dùng phép đo tam giác xác định vị trí của cô dựa trên những nơi mà cô thường xuyên ghé. Cô gọi đồ ăn từ nhà hàng Trung Quốc New Good One ít nhất hai lần một tuần và thực sự mê món há cảo ở đó. Hóa ra nó chỉ cách một dãy nhà rưỡi từ nơi cô sống tại đại lộ Astoria; gã giao hàng hết sức sẵn lòng giúp Gibson tái hợp với “em gái” của anh với giá bốn mươi đô-la.
Anh đợi bên ngoài tòa nhà của cô hai tiếng dưới một mái hắt. Há cảo bắt đầu trở nên hấp dẫn với anh. Bên kia đường, Lydia Malkin cuối cùng cũng xuất hiện. Anh dõi theo cô băng qua đường tiến về phía anh. Ở ngoài đời, cô nhìn trẻ hơn anh nghĩ, có lẽ bởi cô chỉ cao khoảng hơn mét rưỡi, dường như lên ti-vi thì cao hơn. Kể từ khi số báo về Merrick lên sạp, cô đã trở thành một phụ nữ bận rộn. Xuất hiện trên tất cả các mạng lưới tin tức truyền hình cáp lớn, những cuộc phỏng vấn trong đó cô đã làm tròn bổn phận của mình. Nhưng trong khi anh ấn tượng bởi việc cô tỏ ra tự tin thế nào trước máy quay, cô đã không trả lời câu hỏi mà anh cần câu trả lời.
Anh cảm thấy hơi giống một kẻ rình mò khi lần theo cô thế này. Anh không thích cách này, nhưng những nỗ lực liên lạc với cô bằng các phương pháp phổ thông đã không nhận được phản hồi. Dễ hiểu thôi. Vận của cô đang lên và anh là ai chứ? Nhưng anh cần những câu trả lời và không có thời gian cho những phép xã giao thông thường. Merrick sắp ra tù và Gibson cảm thấy anh đã chậm chân. Hy vọng rằng giá một tấm vé khứ hồi tới Thành phố New York sẽ giúp anh nhảy cóc ra tuyến đầu.
Chuyến tàu Amtrak bảy giờ sáng từ nhà ga Union đã cho phép anh tiếp tục nghiên cứu thông tin về Charles Merrick. Và luôn có thêm những thông tin mới để cập nhật. Mức độ quan tâm của báo chí tới Merrick thật đáng kinh ngạc, ngay cả trước khi gã bị bắt. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Merrick là một nhân vật có những câu trả lời phỏng vấn rất dễ trích dẫn. Thẳng thắn tới mức liều lĩnh, gã thích gây chuyện và có vẻ hoàn toàn không e dè truyền thông. Có một sự khoa trương mang tính chiến thuật trong cách Merrick nói chuyện với đám phóng viên.
Đó là một từ hay. Gibson đã ngừng đọc và gõ từ “khoa trương” vào tập hồ sơ về Merrick mà anh đã tạo ra. Nghiên cứu là hòn đá tảng cho bất cứ cuộc tấn công mạng thành công nào. Biết rõ mục tiêu của bạn còn hơn họ biết chính bản thân mình: các thói quen, tên giáo viên tiếng Anh ở trường cấp ba, con phố mà họ đã lớn lên, ngày sinh của con cái họ. Gibson tập hợp tất cả, vì bạn không bao giờ biết thứ gì sẽ là chìa khóa mở ra an ninh cá nhân của một người. Thông tin, trải nghiệm cá nhân thường là hướng tấn công đầu tiên đối với an ninh cá nhân. Bất chấp những lời kêu gào cảnh báo của các chuyên gia an ninh, người ta vẫn tin rằng những ký ức của họ là riêng tư. Không hề. Cả một thế hệ đang tiện thể tập hợp cả lịch sử của bản thân trên các trang mạng xã hội. Tiện thể cho những người như Gibson Vaughn.
Xuất thân của Charles Merrick có vẻ đầy đặc quyền đặc lợi một cách điển hình. Gã tự nhận là người tay trắng làm nên, nhưng Gibson không biết bằng cách nào để một kẻ tay trắng lại lớn lên ở một khu dân cư kín cổng cao tường giàu có tại Connecticut. Theo bảng điểm của gã, Merrick đã dễ dàng vượt qua một nền giáo dục tinh hoa, học cấp ba ở Groton - một trường nội trú ở Massachusetts, tiếp theo là một bằng cử nhân chuyên ngành lịch sử ở Dartmouth và thạc sĩ ở Wharton. Tại đó gã đã gặp người vợ cũ tương lai của gã, Veronica Barrett- Hong, có dòng dõi gia đình kết hợp giữa WASP và người Hoa đã sinh ra một người luôn làm việc và phấn đấu không ngừng nghỉ. Không như Merrick, Veronica tốt nghiệp thủ khoa ở Wharton, kèm theo bằng cử nhân kinh tế học ở Yale. Họ kết hôn vào mùa hè trước khi bắt đầu làm việc tại Phố Wall và Veronica vẫn luôn là người gây ấn tượng hơn, nên việc Charles Merrick tuyên bố thành lập Quỹ Merrick Capital là điều khá bất ngờ, trong khi Veronica rút lui về vai trò người chỉ chuyên lo giao thiệp và làm mẹ. Họ là một cặp không có đối thủ và khi mà Merrick Capital thành công vang dội vào cuối những năm chín mươi, họ cùng nhau nổi lên - những ngôi sao của New York với một căn nhà nhìn ra công viên trung tâm, một căn nhà vườn thoáng mát ở Southampton, một căn hộ lộng lẫy ở Île de la Cité tại Paris và ở London họ cũng có một căn nhà tại Kensington.
Sau khi bị bắt, Charles và Veronica Merrick đã trải qua một cuộc ly dị xấu xí và ầm ĩ ở New York. Veronical Merrick không hề thích vị thế xã hội mới, trở thành tầng lớp ngoài lề của xã hội. Cô trả thù bằng cách đem chút ít danh dự còn sót lại của chồng, reo rắc tro tàn khắp các trang báo rẻ tiền ở New York. Liên tục là những dòng tin đồn thổi vô căn cứ về việc lạm dụng chất gây nghiện, ngoại tình và bạo hành gia đình tuôn ra từ những nguồn tin giấu tên trong lúc cuộc ly dị bị lôi lên tòa án. Mất vài năm để Bộ Tư pháp phân xử xem liệu có còn lại chút tài sản nào để Veronica Merrick đòi hay không. Rốt cuộc, cô ra đi mà gần như trắng tay. Trước vụ bắt giữ, tài sản của gia đình Merrick ước tính đến hàng tỉ. Veronica Merrick còn chút tiền cha mẹ để lại cho cô, nhưng không phải là quá lời khi nói rằng mức sống của cô đã lao dốc thẳng đứng so với cuộc đời ngay trước đó.
Hiện giờ, Veronica Merrick sống ở Miami, trong một căn chung cư một phòng ngủ cho thuê, theo tin tức từ một số bài báo thích thú với việc miêu tả lối sống tẻ nhạt của cô. Nước Mỹ thật sự ưa thích màn trừng phạt hay ho. Không còn chút yêu thương nào giữa đôi vợ chồng cũ và ở thời điểm này, cô có lẽ sẽ đâm vào ngõ cụt nếu muốn tìm cách làm tan nát Charles Merrick. Merrick có vẻ là kiểu người sẽ ăn mừng chiến thắng và xóa bỏ những thất bại của gã. Trong khi Veronica Merrick rơi xuống hạng mục sau cùng.
Nhà Merrick có một con gái, Chelsea Merrick. Không như mẹ, Chelsea có vẻ đầy hứa hẹn. Cô con gái đã theo bước cha tới trường Groton và được nhận vào trường Brown. Bài luận văn đại học của cô bị rò rỉ trên Gawker.com, là một bài tụng ca đáng yêu dành cho cha cô. Những bức hình cha-con đã khắc họa một Merrick hết sức đáng yêu và Gibson thấy gã nhiều lần đề cập đến con gái trong các cuộc phỏng vấn. Cô là một cô gái xinh đẹp, thừa kế những nét đẹp nhất của cả cha lẫn mẹ. Dáng người mảnh dẻ thừa hưởng từ mẹ, đôi mắt cùng mái tóc dài vàng óng lộng lẫy của cha, thả dọc sống lưng. Quỹ đầu tư thứ ba của gã được đặt tên là “Chelsea” để vinh danh cô.
Trong phiên tòa, tài sản của gã bị phong tỏa, Merrick đã lặng lẽ rút hết tiền từ quỹ tín thác của con gái để trả chi phí pháp lý. Chelsea Merrick không bao giờ vào học ở Brown và đi về miền Tây để tìm lại chính mình, từ bỏ New York trước khi nó từ bỏ cô. Cô làm bồi bàn một thời gian ngắn ở một khu nghỉ dưỡng trượt tuyết tại Colorado trước khi chuyển tới Oregon. Gibson tìm thấy bảng điểm của cô ở Đại học Portland, một tập hợp lộn xộn các lớp khác nhau, nhưng không có bằng cấp gì. Sau đó, một giai đoạn nhảy việc lung tung khắp vùng Portland và quanh đó cho đến khi cô biến mất. Gibson đã quyết định sẽ tiếp tục tìm hiểu; ký ức về cô con gái thân yêu sẽ là điều Charles Merrick bám víu trong nhà tù.
Ngay khi bước ra khỏi bóng râm, Gibson đeo kính vào.
Đó là một ngày đẹp trời, không mây và Lydia Malkin đang đi nhanh dọc đại lộ Astoria. Cô đi rất nhiều và nhanh đối với một người có chiều cao như thế và Gibson đã phải tăng tốc để bắt kịp cô, sợ sẽ mất dấu cô trên con đường tấp nập. Anh khéo léo trong việc tìm ra người, nhưng không giỏi việc đi theo họ. Thuỷ quân lục chiến đã dạy anh nhiều kỹ năng, nhưng theo đuôi một phụ nữ ở New York thì lại không.
Lydia Malkin dừng lại để nhìn thứ gì đó ở khung cửa sổ một cửa hàng. Không biết phải làm gì, Gibson vội làm theo và thấy anh đang nhìn trừng trừng một cách ngu ngốc vào cửa sổ một tiệm bán gà mang về. Khi anh liếc mắt lên, cô đã đang tăng tốc đi về phía anh. Không phải về phía anh, mà chính là anh. Khi gặp phải ánh mắt cô, anh biết mình đã bị phát hiện.
“Anh ở bên nào?” Cô hỏi.
“Sao?”
“Tôi sẽ không trả lời phỏng vấn. Tất cả phải qua đường tạp chí. Anh phải nói chuyện trực tiếp với Peter Moynihan.”
“Tôi không phải phóng viên.”
“Vậy thì sao anh đi theo tôi? Đừng nói anh là một kẻ chuyên rình mò nhé. Thế thì chán lắm,” cô nói, ra vẻ Dorothy Parker.
“Tôi cần cô giúp.”
“Chuyện gì?”
“Charles Merrick.”
Cô nói, “Ha” thay cho việc cười lớn. “Xếp hàng chờ đi.”
Anh nhìn quanh. “Tôi nghĩ tôi đang đứng ở đầu hàng đấy chứ.”
Mặt cô lộ vẻ tán thưởng câu trả lời được gọi là thông minh. “Sao tôi lại phải giúp anh?”
“Vì thiện tâm chăng?”
“Chà… Mới tới New York hả, bạn thân yêu?”
“Được rồi, vậy thì cô giúp tôi và tôi sẽ không công khai lý do thực sự cô muốn phỏng vấn Merrick?”
Câu đó khiến cô im lặng. Cô lại nhìn anh suốt một lượt lần nữa. “Anh học nhanh đấy. Tôi phải thừa nhận.” Cô kiểm tra thời gian trên một chiếc đồng hồ thể thao cỡ đại đeo ở cổ tay. “Tôi có ba mươi phút.”
“Tôi rất biết ơn.”
“Anh có thể có mười lăm phút trong đó thôi… Cho biết tên đi.”
“Ben Rizolli,” Gibson nói, tên một đứa trẻ anh biết hồi học tiểu học.
Họ vào trong một quán bar u ám cạnh đường tàu. Bên trong, họ gọi đồ uống từ tay pha chế khổng lồ râu ria nhìn họ như thể họ đi lạc đường.
“Bombay Sapphire pha cùng tonic,” Lydia nói. “Cho thêm ba lát chanh.”
“Gì cơ?” Tay pha chế hỏi.
“Gì chỗ nào?”
“Bombay ấy.”
“Anh giỡn tôi hả?”
“Không, tôi không giỡn đâu, công chúa.”
“Một ly gin với tonic.”
“Thì nói thế đi.”
“Tới vì hương vị, ở lại vì sự phục vụ nhiệt tình.” Lydia đảo mắt và để Gibson trả tiền rồi tìm một bàn ở phía sau quán bar. Gibson gọi loại bia đầu tiên anh nhìn thấy trong một dãy các loại bia tươi, trả tip hậu hĩnh và tới chỗ cô. Cô ngồi ngả ra lười biếng trên ghế, theo dõi anh và khuấy ly cocktail của mình. Anh uống hết cốc bia bằng ba hơi dài.
“Gã chết tiệt quên mấy miếng chanh của tôi.”
“Họ không có chanh.”
“Tất nhiên là họ không có,” cô nói và đổi chủ đề. “Anh biết không, anh là người đầu tiên đoán ra chuyện đó đấy.”
“Họ mất bao nhiêu?”
“Tất cả mọi thứ. Nhưng chỉ một nửa vì Merrick. Nửa kia là cho Madoff.”
“Không lý nào.”
Cô cười. “Khó tin đúng không? Cha mẹ tôi, mất hai lần. Để đa dạng hóa danh mục đầu tư, ôi mấy người đó.”
“Giờ họ đâu rồi?”
“Mẹ tôi đang cố,” cô nói, trở nên nghiêm túc. “Bà không còn khoản tiền lương hưu, nhưng bà đang cố vượt qua.”
“Còn cha cô?”
“Mẹ tôi cũng đang giúp ông ấy vượt qua.”
“Tôi rất tiếc.”
“Phải, được rồi, ta còn biết làm gì đây?”
“Đó là lý do mà cô săn đuổi Merrick hả?”
Cô gật đầu. “Không nghĩ là tôi sẽ viết được một nửa những gì tôi đã viết, nhưng gã đó có vấn đề với phụ nữ. Gã không thể kềm chế. Dù cảm thấy khá tệ, nhưng tôi chỉ đưa cho gã chiếc xẻng; gã tự đào lấy mồ. Vậy câu chuyện của anh là gì? Cha mẹ anh cũng leo lên chuyến tốc hành Merrick hả?”
“Chuyện này không phải là về cha mẹ tôi.”
“Không phải phóng viên. Không phải chuyện cá nhân. Vậy thì gì đây? Anh là thám tử tư hả?”
“Không, tôi nghĩ tôi đã khẳng định điều đó với màn theo đuôi tệ hại vừa rồi.”
“Cũng đúng.”
“Làm sao cô nhận ra tôi?”
“Tôi nhỏ con và sống ở Queens. Cả cuộc đời tôi xoay quanh việc phát hiện ra những gã đàn ông quan tâm tới tôi một cách bệnh hoạn. Tôi bắt gặp anh không nhìn tôi khi tôi bước ra khỏi căn hộ.”
“Ghê thật.”
“Anh to lớn; tôi thông minh. Đó là cơ hội duy nhất của tôi.” Cô nếm thử món đồ uống và đặt nó xuống. “Chà, thứ này thực sự là tệ nhất. Chắc là chỗ Prohibition Bathtub còn thừa đâu đó.”
“Gọi cho cô món khác nhé?”
“Không, nhưng anh có thể nói anh muốn gì từ tôi. Rốt cuộc anh là người đe dọa mà.”
“Tôi xin lỗi vì chuyện đó.”
“Anh định làm gì?” Cô lại nói rồi nhún vai. “ Finance sẽ không coi nhẹ kiểu xung đột lợi ích bí mật này. Tôi thực sự khá là ngạc nhiên vì chưa có ai gọi tôi lên vì chuyện đó. Rồi nó sẽ lộ ra thôi. Luôn là như thế. Không phải là tôi cố che giấu nó.”
“Lúc đó chuyện gì sẽ xảy ra?”
“Tùy vào việc truyền thông phản ứng ra sao. Tờ tạp chí sẽ hành động để bảo vệ danh tiếng của họ. Peter sẽ phải đình chỉ tôi. Có thể là sa thải tôi.”
“Cô không lo hả?”
“Tôi sẽ nhận đòn đó, nhưng về lâu về dài thì nó có lẽ là chuyện tốt cho sự nghiệp của tôi. Cuộc phỏng vấn Merrick đã giúp tên tôi được nhắc tới. Tận dụng nó đúng và tôi có thể bước ra như một người hùng. Cô con gái đã cho kẻ hủy hoại cha mẹ mình một đòn nhớ đời. Anh không nghĩ là câu chuyện này rất hay gặp sao?”
“Vậy tại sao cô lại nói chuyện với tôi?”
Cô nhún vai. “Chưa bao giờ bị đe dọa trước kia. Phải công nhận là anh khiến tôi tò mò. Đúng là tôi đã luôn hoang tưởng bậy bạ về việc bị đe dọa và anh dễ thương kiểu Chris Pratt. Chris Pratt đô con, chứ không phải Christ Pratt trong Parks and Rec. Không hẳn là kiểu tôi thích, nhưng tôi có thể chấp nhận. Ý tôi là nếu anh có định nói xem anh muốn gì.”
Toàn chuyện nhảm nhí, nhưng cô đang tận hưởng việc làm anh khó chịu và bất an bằng thái độ xấc xược vốn có của mình. Gibson phụ họa theo, cúi đầu xuống như thể xấu hổ, để cô cảm thấy mình kiểm soát tình thế.
“Anh đỏ mặt hả?” Cô nói. “Đừng đỏ mặt. Anh sẽ làm hỏng hết nếu đỏ mặt. Anh không thể là một kẻ tống tiền người khác mà lại dễ bị bắt nạt thế.”
“Xin lỗi.”
Cô chọc vào món đồ uống của cô bày tỏ sự thất vọng mỉa mai.
“Như người ta nói, khoảnh khắc đó qua rồi, nên anh tốt hơn là hỏi điều anh tới đây để hỏi đi.”
“Đầu tư những xu lẻ,” anh nói.
“Chuyện đó thì sao?”
“Vào cuối bài phỏng vấn, cô hỏi Merrick sẽ làm gì khi hắn ra tù. Hắn nói đừng lo về hắn, rằng hắn biết cách đầu tư những xu lẻ của hắn.”
“Và?”
“À, cách nói ‘hãy tiết kiệm từng xu.’”
“Tôi quen với cách nói đó.”
“Vậy thì thế nào? Đầu tư hay tiết kiệm?”
Cô ngồi ngả ra và nhìn anh trừng trừng. “Tại sao?”
“Chỉ là một giả thuyết tôi đang tìm hiểu.”
Cô ngồi thẳng lên. “Giả thuyết gì?”
“Không quan trọng.”
“Rõ là thế rồi,” cô nói và chờ đợi.
Anh cũng đợi. Không thể nào anh lại đi tâm sự với Lydia Malkin. Cô quá thông minh và quá tham vọng để có thể tin tưởng được.
“Anh thực sự sẽ không nói cho tôi biết hả?” Cô có vẻ tổn thương, thật ra thì không hề.
“Tôi sợ là tôi không thể.”
“Sau đó thì sao? Tôi nói với anh những gì anh muốn biết lúc này và anh kể cho tôi toàn bộ câu chuyện sau khi anh đã làm chuyện mà anh sẽ làm.”
“Cũng không được.”
“Anh thương lượng dở tệ.”
“Tôi có thể gây thương tổn cho Merrick.”
Cô mỉm cười, lộ hết răng ra và không hề cho thấy mình thực tâm muốn gì. “Thấy chưa? Có khó lắm đâu?”
Anh nhún vai. “Tôi thương lượng tệ lắm.”
“Hắn nói, ‘Đầu tư những xu lẻ của tôi.’ Và anh không cần hỏi đâu, phải, tôi chắc chắn điều đó.”
“Được rồi, câu hỏi cuối cùng. Trong cuộc phỏng vấn, cô nhắc lại những gì hắn nói, nhưng hắn nói điều đó thế nào? Thái độ của hắn chẳng hạn? Giọng điệu của hắn? Cô hiểu ý tôi không?”
“Có, tôi biết ý anh là gì. Thái độ của hắn ư? Tự mãn. Tự mãn một cách khó tin. Hắn cho thấy vẻ rất muốn nói một chuyện gì đó. Như thể có lẽ hắn đã nghĩ chuyện gì đó buồn cười nhưng lo rằng điều đó có thể khiến tôi khó chịu… Rồi hắn nói câu đấy.”
“Hiểu rồi,” anh nói giọng bình thản hết mức có thể.
Trong thâm tâm, anh đang hết sức phấn khích, nhưng không thể để cô ấy thấy. Có một cách. Cách này hay cách khác, Merrick đã quản lý tiền bạc của gã từ trong tù. Điều đó nghĩa là gã đã mở cánh cửa sau.
“Tôi hy vọng điều đó có ích,” cô nói. “Vậy… Tôi có một câu hỏi.”
“Nói đi.”
“Hai gã ở quầy bar cứ nhìn mãi về phía này. Bạn anh hả, hay tôi mặc bộ jean này xinh đẹp hơn tôi nghĩ?”
Gibson ngoái lại nhìn. Birk và Swonger đang tựa lưng vào quầy bar như thể họ đã uống ở đây nhiều năm rồi. Họ nhìn anh và gật đầu. Gibson gật đầu lại.
Chúa ơi, anh nghĩ sao họ lại bám theo anh mà anh không biết. Khi chuyện này xong, anh thật sự cần học cách bám đuôi.