← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 20

Một tấm màn thù địch còn độc hại hơn làn khói thuốc lá lơ lửng trong quán bar. Mất hơn một tiếng đồng hồ mới gọi được đồ ăn. Quán bar đông nhưng không đông tới mức phải mất mười lăm phút mới có một người mang thực đơn lại bàn. Cùng lúc đó, Gibson theo dõi người nữ bồi bàn tuổi trung niên đi tới bàn poker và nhóm các lính gác của nhà tù Niobe đang đánh bi-a những ba lần. Cuối cùng, khi chị ta mang thực đơn tới, Gibson gọi một bình bia phòng trường hợp một lúc lâu nữa chị ta mới quay lại để họ gọi món. Swonger đang khát.

“Đây là phân biệt đối xử,” Swonger càu nhàu.

“Đừng gây chuyện.” Nhưng Swonger có lý; đây không phải là quán bar thân thiện nhất.

Gibson nhìn về phía từng lính gác nhà tù, tất cả vẫn mặc đồng phục. Nghiên cứu kỹ dáng vẻ của họ và cách họ tương tác với nhau. Anh sẽ cần một cặp mắt trong nhà tù và với mức lương của các lính gác thì họ dễ bị dụ dỗ chấp nhận một khoản hối lộ nhắm đúng mục tiêu. Dẫu vậy, anh không thấy ai phù hợp. Thật may mắn, nơi này đầy những lính gác nhà tù không trong ca làm việc và có thêm vài lựa chọn nữa ở căn phòng ngoài. Anh sẽ quan sát kỹ hơn sau khi ăn xong. Chị bồi bàn đâu rồi?

Khi đồ ăn tới, họ ăn trong sự im lặng vì đói. Swonger đổ ngập tương cà chua và sốt mayo lên chiếc bánh mì kẹp của gã và ăn nó với sự cẩn trọng của một cựu tù, đầu cúi xuống và vội vã, như thể sẽ có kẻ nào đó to lớn hơn và mạnh hơn lấy mất nó. Gã bỏ qua món khoai tây chiên tới khi ngốn hết chỗ protein kia. Khi đĩa đã sạch, Swonger đẩy nó sang một bên và thọc tay vào túi lấy giấy và một cây bút chì. Đó là một danh sách và cạnh mỗi món là một con số. Swonger lướt qua các cột, lẩm bẩm khi gã cộng tổng lại, điều chỉnh và bổ sung khi cần thiết. Một nụ cười lạ lùng lướt qua mặt khi gã làm chuyện đó.

“Anh làm gì đấy?”

“Không có gì,” Swonger nói. “Anh biết đấy. Chỉ là tôi sẽ làm gì với phần chia của mình. Khoản tiền.”

Gibson quá quen thuộc với những ảo tưởng về những khoản tiền tương lai. Khi công việc ở Spectrum được cho là đã chắc ăn, anh đã mơ tưởng về đủ thứ mà anh sẽ mua. Tất cả những cách mà cuộc sống sẽ tốt hơn cho con gái anh. Nên anh hiểu thôi thúc đó, dù nó nguy hiểm, nhưng điều đó không có nghĩa là anh muốn nghe kế hoạch của Swonger độ lại chiếc Scion của gã. Nhưng, Swonger làm anh ngạc nhiên.

“Tôi đã chọn lô của mình rồi.”

“Lô?”

“Chỉ rộng 60 héc-ta, nhưng đất tốt. Tôi và ông già. Làm mọi thứ chuẩn chỉnh. Gia súc. Cừu. Đậu tương và bắp. Bán cho tất cả những nhà hàng thời thượng chuyên dùng đồ địa phương đấy. Ngon ăn lắm.”

“Một nông trại à?” Gibson nói. “Thật sao?”

“Chó chết, đó là tất cả những gì tôi muốn. Tôi đã làm việc với ông già từ khi tôi có trí nhớ. Chẳng học hành được gì, nhưng tôi biết làm nông. Tin tôi đi. Sau Merrick, tôi sẽ đưa cha mẹ mình thoát khỏi bọn nhà Birk. Làm chuyện đúng.”

Gibson nhìn gã thật kỹ và cố gắng dung hòa điều này với những gì anh đã biết về Swonger. Nhìn xuyên qua cơn giận và thấy nỗi đau mà cơn giận dữ đó bảo vệ.

Swonger cảm nhận được điều ấy. “Anh định hôn tôi đấy hả?”

Gibson lắc đầu để cho thấy anh không định gây sự. Anh muốn cách nào đấy cảnh báo Swonger nhưng không biết nên dùng từ nào có thể ngăn được niềm hy vọng của tay cựu tù.

Swonger đặt quá nhiều vào vụ Merrick vào mong muốn báo thù của gã và đồng thời cứu vãn gia đình gã. Gibson cũng biết tất cả ảo tưởng này. Anh nhận ra một điều gì đó khác mà lẽ ra anh phải nhận ra sớm hơn.

“Bao lâu?”

“Bao lâu gì?”

“Tới khi nhà Birk mất nông trại.”

“Ồ, ‘bao lâu’ đó hả. Vài tháng nữa. Ông già thậm chí chưa tìm nơi khác để sống. Cứ tàn tạ vì bọn nhà Birk, như thể sửa lại hàng rào sẽ khiến mọi chuyện khác đi ấy. Ông già làm việc cực quá, luôn luôn như thế. Nhưng ông chẳng thèm biết gì về thế giới này, chỉ muốn làm nông. Tôi nhớ khi ông thẩm phán thuyết phục ông già đầu tư, ông già chưa bao giờ đầu tư vào bất cứ thứ gì ngoài một tài khoản tiết kiệm. Ông ấy thì biết gì về quỹ phòng hộ chứ? Không gì cả. Nhưng rồi thẩm phán Birk nói về tôi, về tương lai của tôi, về việc đây là cơ hội để ông già có thể giúp gia đình tôi nhảy vọt ra sao. Ông già tin ông thẩm phán, ngay cả sau khi Merrick bị bắt. Trời, ông ấy vẫn tin. Tôi thì không. Nên giờ tôi ở đây.”

“Nghe này, Swonger. Thoải mái đi, được không?”

“Tôi thoải mái mà, chó chết.”

“Không, ý tôi là đừng cầm đèn chạy trước ô tô. Có thể có tiền. Có thể không. Nhưng ngay cả nếu có, cũng không nhiều như anh tưởng đâu.”

“Sao anh biết?”

“Như tôi đã nói với anh, Bộ Tư pháp rất, rất giỏi tìm tiền. Nên dù cho Merrick có xoay xở giấu được bao nhiêu tiền, thì nó cũng phải đủ ít để qua được các kẽ hở. Nên thoải mái đi.”

Swonger suy nghĩ điều đó rồi nhún vai. “Vẫn nhiều hơn tôi đang có bây giờ, chó chết. Hiểu không?”

Gibson biết rõ bài toán đó.

Sau bữa tối, Gibson cố tìm nhưng không bắt được ánh mắt của chị bồi bàn, tay anh giơ cao quá đầu đầy lạc quan để gọi tính tiền. Một tay lính gác mới bước vào căn phòng phía sau và nén người vào một chỗ trống. Đó là một màn ba-lê vụng về và bàn tay Gibson nhẹ nhàng đặt xuống bàn khi anh dõi theo tay lính gác vật lộn vô ích với chiếc thắt lưng buộc chặt cái bụng phệ của anh ta với chiếc quần lót đang hở ra nửa trong nửa ngoài cái quần dài. Nỗ lực không thành, tay lính gác lén lút liếc quanh trước khi tháo bớt khóa lưng ra vài nấc. Có vẻ như thế là ổn. Được giải phóng khỏi sự thít chặt của chiếc thắt lưng, tay lính gác nốc ly bia của mình và thọc tay vào bát đồ ăn hỗn hợp của quán bar. Cứ vài phút, anh ta lại nhìn qua vai như chờ đợi ai đấy.

Một nụ cười lướt qua mặt Gibson. Chúa ơi, thật đẹp đẽ: trung niên, không nhẫn cưới, một vết bẩn trên đồng phục ít ra đã vài ngày rồi. Cặp mắt bồn chồn, lười nhác. Khi anh ta bước vào, không ai trong đám lính gác ở bàn bi-a vẫy chào anh ta và anh ta cũng chẳng thèm liếc về phía họ. Được, gã đó được đấy. Gibson chỉ cần tiếp cận mà thôi. Trong khi anh đang suy tính, người nữ pha chế trẻ, người đã hai lần nhìn anh hằn học - một lần ở khách sạn khi anh mới tới và một lần nữa khi anh bước vào quán bar này - bước vào căn phòng phía sau, lượn một vòng quanh những chiếc bàn và ngồi xuống với tay lính gác.

Chà, không phải điều này thật thú vị sao?

Gibson không thể biết họ đang nói chuyện gì, nhưng đó không phải là cuộc tán gẫu thông thường giữa những người bạn mà họ đang cố tỏ ra. Dù cho có chuyện gì, thì cô gái là người chỉ huy, ngay cả nếu tay lính gác không muốn thừa nhận điều đó. Đôi tay duyên dáng, thông minh của cô gái điều tiết cuộc nói chuyện theo nhịp điệu của cô. Cô suy nghĩ bằng miệng, tư lự cắn một góc môi; anh tưởng tượng rằng cô cười hẳn sẽ rất đẹp - lanh lẹ và biểu cảm, dù có gì đấy trong mắt cô nói với Gibson rằng những nụ cười đó rất hiếm. Anh nghĩ anh sẽ thích nghe cô nói cho dù tay lính gác thì không có vẻ thế. Cô đã nhìn thấy những gì Gibson thấy - tay lính gác yếu ớt và cô đã lợi dụng điểm yếu đó, nhưng vì mục đích gì?

Anh có cảm giác rất lạ lùng là anh đã biết cô ta ở đâu đó. Không chỉ ở khách sạn sáng nay. Lâu hơn. Nhưng tại sao anh lại biết một người pha chế ở Tây Virginia? Có lẽ cô từng ở trong thủy quân lục chiến? Anh đợi cô hất mái tóc nâu dài qua một bên mặt để anh có thể nhìn rõ hơn. Anh biết cô ở đâu nhỉ? Những đường nét của cô cũng khó đoán và anh chỉ có thể đoán mò về chủng tộc. Chắc chắn là một chủng tộc da trắng nào đó, nhưng cũng có thể là chủng tộc khác. Đông Á chăng?

Một suy nghĩ điên rồ lướt qua anh.

Anh lấy máy tính xách tay ra và mở thư mục nghiên cứu của anh về Charles Merrick. Anh kéo xuống tới khi thấy một bức ảnh Merrick với gia đình gã: vợ cũ, Veronica và con gái, Chelsea. Đó là một bức ảnh cũ, chụp cho một số của tờ tạp chí Hamptons - sinh nhật mười sáu tuổi của Chelsea Merrick có vẻ là một bữa tiệc xa xỉ và gia đình đang cười rạng rỡ. Chỉ hai năm trước khi trời sập xuống căn nhà xây trên cát của cha cô. Tìm hiểu của anh về nơi cô ở đã không đi xa hơn Portland, nơi cô biến mất hoàn toàn.

Còn có thể biến mất ở đâu tốt hơn Niobe, Tây Virginia.

Chelsea Merrick sẽ ra sao nhỉ? Giờ hai mươi sáu tuổi? Gibson liếc nhìn qua lại giữa bức ảnh và người pha chế bên kia phòng, cố gắng tưởng tượng cô gái mười sáu tuổi trở thành một phụ nữ trưởng thành. Trong bức hình, Chelsea Merrick tóc vàng giống cha cô, mái tóc búi xoắn trên đỉnh đầu. Gibson không biết nhiều về thời trang phụ nữ để có thể nói thật chắc chắn, nhưng chiếc váy mùa hè của cô hẳn phải đáng giá cả một gia tài và ở một thế giới hoàn toàn khác với chiếc áo thun ba lỗ màu đen hiệu Joan Jett và quần jean màu xanh da trời mà người pha chế đang mặc. Gibson bác bỏ chuyện đó - có sự giống nhau thoáng qua, nhưng chỉ thế mà thôi. Anh đã bắt đầu đóng chiếc máy tính xách tay của anh lại thì cô gái tựa người vào ghế của mình nhìn chằm chằm ra cửa để kiểm tra khu phía trước quán bar. Cô quấn tóc lên và cột lại thành đuôi gà chỉ bằng một động tác. Và ngay lúc đó, anh đã thấy cô. Cùng cái cằm đó, cùng đôi tai và một nốt ruồi nhỏ ở thái dương trên mắt phải của cô.

Chelsea Merrick, bằng xương bằng thịt.

Làm người pha chế ở một quán bar tầng hầm tại Niobe, Tây Virginia.

Anh ngẫm nghĩ điều đó. Người pha chế là một vỏ bọc tốt, nhưng cô ta thực sự làm gì ở đây? Rõ ràng là phải liên quan tới cha cô. Phải chăng cô ta chính là liên lạc viên của Merrick với thế giới bên ngoài? Còn có thể là ai nữa? Còn ai mà Merrick có thể tin cậy giao phó tiền bạc của gã nữa? Và họ sử dụng tay lính gác này làm người đưa tin? Hợp lý.

“Cái gì vậy?” Swonger hỏi.

“Sao cơ?”

“Anh lại cười nữa. Lạ đấy.”

“Tôi cần anh làm chuyện này cho tôi.”

“Ồ, vậy hả? Không được đâu, chó chết.”

Hai người nhìn nhau trừng trừng qua chiếc bàn.

“Sao cơ?”

“Không, anh bạn, thấy chưa, tôi ở đây tuyệt đối chỉ để quan sát. Anh nói thế mà.” Swonger nhún vai ra vẻ bất lực. “Vì vậy, tôi ước gì có thể giúp được anh, nhưng…”

Gibson thở dài. “Được rồi.”

“Được rồi sao?”

“Tôi cần anh giúp.”

“Và anh có nói với tôi chuyện gì đang xảy ra và thôi xem thường tôi không?”

“Thế thì đòi hỏi nhiều quá.”

“Vậy thì tự làm đi.”

“Được rồi, được rồi. Cứ thế đi.”

Thái độ của Swonger thay đổi ngay lập tức khi gã ngồi thẳng lên. “Vậy anh cần gì?”

“Bàn ở bên kia. Hướng bốn giờ của anh ấy.”

Swonger cúi đầu xuống và nhìn qua vai gã. “Bàn có cô pha chế xinh đẹp đang tức giận đó hả?”

“Phải. Anh thấy tay lính gác không?”

“Gã mập hả? Ừ, có thấy. Gã không mảnh mai lắm đâu. Chuyện gì?”

“Anh đã bám đuôi tôi rất khéo. Giờ hãy bám đuôi gã. Tôi cần một cái tên và địa chỉ. Nơi gã sống.”

Trong sự ngạc nhiên của Gibson, Swonger không hỏi lý do mà chỉ đứng lên và uống hết ly bia của gã. “Rồi sao nữa?”

“Rồi sao cái gì?”

“Sau khi có địa chỉ rồi, anh muốn tôi làm gì tiếp theo?”

Gibson không chắc. Anh không hy vọng Swonger thực sự làm theo lời anh, nên anh chưa nghĩ ra phải làm gì tiếp.

“Nhắn tin cho tôi và ngồi canh gã tới khi tôi liên lạc lại.”

“Rõ.”

Swonger thong thả đi ra. Vài phút sau, Chelsea Merrick rời bàn của tay lính gác và trở lại làm việc. Tay lính gác cài lại thắt lưng trước khi chuẩn bị rời đi. Gibson không thấy gã chuyển cho người pha chế thứ gì cả, nên tin nhắn hẳn phải đơn giản để nhớ được.

Anh rất muốn biết tin nhắn đấy là gì.

Sau khi Gibson kêu được chị bồi bàn tính tiền và thanh toán, anh tới để nhìn Chelsea Merrick gần hơn. Có một chiếc ghế trống ở quầy bar nơi anh có thể xem đội Dodgers và Giants đang thi đấu ở bờ Tây. Một ông già ngồi ở chiếc ghế đẩu bên cạnh đang nghiền ngẫm một cốc rượu và một ly bia; ông liếc về phía Gibson như thể sự hiện diện của anh ở đây là một tội lỗi vậy.

“Có ai ngồi đây không?”

“Anh chắc không?”

“Không, ý tôi là…” Gibson nhận ra là ông ta đang trêu anh và ngồi xuống. Ông già tự giới thiệu mình là Già Charlie, Gibson nghĩ thật lạ khi tự gọi mình thế.

“Robert Quine.” Họ bắt tay.

“Vậy, Bob này… Anh đi cùng những gã khốn không phải người ở đây hả? Ngồi vào ghế của người khác, cư xử như thể các anh sở hữu nơi này?”

“Không cùng đội với họ. Nhưng tôi cũng không phải người ở đây.”

“Tất cả các anh tới đây để gây rối hả?”

“Không phải với ông.”

Già Charlie nghĩ ngợi chuyện đó và chỉ vào hai ly của ông. “Anh sẽ uống cái nào trước?”

“Cốc rượu.”

“Phải, tôi cũng thế. Nhưng gần đây, tôi tự hỏi tại sao lại thế. Trật tự đó. Việc nặng trước, việc nhẹ làm sau. Một người phải làm mọi thứ theo trật tự thế nào? Sẽ ra sao nếu ta không bao giờ chuyển sang việc nhẹ nhàng? Nhưng anh nói là cốc rượu trước hả?”

“Cốc rượu trước.”

“Theo lời người trẻ,” Già Charlie nói và đẩy cốc rượu ra phía sau.

Thời điểm gọi ly cuối cùng ở Tây Virginia là ba giờ sáng, nhưng quán bar bắt đầu thưa dần từ khoảng một giờ. Gibson nhâm nhi một ly bia và xem người pha chế làm việc. Ở gần, chắc chắn cô là Chelsea Merrick, không nghi ngờ gì nữa. Dù các khách hàng ở đây gọi cô là Lea. Với giá một cốc rượu và một ly bia, Già Charlie tiết lộ rằng họ của cô là Regan và cô sống phía trên quán bar này hai năm qua.

Gibson gật đầu, nghĩ rằng Charles Merrick là đồ khốn khi lôi con gái gã vào thế giới của gã theo cách này. Cô có nguy cơ phải ngồi tù khi giúp gã che giấu và quản lý số tiền ăn cắp, nhưng đôi khi gia đình là điều khó từ bỏ. Gibson hiểu điều đó. Hay có thể là cha nào con nấy. Anh ngăn mình lại - anh không được trở nên cảm tính về cô chỉ vì cô cứng rắn, thông minh và không chịu để bất cứ gã nào trong quán bar sàm sỡ, tất cả đều công khai ngắm mông cô bất cứ khi nào cô bước qua.

Tới một giờ ba mươi, ghế trống trong quán bar đã nhiều hơn ghế có người ngồi. Căn phòng phía sau đã trống hết, trừ một bàn bi-a. Chương trình SportsCenter đang chiếu trên ti-vi và người pha chế vạm vỡ - Margo - đã biến mất vào khu văn phòng để làm công việc giấy tờ. Gibson đoán rằng Margo sở hữu nơi này, qua cách mọi người cư xử với chị. Anh không nghĩ anh sẽ tiết lộ rằng mình biết tên thật của Lea, nhưng cô chắc chắn không thích anh ngồi ở đây. Cô giữ khoảng cách với anh và phục vụ đồ uống cho anh rất nhanh. Tất nhiên, chỉ việc có mặt trong một quán bar chuyên phục vụ khách quen như thế này là đủ gây nghi ngờ rồi. Mỗi lần anh uống hết một ly bia, cô lại hỏi anh cùng câu hỏi thiếu thân thiện đó.

“Thêm gì không?”

“Tôi sẽ uống một ly bia nữa. Cảm ơn.”

Giờ thì giọng điệu thân thiện của anh gặp phải một ánh mắt trống rỗng. “Anh không nghĩ là anh uống đủ rồi sao?”

Bên trái anh, Già Charlie đã ngáy bình yên, gục mặt trên quầy bar, bên cạnh một cốc rượu và một ly bia còn chưa đụng tới. Gibson nhìn ông thật lâu trước khi quay lại với Lea.

“Phải, thật không hay nếu quá chén.”

Cô đập tờ hóa đơn xuống và bỏ anh lại đó. Anh tự cười khúc khích. Rõ ràng rồi - anh thích cô.

Swonger ngồi xuống cạnh anh và gọi một ly bia. Lea miễn cưỡng phục vụ gã.

“Tôi nói anh nhắn tin cho tôi mà,” Gibson thì thầm.

“Nhắn thử rồi. Ở đây như năm 1999 ấy. Không chỗ nào có sóng cả.” Swonger nốc ly bia của gã trước khi nghiêng người về phía tai của Gibson. “Dẫu sao, tôi có thông tin rồi. Jerome Parker. Sống ở một khu nhà tồi tàn cách đây hai mươi phút về phía Đông.”

“Một mình hả?”

“Chỉ có xe của gã. Nhưng tôi không gõ cửa và ghi lại mọi chi tiết về gã.”

“Cho tôi xem đi.”

“Bia của tôi…”

“Uống đi rồi về.”

Swonger nhìn có vẻ đau đớn. “Chó chết, tôi đã ngồi trong xe ba tiếng theo dõi nhà của một gã khốn trong khi anh sung sướng ngắm nhìn cô em xinh đẹp? Và tôi phải trả tự trả tiền bia sao? Không hợp lý.”

Gã có lý. Gibson ném thêm năm đô-la nữa lên tờ hóa đơn của anh và họ bước ra cửa.