← Quay lại trang sách

CUỘC ĐỜI CHA QUA HỒI ỨC CỦA CON TRAI

Cái khó nhất của tôi là viết về cha tôi, một người rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu nhạc Việt Nam và Á châu. Nếu viết khen nhiều hơn chê thì thiên hạ sẽ cho là thiên vị, là người trong nhà khen lẫn nhau.

Dù ai có muốn nói gì, nghĩ gì, đối với tôi không quan trọng. Tôi viết về cha tôi cũng như tôi đã viết về nhiều nhạc sỹ, ca sỹ khác. Tôi chỉ ghi những gì tôi biết về cha tôi với một cái nhìn khách quan tối đa. Nhân dịp Ngày của Cha (Father’s Day), tôi ghi lại vài hình ảnh của một người Cha, một người Thầy và một Nhà nghiên cứu âm nhạc đã góp phần quan trọng mang lại cho nền âm nhạc Việt Nam những hào quang rực rỡ.

THỜI THƠ ẤU

Đêm rằm tháng 6 âm lịch năm Tân Dậu (1921), chú bé Trần Văn Khê chào đời trong một gia đình bốn đời nhạc sỹ.

Cụ cố Trần Quang Thọ trước kia là nhạc công triều đình Huế. Ông nội là Trần Quang Diệm, tục danh là ông Năm Diệm, biết đàn kìm, đàn tranh nhưng chuyên đàn tỳ bà theo phong cách “Thần kinh”. Cha là Trần Quang Triều, mà giới tài tử trong Nam thường gọi là ông Bảy Triều, biết đàn nhiều cây, mà đặc biệt nhất là đàn độc huyền (đàn bầu) và đàn kìm (đàn nguyệt). Với đàn độc huyền, ông Bảy Triều đã bắt chước tiếng đào thán, tiếng ca nỉ non, nũng nịu của một người con gái và đã chế ra cách lên dây đàn kìm mà ông gọi là dây Tố Lan, thuộc hò nhì, lấy chữ xự làm hò mà dây Tồn cao bằng giọng hò trầm, thường dùng để đàn Văn Thiên Tường và Tứ đại oán , giới tài tử trong Nam đều biết và còn sử dụng. Người cô thứ ba là bà Trần Ngọc Viện, tục gọi là Cô Ba Viện, trước dạy nữ công tại trường Áo Tím, năm 1926 vì để tang cụ Phan Châu Trinh nên bị sa thải. Bà về Vĩnh Kim lập gánh hát Đồng Nữ Ban, toàn diễn viên nữ, con nông dân vùng Vĩnh Kim, Đông Hòa, Long Hưng. Bà chơi đàn tranh rất hay và đã truyền ngón cho Trần Văn Khê trong những bài Nam Xuân, Nam Ai.

Cụ cố ngoại là Nguyễn Tri Phương, đã làm đến chức Khâm sai Kinh lược Nam kỳ, tuyệt thực tử tiết khi Pháp chiếm thành Hà Nội lúc cụ đang giữ chức Tuyên sát đồng sức Đại thần miền Bắc. Ngoại tổ là Nguyễn Tri Túc, lúc sinh thời đã nuôi rất nhiều nhạc sỹ danh tiếng vùng Cần Đước, Vĩnh Kim để cho hai người con là Nguyễn Tri Lạc và Nguyễn Tri Khương học các thứ đàn. Ông Nguyễn Tri Khương, cậu thứ năm của Trần Văn Khê cũng là thầy dạy Trần Văn Khê đánh trống nhạc lễ và trống hát bội, đã sáng tác nhiều bản nhạc theo truyền thống như Yến tước tranh ngôn, Phong xuy trịch liễu mà Trần Văn Khê đã ghi âm vào đĩa hát CD OCORA số C 56005.

Mẹ là Nguyễn Thị Dành, bà không được cha cho học nhạc, nhưng thường thích nghe hòa nhạc trong gia đình.

Trần Văn Khê chẳng những được may mắn sinh trong một gia đình mà hai bên nội ngoại đều là nhạc sỹ, mà còn được “thai giáo” một cách rất đặc biệt. Nhà phía bên nội ở gần lò mổ lợn, nên người cậu thứ năm là ông Nguyễn Tri Khương đã xin phép nội tổ được đem mẹ Trần Văn Khê về dưỡng thai trong miếng vườn riêng có trồng nhiều thứ hoa đẹp lại xa lò mổ, không nghe tiếng lợn bị chọc tiết. Ngày ngày ông thổi sáo và đàn tranh cho em gái, thân mẫu Trần Văn Khê, nghe mỗi sáng, trưa, chiều. Bà không xem hát bội, không xem đá gà, chỉ thường đọc những sách như Nhị thập tứ hiếu, Gia huấn ca . Sau khi chào đời, mỗi ngày Trần Văn Khê tiếp tục được nghe đàn sáo của cậu Năm Nguyễn Tri Khương và cậu Mười Nguyễn Tri Ân cũng là người thổi ống tiêu rất hay.

Sau khi cúng thôi nôi, Trần Văn Khê được ông nội rước về ở gần. Hàng ngày nghe ông đàn tỳ bà, cha đàn độc huyền, cô chơi đàn tranh, chú bé đã sống trong một không khí đầy nhạc. Khách tới, ông nội đàn bài Lưu thủy để chú bé Trần Văn Khê nhảy cà tưng trong tay người cô hay người khách, chú bé biết theo nhịp, hễ ông đàn mau thì nhảy mau, ông đàn chậm thì nhảy chậm.

Sáu tuổi, chú bé Trần Văn Khê đã biết chơi đàn kìm (đàn nguyệt) mấy bản dễ như Lưu thủy, Bình bán vắn, Kim Tiền, Long hổ hội . Bảy tuổi, chú đã tập cho các chị diễn viên gánh Đồng Nữ Ban của cô Ba Viện hát bài La Madelon để chưng màn đầu cải lương. Tám tuổi, ông biết đàn cò, mười hai tuổi biết đàn tranh và đánh trống nhạc, biết cùng với người anh họ, anh Ba Thuận, con của cậu Năm Khương, chơi trò làm chai, xô giàng, khai xá, đề phang.

Nhưng Trần Văn Khê lại mồ côi rất sớm. Ba tuổi ông ngoại qua đời. Năm tuổi đến phiên ông nội. Mẹ mất năm 9 tuổi, năm sau 10 tuổi cha từ trần.

Cô Ba Viện nuôi ba anh em Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Trần Ngọc Sương đến ngày khôn lớn. Tuy cháu mới lên 10 tuổi, cô Ba đã lo việc đào tạo con người cho cháu. Trước hết, cháu phải biết đi xe đạp, phải đạp đi lần từ nhà ra ngã ba Chim Chim, rồi đi đến Xoài Hột, rồi tới Mỹ Tho cách nhà 14 cây số. Hàng ngày cô nhờ mấy anh em bà con tập cho bơi lần đến lúc bỏ bập dừa bơi sang sông, cô mới cho tắm sông. Rồi cô cho học võ Thiếu Lâm với anh Ba Thuận, với mấy thầy dạy võ trong vùng để tự vệ, để khỏi sợ ma mà không cho đi đấu. Cô lại mua cho một cây đàn kìm nhỏ vừa tay như bên châu Âu trẻ em phải chơi đàn vi-ô-lông 2/4 để không bị hư ngón. Lúc nào chơi đàn, cô cũng nghe và sai là sửa ngay.

THỜI KỲ HỌC TẬP Sơ học

Mười tuổi, Trần Văn Khê đỗ tiểu học và sang huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. Đến Tam Bình, Trần Văn Khê được học chữ Hán trong ba năm với nhà thơ, nhà nho Thượng Tân Thị. Trong kỳ Sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long, ông đỗ Sơ học có phần Hán văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đỗ bằng chữ Hán.

Trung học

Trần Văn Khê vào trường trung học Trương Vĩnh Ký năm 1934 và được cấp học bổng. Năm nào ông cũng đứng đầu lớp. Năm thứ tư (1938), ông học Pháp văn với ông Champion và được chấm đỗ kỳ thi tuyển chọn một học sinh xuất sắc nhất trong năm đệ tứ để được du lịch trên chiếc xe lửa xuyên Việt từ Sài Gòn đến Hà Nội, qua Phan Thiết, Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Huế. Thêm một cái may trong đời học sinh, ông được học Việt văn và Hán văn với giáo sư Phạm Thiều.

Ông đỗ tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941 và nhờ vậy được Giải thưởng đặc biệt của Đô đốc Decoux, để đi viếng cả nước Cao Miên (Campuchia) xem Chùa Vàng, Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích và trên đường về Việt Nam ghé Hà Tiên. Nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, ông được nhà thơ Đông Hồ tiếp đãi trong một tuần, dẫn đi thăm thú. Mỗi nơi, ông được nghe một bài thơ hay do thi sỹ Đông Hồ đọc để vịnh cảnh đẹp.

Trong lúc học tại trường trung học Trương Vĩnh Ký, Trần Văn Khê đã cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của Hội SAMIPIC (Đức Trí Thể Dục Nam kỳ). Trần Văn Khê chỉ huy hai dàn nhạc đó, vừa phối khí dàn nhạc dân tộc có xen đàn phương Tây như măng-đô-lin, ghi-ta, vừa diễn trong khuôn khổ dàn nhạc Scola Club những bài hát phương Tây như Les Gars de la Marine, Sunset in Vienna ... Ông làm trưởng ban tổ chức lễ Ông Táo trước ngày lễ nghỉ vào dịp Tết ta, Tổng thư ký hội Thể thao, và giữ tủ sách của trường trong ba năm tú tài.

Được học bổng của chính phủ thuộc địa, lại được bổng đặc biệt của hội SAMIPIC, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa.

Đại học

Tại Đại học Hà Nội, Trần Văn Khê cùng với các bạn Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng Hội Sinh Viên mà Chủ tịch là Dương Đức Hiền và sau này là Phạm Biểu Tâm.

Trần Văn Khê đứng trong ban tổ chức đêm hát trường đại học hàng năm. Dù không học nhạc Tây phương bao giờ, chỉ được học dương cầm (piano) vài giờ với Bình Minh, con gái của đốc công Đức, sau là tự học, ông dám phê bình các nhạc sỹ trong dàn nhạc trường đại học và phê bình đúng, nên được các nhạc sỹ cử làm chỉ huy dàn nhạc trường đại học. Trần Văn Khê thừa dịp đó để có thể, ngoài những bản thông thường của nhạc Tây phương như La Veuve Joyeuse, Marche Turque, Monument Musical ... giới thiệu những bài hát thanh niên và lịch sử của Lưu Hữu Phước.

Trần Văn Khê và Lưu Hữu Phước tập cho học sinh trường Thành Nhân hát bài hát Thiếu sinh , các cô trường Đồng Khánh hát bài Thiếu nữ Việt Nam, sinh viên Đại Học Hà Nội hát bài La Marche des Etudiants . Đầu năm 1943, ông dựng ca nhạc kịch Tục lụy (thơ của Thế Lữ, nhạc phổ Lưu Hữu Phước) với nữ sinh trường Đồng Khánh Hà Nội; hè 1943, ông dựng ca kịch Tục lụy với nữ sinh trường Áo Tím Nữ học đường (sau đổi thành trường Gia Long, cho tới năm 1975 đổi thành trường Nguyễn Thị Minh Khai).

Trần Văn Khê tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ của Hoàng Xuân Hãn, truyền bá vệ sinh của các sinh viên trường Thuốc, cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến đi hội Đền Hùng và viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà.

LẬP GIA ĐÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI

Trong gia đình họ Trần, thân phụ Trần Văn Khê đã qua đời sớm, để lại hai con trai là Trần Văn Khê và Trần Văn Trạch (từ trần năm 1994 tại Paris, Pháp). Nếu không may hai cậu trai ấy qua đời mà chưa có con trai nối dòng thì dòng họ Trần sẽ tuyệt tự. Lúc đó, khi còn đang học trường thuốc, Trần Văn Khê đã nghe lời người cô Trần Ngọc Viện, người đã lo cho ông ăn học từ nhỏ tới lớn, để lập gia đình, với hy vọng có con trai nối dòng họ Trần. Trần Văn Khê yêu cô Nguyễn Thị Sương, con gái đầu lòng của ông Nguyễn Văn Hanh, giáo viên tại Sài Gòn và sau đó làm đốc học tại Thủ Đức. Bà Sương là một trong bốn nữ sinh học ban tú tài của trường nam Pétrus Ký vì lúc đó trường Áo Tím không có lớp trình độ trung học nhị cấp như bây giờ, là người học giỏi nhất trong các nữ sinh, bà Nguyễn Thị Sương rất giỏi về triết lý, bài viết đã từng được phát trên đài phát thanh.

Vào mùa hè năm 1943, sau mấy năm đeo đuổi hình bóng người con gái miền Nam kiều diễm, hiền hòa, Trần Văn Khê đã cùng Nguyễn Thị Sương sánh duyên, mang lại cho dòng họ Trần bốn người con: hai trai (Trần Quang Hải hiện là nhà nghiên cứu nhạc dân tộc tại Paris và Trần Quang Minh hiện là kiến trúc sư ở Thành phố Hồ Chí Minh) và hai gái (Trần Thị Thủy Tiên hiện sống tại Paris và Trần Thị Thủy Ngọc, nữ nhạc sỹ đàn tranh và làm việc cho một ban nghiên cứu Đông Nam Á của Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học ở Paris). Sự hy sinh cao cả của người vợ hiền đã giúp Trần Văn Khê làm tròn sứ mạng của một thanh niên yêu nước. Từ 1949, khi Trần Văn Khê lên đường sang Pháp để lại quê nhà một vợ, ba con thơ dại và một đứa con còn nằm trong bụng mẹ, bà Sương đã trở thành cô giáo dạy Pháp văn và Anh văn để nuôi và dạy dỗ bốn con cho tới ngày trưởng thành. Sự hy sinh đó của bà đã được đền bù xứng đáng: các con của ông bà ngày nay đều thành danh, trong đó nổi bật là những thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc của con trai đầu lòng giáo sư, tiến sỹ Trần Quang Hải.

Mùa thu năm 1943, sau khi đỗ đầu từ năm thứ nhất đến năm thứ nhì trường Thuốc và bắt đầu chuẩn bị thi ngoại trú (Externe des Hôpitaux) thì nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về Nam. Thứ nhất là vấn đề sức khỏe: ông bị sốt rét rất nặng. Trần Văn Khê không có vi khuẩn lao trong cơ thể, thử theo cách tiêm dưới da (intra dermo) cũng không thấy có vi khuẩn, nhưng khi học đến những bệnh truyền nhiễm thì ông không đủ sức để tiếp tục. Thứ hai là phong trào Xếp bút nghiên xảy ra. Lưu Hữu Phước đặt nhạc và Huỳnh Văn Tiểng viết lời bản nhạc Xếp bút nghiên đã được các sinh viên thời đó hát hăng say.

Lúc quê hương cần người

Dứt là tơ vương

Giã trường lên yên...

Nhiều bạn trong đó có Lưu Hữu Phước và Huỳnh Văn Tiểng đã rời nhà trường, không phải lên yên ngựa mà lên xe đạp đi về Nam. Trần Văn Khê lúc đó đau sốt rét mới hết, còn yếu, nên về Nam bằng xe lửa.

Lý do thứ ba là lúc ấy bắt đầu có nạn đói tại miền Bắc. Trần Văn Khê và Lưu Hữu Phước định về Nam để lập một gánh hát sinh viên đi các tỉnh vừa giới thiệu bài hát thanh niên, lịch sử của Lưu Hữu Phước, vừa góp tiền mua gạo gửi ra cứu đói ngoài Bắc. Gánh hát không chuyên nghiệp và lưu động đó đã đi trong mấy tháng tại các tỉnh miền Đông và miền Tây để hát.

Về Nam, cùng với các bạn sinh viên, Trần Văn Khê tham gia tổ chức Đêm Lam Sơn tại Sài Gòn, để ủng hộ học sinh trại Suối Lồ Ồ, rồi tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong.

Đầu năm 1944, Trần Văn Khê dạy học tại hai trường tư lớn nhất tại Sài Gòn là trường Lê Bá Cang và trường Nguyễn Văn Khuê.

Ngày 13 tháng 5, năm 1944, Trần Quang Hải, con trai đầu lòng của Trần Văn Khê ra đời tại nhà bảo sanh Thủ Đức. Lưu Hữu Phước đã viết một ca khúc Trần Quang Hải bao nỗi mừng để chào mừng con trai đầu tiên của người bạn chí thân.

Ba tháng sau, cô Ba Viện, người cô và cũng là người ơn đã nuôi nấng, dạy dỗ Trần Văn Khê từ lúc mồ côi đến khi trưởng thành, qua đời, chưa kịp thấy mặt đứa cháu trai nối dòng họ Trần.

Các trường tản cư xuống tỉnh. Trường Pétrus Ký do giáo sư Đặng Minh Trứ làm giám đốc, được chuyển về Bến Tre. Trần Văn Khê, trong khi chuẩn bị dạy trường ấy, đã dạy học ở trường tư thục của bác sỹ Nguyễn Văn Còn.

Lúc ấy, ngoài việc dạy học, Trần Văn Khê còn tham gia Ban tuyên truyền của tỉnh Bến Tre cùng với Đặng Ngọc Tốt, đi các nơi trong tỉnh Bến Tre, Sa Đéc. Anh Đặng Ngọc Tốt diễn thuyết, Trần Văn Khê hát các bài nhạc của Lưu Hữu Phước để nhắc lại những trang lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam.

NHỮNG NĂM ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT PHÁP

Năm 1949, vì bị lộ nên Trần Văn Khê, sau khi bàn với các bạn, rời Việt Nam sang Pháp, vừa “lánh nạn” vừa du học.

Tới Pháp với hai bàn tay trắng, một bộ đồ vải tropical và bản hợp đồng với các báo kể phía trên để làm “phóng viên”, Trần Văn Khê lúc ấy thành ký giả chuyên nghiệp, có được thẻ nhà báo chuyên nghiệp do Sở Thông tin Pháp cấp cho.

Vừa tới Pháp tháng 5, thì tháng 8, Trần Văn Khê cùng đi với học sinh Việt Nam tham dự Liên hoan thanh niên tại Budapest. Ông cùng với anh Nguyễn Ngọc Hà (nguyên Phó trưởng ban Việt kiều Trung ương) tổ chức chương trình văn nghệ giới thiệu nước Việt Nam đang tranh đấu giành tự do. Trần Văn Khê dự thi nhạc cụ dân tộc, với hai cây đàn cò và đàn tranh, được giải nhì, sau Liên Xô, đồng hạng với Mông Cổ, trước Hungary và Bungary.

Đồng thời Trần Văn Khê được người đại diện kháng chiến Việt Nam từ chiến khu sang Bupadest tặng “Lá cờ thi đua” vì đã giới thiệu tinh thần kháng chiến anh dũng của dân tộc Việt Nam có hiệu quả nhất đoàn, cho thanh niên nhiều nước biết. Sau chuyến đi Budapest, Trần Văn Khê mất học bổng sắp được để học Khoa báo chí tại đại học Michigan và không được thẻ tạm trú tại Pháp, mỗi ba tháng phải lên Sở cảnh sát Paris trình diện.

Trần Văn Khê tự làm việc để sinh sống. Từ năm 1949 tới 1951, ông đọc các báo Pháp để viết mục “Điểm báo”, làm phóng viên về các sinh hoạt Việt kiều, viết du ký, phóng sự, gửi về tòa soạn những bài báo xã thuyết về chính trị quốc tế và chính trị liên hệ đến Việt Nam. Nhân làm báo, ông thử thi vào trường chính trị nổi tiếng là Sciences Po Paris. Đỗ vào năm thứ nhì của trường, Trần Văn Khê học hai năm trong môn Giao dịch quốc tế và học thêm Anh văn tại Đại học Văn khoa Paris.

Tiền học ông nhờ báo ở Việt Nam hàng tháng chuyển ngân nhưng báo thường bị đóng cửa. Trần Văn Khê phải đi đàn mỗi tối thứ Năm và Chủ nhật tại hiệu cơm La Paillote của bà Từ Bá Hòa để được một bữa cơm ngon và ít tiền. Trong năm sau, mỗi cuối tuần, ông giới thiệu đàn cò, đàn tranh tại nhà hàng Bồng Lai của ông Bùi Văn Tuyền ở vùng Champs Elysées. Ông ghi âm cho hãng đĩa hát ORIA hơn 30 bài nhạc mới của Lưu Hữu Phước, Phạm Duy, Võ Đức Thu, Nguyễn Hữu Ba, Lê Thương, Hùng Lân, với bí danh là Hải Minh (tên của hai con trai ghép lại).

Ngày 10 tháng Giêng năm 1950, con gái út của Trần Văn Khê, Trần Thị Thủy Ngọc, ra đời tại tỉnh Vĩnh Long. Lúc ấy Trần Văn Khê đã ở Pháp hoạt động văn nghệ cho Hội Ái hữu Việt kiều do giáo sư Phạm Huy Thông làm hội trưởng, chơi thân với nhà viết báo Khuông Việt, nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, Lê Văn Sáu, lúc ấy là sinh viên trường Chính trị và Đại học Văn khoa (cựu giáo sư Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh). Trần Văn Khê khi rời Việt Nam sang Pháp thì vợ mới có thai 10 ngày. Đứa con gái út mở mắt chào đời không thấy mặt cha và cũng không biết cha cho tới năm 1969 mới được sang Pháp để gặp cha lần đầu.

Mùa hè năm 1950, Trần Văn Khê sang La Haye, Hà Lan học về luật quốc tế, cùng khóa với Lê Thành Khôi (từng làm giáo sư đại học Paris, người viết quyển Histoire du Vietnam nổi tiếng). Hè năm 1951, ông thi đỗ ra trường Chính trị khoa Giao dịch quốc tế. Nhờ đỗ hạng 5 nên ông được tuyển vào ngạch thư ký quốc tế cho Liên Hiệp Quốc, năm ấy họp Đại hội tại Paris.

Trong khi chờ đợi nhậm chức vào mùa thu 1951, thì tháng 8, hai tháng sau khi đậu bằng Chính trị, ông bị đưa vào nhà thương Cochin, bị phẫu thuật gấp và từ đó đến tháng 10 năm 1954, phải sống “bên lề cuộc đời”, đi từ bệnh viện này đến trung tâm dưỡng bệnh nọ. Ông bị giải phẫu bốn lần, phải uống và bị tiêm bao nhiêu thứ thuốc có thể chữa bệnh này nhưng lại gây bệnh khác. Sau ba năm hai tháng, ông mới được trở về cuộc sống bình thường. Nhưng cũng nhờ bị “nhốt” trong nhà thương mà Trần Văn Khê có thời gian giờ đọc rất nhiều sách tại thư viện Paris. Ghi tên soạn luận án tiến sỹ đại học Paris năm 1952, Trần Văn Khê được các ủy viên văn hóa (délégué culturel) của các bệnh viện dành cho sinh viên như Centre de Cure Universitaire tại Aire sur l’Adour, Postcure Universitaire tại vùng Sceaux, ngoại ô Paris, lo việc mượn và trả sách.

Từ năm 1954 đến năm 1958, Trần Văn Khê ra viện theo học khoa nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sỹ dưới sự chỉ đạo của các giáo sư Jacques Chailley, Emile Gaspardone và André Schaeffner.

Ngoài ra, Trần Văn Khê làm nhiều công việc để mưu sống, đáng kể nhất là bốn việc sau đây:

Thứ nhất, ông thực hiện 52 buổi nói chuyện bằng tiếng Việt cho đài BBC Luân Đôn với các đề tài âm nhạc kịch nghệ và chuyện cổ tích Việt Nam

Thứ hai, ông đóng phim cho hãng Arthur Rank Corporation nước Anh trong bộ phim có tên là A Town Like Alice (Một thành phố giống như Alice Springs, một thành phố giữa sa mạc bên châu Úc). Phim dựa theo tiểu thuyết của Nevil Shute, Pháp dịch tên phim là Ma vie commence en Malaisie (Đời tôi bắt đầu từ Mã Lai). Ông đóng vai đại úy Nhật Sugaya, cai quản trại tù binh Anh và Úc chung với Peter Finch và Virginia Mac Kenna. Phim được chọn chiếu tại Liên hoan phim Cannes năm 1957.

Thứ ba, trong bộ phim gián điệp Pháp, La Rivière des Trois Joncques (Ba chiếc thuyền trên con rạch), Trần Văn Khê đóng hai vai: vai chính là cảnh sát trưởng Việt Nam trong cơ quan phản gián điệp, vai phụ là ông già Tàu bán đồ cổ. Ông đóng cùng Jean Gaven và Dominiques Wilms.

Thứ tư, trong phim Gengis Khan, ông lồng tiếng vai Thừa tướng Kao Linh, do tài tử Mỹ James Mason đóng.

Ông còn lồng tiếng cho phim Tarzan nổi giận , vai Rokov do dược sỹ Nguyễn Trọng Thu, người tiền phong trong việc lồng tiếng phim ngoại quốc ra tiếng Việt đóng và hai phim Mexico do Vạn Ý Phim phát hành, giám đốc là ông Huỳnh Tấn Đốc.

Ông cũng lồng tiếng phim cho mấy chục phim Mỹ chuyển sang tiếng Pháp cho các hãng Kikoine, Henz... và đóng phim quảng cáo cho xe Renault 4, cho hãng rượu Martini...

Tháng 6 năm 1958, Trần Văn Khê đỗ tiến sỹ Văn khoa (môn Nhạc học) Đại học Sorbonne với hàng tối ưu với lời khen của giám khảo (Mention Très Honorable avec félicitations du Jury). Luận án chính của ông là Âm nhạc truyền thống Việt Nam (La musique vietnamienne traditionnelle/ The Traditional Vietnamese Music), hai đề tài phụ là: 1. Khổng Tử và âm nhạc (Confucius et la Musique/ Confucius and Music) và 2. Vị trí âm nhạc trong xã hội Việt Nam (Place de la musique dans la société viêtnamienne/ Place of Music in the Vietnamese Society).

SAU KHI ĐỖ TIẾN SỸ VĂN KHOA

Tháng 8 năm 1958, ông dự hội nghị quốc tế đầu tiên tại trụ sở UNESCO tại Paris với tham luận và hòa nhạc chung một chương trình với Ravi Shankar (Ấn Độ), Ebadi và Hossein Malek (Ba Tư), Yuize Shinichi (Nhật Bản) và Yehudi Menuhin (Mỹ gốc Nga nghệ sỹ vi-ô-lông nổi tiếng thế giới).

Năm 1959, ông được Hội Singer Polignac cho học bổng một năm để nghiên cứu và phổ biến nhạc Việt Nam và nhạc châu Á tại Paris. Ông sáng lập Trung tâm nghiên cứu nhạc Đông Phương (Centre d’Etudes de Musique Orientale/ Center of Studies for Oriental Music) và giữ chức giám đốc học vụ và giáo sư nhạc Việt Nam. Từ năm 1979, ông là chủ tịch Trung tâm kiêm Tổng giám đốc học vụ đến năm 1989. Trung tâm này giải tán khi Trần Văn Khê hưu trí sau 30 năm hoạt động.

Từ khi đỗ tiến sỹ đến lúc về hưu năm 1987, các hoạt động của ông đi vào hai hướng chính:

1. Nghiên cứu âm nhạc

Năm 1960, Trần Văn Khê được bổ nhiệm vào Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp (Centre National de la Recherche Scientifique/National Center for Scientific Research) với chức tùy viên (attaché de recherche), 1964 lên chức chuyên viên nghiên cứu (chargé de recherche), năm 1968 lên chức nghiên cứu sư (maître de recherche) và từ năm 1971 lên chức giám đốc nghiên cứu (Directeur de recherche).

Đề tài nghiên cứu của ông trước hết là âm nhạc truyền thống Việt Nam rồi đi lần đến đề tài đối chiếu nhạc cụ, nhạc lý và ngôn ngữ âm nhạc các nước châu Á, mỗi đề tài đi dài trong thời gian và rộng trong không gian. Ông dành nhiều thời gian trong thư viện tìm thư mục, trong các bảo tàng nghe các băng từ, đĩa hát và nhất là đi diền dã (recherche sur le terrain/ field research), và tự ghi âm, chụp ảnh trên thuộc địa. Mỗi năm, ông báo cáo kết quả và phải có ít nhiều bài đăng trong các tạp chí chuyên môn.

Ngoài ra, ông phải tham gia giảng dạy trong các trường đại học và tham luận tại các hội nghị quốc tế.

Tôi không đi sâu vào chi tiết nhưng xin đưa ra vài con số điển hình:

Trong 27 năm làm việc, Trần Văn Khê đã đăng gần 200 bài, đa số viết bằng tiếng Pháp, một số nhỏ bằng tiếng Anh, có một số bài được dịch ra tiếng Đức, tiếng Trung, tiếng Ả Rập. Hơn 130 bài dài từ vài chục đến cả trăm trang đánh máy và những bài đăng trong tạp chí Le Courrier de l’UNESCO được dịch ra hơn 15 thứ tiếng.

Trần Văn Khê được các nước mời hay được Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp và UNESCO phái đi dự gần 200 hội nghị quốc tế trên 67 nước trên thế giới.

Ông đã tự ghi âm trên 600 giờ âm nhạc và trao đổi với nghệ nhân, nghệ sỹ Việt Nam trên 300 giờ âm nhạc châu Á, châu Phi; chụp hơn 8.000 tấm ảnh, dương bản, ảnh màu hoặc đen trắng về sinh hoạt âm nhạc tại Việt Nam và tại nhiều nước đã đi qua. Ông thu thập được gần 500 đĩa hát của các nước trên thế giới, thực hiện được hơn 15 đĩa hát về âm nhạc truyền thống Việt Nam, bốn đĩa được năm giải thưởng lớn của Hàn lâm viện đĩa hát Pháp vào những năm 1960, 1970, đĩa hát Đức năm 1969, giải Diapason d’or của tạp chí chuyên về giới thiệu và phê bình đĩa hát tại Pháp và giải các nhà phê bình đĩa hát tại Đức năm 1994.

Ông đã thực hiện nhiều phim ngắn, dài về nhạc dân tộc như phim về lối hát cổ điển dhrupad (Ấn Độ), về ống sheng Trung Quốc (sanh hầu), đàn guqin (cổ cầm Trung Quốc), đàn tranh Việt Nam.

2. Giảng dạy trong các trường đại học

Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm nghiên cứu nhạc Đông Phương, dưới sự bảo trợ của Viện âm nhạc Paris (Institut de Musicologie de Paris/ Institute of Musicology), môn thực tập đàn tranh và lớp lý thuyết, ngôn ngữ âm nhạc các nước Châu Á. Đến năm 1980, ông chỉ lo về hành chính và tổ chức chương trình giảng dạy.

Từ năm 1965, ông được mời dạy một lớp về âm thanh, thang âm điệu thức trong các truyền thống tại châu Á. Từ năm 1970, ông dạy môn dân tộc nhạc học cho lớp cử nhân và cao học, có cả hội thảo chuyên đề cho các thí sinh tiến sỹ. Giáo sư Trần Văn Khê chỉ đạo nghiên cứu, đỡ đầu và làm giám khảo cho hơn 50 thí sinh bảo vệ tiểu luận án cao học và luận án tiến sỹ về nhạc châu Á, châu Phi, trong số đó chỉ có một tiến sỹ Việt Nam là Nguyễn Thuyết Phong là có thời gian được dạy âm nhạc Việt Nam tại trường Đại học Kent tại Mỹ.

Ngoài ra, ông còn giảng ba năm cho trường Cao học Khoa học xã hội (Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales), giảng nhiều lần tại Nhạc viện Paris lớp về nhạc cụ châu Á của bà bá tước Genivieve de Chambure và được thỉnh giảng trên 15 đại học trên khắp thế giới, ví dụ như Hàn lâm viện Listz tại Budapest, Đại học Varsovie, Đại học Vicenza tại Venise, Téhéran (Ba Tư), Perth (Tây Nam Úc), Trường nhạc Algerie, ba lần tại Đại học Hawaii, hai lần tại Đại học California (UCLA), Carbondale (Southern Illinois), ba lần tại Nhạc Viện Hà Nội và nhiều lần tại lớp thể nghiệm dạy nhạc dân tộc trên cấp đại học của Viện Nghiên cứu âm nhạc và múa do cố giáo sư Lưu Hữu Phước làm Viện trưởng.

Giáo sư Trần Văn Khê thường nói trong 20 năm vừa qua, ông đã “đốt đuốc tìm học trò” và trong nhiều buổi thuyết trình giáo sư có nhắc đến nhiều môn sinh mà ông đang theo dõi và thực hiện được một số công trình âm nhạc.

Băng Châu (ghi) (Theo Dân Trí, 24/6/2015)