← Quay lại trang sách

- 4 -

Trang ngồi một mình trong phòng riêng. Tuy không khóc, nhưng theo thói quen, nàng vẫn lật tay áo thấm hai mắt. Cảm thấy cô đơn trong gia đình người ngoại quốc này, nàng than vắn thở dài, thím Hoàng vào nàng cũng không cần giấu giếm che đậy.

Các mối liên hệ giữa Trang và thím Hoàng thật là phức tạp. Đều là người Trung Hoa sống trong một gia đình ngoại quốc, lại là bạn đàn bà giữa đám đàn ông, tự nhiên hai người cảm thấy cần gần gũi thân mật với nhau. Nhưng một người đã về già và không còn đẹp nữa, người kia còn trẻ măng và rất xinh đẹp. Không cần phải dò hỏi lẫn nhau, họ đều rõ đời riêng của nhau. Trang biết thím Hoàng xưa kia cũng do gia đình này mua để làm a hoàn như nàng. Nhưng thím ta đã giữ phận a hoàn đến mức nào? Hay trái lại đã đóng một vai trò gì hơn thế không? Vì khôn ngoan dè dặt thím Hoàng chưa bao giờ và chắc chắn sẽ không bao giờ nói cho ai biết điều ấy. Ngoài ra, Trang đâu có chịu sánh mình với thím Hoàng. Thím ấy không biết đọc cũng không biết viết. Thông minh và tốt bụng nhưng thím ấy vẫn giữ vẻ tầm thường hạ cấp. Trang thì đã đọc rất nhiều sách, đôi khi được đàm luận văn chương với cả ông Era. Nàng đã cùng Đavít nghe cụ đồ giảng giải Tứ Thư, Ngũ kinh và hơn thế nữa nàng và chàng rất tương đắc về tri thức và tư tưởng, một điều không thể nào có được giữa thím Hoàng với ông Era. Trang đã hướng dẫn Đavít về âm nhạc và thi văn. Hai người đã cùng nhau đọc lén những bộ tiểu thuyết như Hồng Lâu Mộng và đến đoạn nữ chủ nhân trẻ trung và ưu sầu thả từng cánh hoa theo dòng nước, Đavít thấy Trang rơi lệ, đã choàng cánh tay lên vai nàng a hoàn xinh trẻ để nàng tựa vào chàng mà khóc.

Lâu nay, vui hay buồn, vừa ý hay bất bình không một điều gì chàng giấu nàng bao giờ. Nhưng nay, một việc đã làm Trang băn khoăn khó hiểu. Vì sao chàng không làm cho xong bài thơ? Chàng có biết nàng đã lấy bài thơ bỏ dở rồi không? Trang không dám hỏi thẳng Đavít, sợ rồi phải thú thật với chàng rằng không những nàng đã lấy bài thơ mà còn làm thêm cho xong và tới Khương phủ trao cho Tam Nương. Nàng ngại chàng nổi giận và hỏi vì sao nàng đã hành động như thế thì biết trả lời làm sao?

Thật thế, không khi nào nàng có thể giải thích với Đavít về hành động nói trên được. Lâu nay, nàng vẫn dè dặt không dại gì mà thổ lộ mọi tư tưởng, mọi tình cảm với chàng, vì nhờ một bản năng đặc biệt của nữ giới, nàng biết rằng người đàn ông không muốn biết tất cả về người đàn bà. Vì thế, nàng không bao giờ hỏi ý kiến Đavít về một vấn đề mà nàng thắc mắc hoài không giải đáp được: đời buồn hay vui? Không phải nàng muốn nói đời của chính nàng hay đời một người nào khác, mà là đời nói chung: đời buồn hay vui? Giải đáp được câu hỏi này tất Trang sẽ tìm được một hướng đi. Vì nếu đời có thể và phải là vui sướng, thì tại sao Trang lại không cố gắng để tranh thủ tất cả những gì có thể tranh thủ được? Nhưng nếu rốt cuộc đời là buồn khổ thì tốt hơn là thỏa mãn với những gì ta hiện có. Câu hỏi này bây giờ lại được đặt ra một cách khẩn thiết, nhưng nàng vẫn không thể nào giải đáp được.

Thím Hoàng bình tĩnh nói:

- Thím biết thế nào chị cũng buồn phiền.

Thím ngồi xuống chống hai bàn tay mập mạp lên đầu gối đăm đăm nhìn Trang tiếp:

- Chị với thím chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau.

Trang ngẩng đôi mắt ưu sầu nhìn khuôn mặt phúc hậu của thím Hoàng, giọng thiểu não:

- Thím hai…

- Chị có điều gì cứ nói thiệt đi xem nào.

- Thím ạ, hình như nếu tôi giải đáp được một câu hỏi thì tôi có thể sắp xếp đời tôi.

- Câu hỏi gì thế?

Nói với thím Hoàng về việc này đâu có phải là dễ dàng. Không khéo thím ta đã không hiểu lại còn chế nhạo cho. Lâu nay, Trang chỉ giao tiếp với thím ta về việc bếp núc, trà lá, quét tước, dọn dẹp, nói tóm lại là công việc nhà. Nhưng lòng nàng tan nát khi nghĩ đến những điều đang đợi nàng nếu Đavít lấy Lịch. Nàng thỏ thẻ:

- Thím Hai, thím chớ cười tôi nhé.

- Không, thím không cười đâu.

Trang chắp hai tay lại trên đầu gối, thủng thỉnh nói:

- Đời buồn hay vui?

Hình như thím Hoàng đã hiểu câu hỏi của Trang, thím nói vẻ nghiêm trọng:

- Lạ nhỉ?

—Lạ thực!

Không lộ gì vẻ ngạc nhiên hay ngơ ngác, thím Hoàng quả quyết:

- Đời buồn.

Trang có dáng ngẫm nghĩ:

- Thế thì chúng ta không trông mong gì có hạnh phúc sao?

Thím Hoàng lại quả quyết:

- Chắc chắn là không.

- Thím nói điều ấy với dáng vui vẻ đến thế à?

Giọng Trang nghe thiểu não, và nàng khóc òa.

Thím Hoàng dỗ dành:

- Chị chỉ tìm thấy hạnh phúc khi nào chị hiểu rằng đời là buồn. Chị hãy nhìn thím thử mà xem. Thím đã xây biết bao mộng đẹp, nuôi biết bao hy vọng, trước khi hiểu rằng đời là buồn! Sau đó, thím thôi không mơ tưởng nữa, không hy vọng hão huyền nữa. Bây giờ, thím gặp những điều tốt lành thường làm cho thím vui sướng. Thím không trông mong gì cả, vì thế mà bất cứ gì cũng là một điều hạnh phúc đối với thím.

Thím ta nhổ nước miếng ra ngoài sân qua khe cửa sổ rồi tiếp:

- Thế đấy. Đời là buồn. Chị hãy cam chịu vậy.

Trang lau nước mắt:

- Xin cảm ơn thím dạy bảo.

Sau một hồi ngồi yên lặng, mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình, thím Hoàng âu yếm bảo Trang:

- Chị phải nghĩ đến bản thân. Nếu chị muốn ở suốt đời dưới mái nhà này, chị phải tìm biết ai sẽ là vợ của thiếu gia. Dù muốn hay không, người đàn ông cũng bị vợ điều khiển. Người vợ có quyền nhờ địa vị của mình trong phòng loan. Vậy chị hãy chọn vợ cho Đavít.

- Tôi chọn?

Thím Hoàng gật đầu.

Trang hỏi tiếp:

- Trước kia thím có chọn bà nhà ta không?

Thím Hoàng lúc lắc đầu:

- Thím ấy à, trước kia thím buộc lòng phải chọn lấy một bề mà thôi: ra khỏi nhà này… hay ở lại.

Trang dịu dàng:

- Và thím đã ở lại.

Thím Hoàng đứng dậy:

- Thôi thím phải đi bưng thức ăn sáng vào hầu bà đã.

Sau khi thím Hoàng ra khỏi, Trang ngồi một mình tiếp tục suy nghĩ. Công việc đang chờ nàng. Qua bức cửa để ngỏ, con chó xù Bắc Kinh lặng lẽ bước vào phòng, vì theo thói quen nó chỉ sủa khi có người lạ mà thôi. Nó tới gần Trang và nhìn nàng tỏ vẻ van lơn những vẫn im thin thít.

Trang bảo:

- Ừ, chút nữa tao quên mày.

Nàng đứng dậy, lấy chiếc bàn chải bằng rễ tre và quỳ gối xuống nền nhà, nàng chải bộ lông vàng óng ánh của con chó nhỏ. Con vật thích thú đứng yên không nhúc nhích, đôi mắt to tướng lim dim trong lúc Trang vạch tai vạch mũi chải những sợi lông ở phía dưới vành tai hay chung quanh lỗ mũi. Nếu là một con mèo thì nó đã kêu khò khò kia đấy, nhưng con chó xù nhỏ chỉ ngúc ngoắc chiếc đuôi.

Tuy vậy, Trang cũng không quên rằng con chó xù chỉ là một con vật. Săn sóc cho nó xong, nàng rửa tay sạch sẽ, lại ghế ngồi và tiếp tục ngẫm nghĩ. Con chó xù nằm trước thềm đá, nhướng đôi mắt lên hai ba lần, ngáp được một con ruồi mới chịu ngủ.

Trang tư lự nhìn nó. Trong nhà này được mọi người ưa, nó cũng hoàn toàn sung sướng, một con chó có thể dự phần vào một toàn thể. Trang suy nghĩ, không bị một ai đến quấy rầy. Nếu là một ngày khác, người ta đã đến gọi nàng nhiều lần rồi, và sự yên tĩnh này báo cho nàng biết trong nhà đã xảy ra một sự kiện mới mẻ, lạ lùng, một sự kiện mà nàng phải thích nghi nghĩa là phải đầu hàng, phải thừa nhận, phải khép mình theo khuôn phép mới. Bất kỳ Đavít ở đâu, và dù có thế nào đi nữa, nàng cũng sẽ ở đây. Nàng sẽ mãn nguyện được nghe một lời chúc của chàng, và thỉnh thoảng nếu chàng cho phép, được hầu hạ chàng, dù là chỉ để săn sóc áo xống cho chàng; nàng sẽ lấy việc ấy làm ý nghĩa của đời nàng…

Trang ngồi yên không nhúc nhích; phút giây lặng lẽ trôi qua mãi cho đến lúc các sinh vật nhỏ bé sống yên lành sau tủ, sau giường, sau rèm, sau cửa, bắt đầu hoạt động. Từ một kẽ hở trên mái nhà, một con cào cào kêu inh ỏi, một con thỏ trụt xuống thềm caro và đứng hai chân nhảy múa một mình dưới ánh nắng xuyên qua cửa sổ. Trang đột nhiên cảm thấy vui thú, nàng phá lên cười và một con vật bé bỏng vội nhảy trốn. Trang vẫn ngồi tươi cười hớn hở, sự lo âu đã tiêu tan. Người ta có thể tự tạo bao niềm vui thú hồn nhiên! Bao sinh mệnh nhỏ bé sống hạnh phúc trong mái nhà này núp dưới bóng những sinh mệnh lớn lao hơn. Trang sẽ là một trong những sinh mệnh nhỏ bé kia. Một cảm giác mới lạ xâm chiếm người nàng, một cảm giác êm dịu quá để có thể gọi là sức mạnh, và trầm tĩnh quá để mà trở thành năng lực.

Nhưng nàng thấy tinh thần sảng khoái. Nàng đứng lên chải tóc, soi vào gương và thấy mặt mày nhợt nhạt bèn lấy phấn son trang điểm. Xong, nàng ngắm bóng mình một lúc và vấn tóc lên vành tai, nàng cài thêm một chiếc trâm nạm ngọc. Công việc đang chờ đợi, nàng không thể bỏ qua được – mai đã là ngày lễ Sa Ba và cả bữa cơm tối nay cũng cần lo sắp đón cho đặc biệt. Trang phải đánh bóng các cây đèn bạc, các bình đựng rượu, và sắp lên bàn món bánh rơm, nhưng nàng lại ngồi xuống, chần chờ, mặc dù biết còn bao việc phải làm. Một lúc sau, nàng lấy bút mực cùng giấy tinh trong hộc bàn và hối hả viết bốn câu. Bài thơ không dính dấp gì đến hoàn cảnh của Trang, mà là để họa lại bài thơ đã đưa đến Khương phủ, và ý thơ là để diễn tả ánh dương khao khát các giọt sương đọng trên hoa tươi buổi sáng.

Làm xong bài thơ, Trang cất vào yếm và đi lo công việc chuẩn bị cho ngày lễ Sa Ba.

Trong khách đường, không ai thấy Trang đã đến cả. Ông bà Era và Cao Liên mải nhìn Đavít và Lịch với những cảm tình khác nhau lúc người thiếu nữ xinh đẹp cúi đầu hôn chiếc vỏ gươm sáng chói. Đối với bà Era cử chỉ ấy có nghĩa là Lịch tận tụy với trách vụ đã được giao phó. Cao Liên nhìn đăm đăm bà Era, thấy mặt bà biểu lộ một vẻ tươi vui, một niềm tin tưởng cao độ, và hiểu rằng mỗi hy vọng thầm kín nhưng rất dễ đoán của bà sắp sửa thành sự thật. Cao Liên ái ngại cho Đavít. Lịch đẹp, điều đó rõ ràng ai cũng thấy, nhưng ông ta đoán biết nơi nàng cái trạng thái tâm trí rất phổ cập nơi nhiều người đàn bà Do Thái. Theo ông ta, cái trạng thái ấy nó bắt, nó đưa con người đến cái chủ nghĩa phân ly kia mà hiện giờ Cao Liên rất sợ và rất ghét. Ông ta tự nhủ: "Một người đàn bà không nên quá yêu Chúa, vì nếu yêu Chúa hơn chồng, người đàn bà tự coi mình có quyền phán đoán chồng và do đấy sẽ quấy rầy chồng không ít."

Ông Era có vẻ bối rối hơn hết. Không lúc nào bằng lúc này ông muốn hòa mình trong lòng đất nước giàu có và khoan dung này, nơi mà tổ tiên ông đã sinh cơ lập nghiệp. Ông e ngại sắc đẹp của Lịch. Ông sợ con trai xiêu lòng trước cái thần khí tỏa ra từ người thiếu nữ. Đavít chịu ảnh hưởng của mẹ hơn cha, ông Era rõ điều đó lắm. Chàng không có nguồn an ủi của một người mẹ Trung Quốc vui tươi và rộng lượng sẵn sàng phớt đều việc người đời cũng như việc Trời Đất và xét đoán mọi việc với con mắt lạc quan, hoan hỷ. Không! Dòng máu kia dù có lưu truyền trong huyết quản của Đavít, dòng chính của bản thân, chàng đã thụ hưởng của mẹ chàng, một người mẹ luôn luôn chú ý đến chàng với đôi mắt trừu mến nhưng nghiêm khắc.

Ông Era ngồi không yên, hết dặng hắng đến bứt râu tỏ vẻ bất bình:

- Kìa, cô Lịch… thanh gươm nhơ bẩn này đã không nằm trong tay phường phàm phu tục tử, cặn bã của mọi quốc gia xã hội sao?

Giọng nói khó chịu, khinh bỉ ấy đã làm cho Lịch ngơ ngác. Nàng bẽn lẽn thụt lùi, lấy tay sờ má mình và ấp úng:

- Con đã không nghĩ đến điều ấy.

Bà Era bênh vực:

- Lịch hôn thanh gươm là rất đúng. Nàng đã hành động theo ý ơn trên.

Đavít thường ngày hay nũng nịu chống lại ý kiến mẹ, nhưng lần này chỉ nói một câu vô tư lự:

- Tôi sẽ treo thanh gươm lên tường, phía sau án thư của tôi, để làm đồ trang trí.

Cao Liên tán thành:

- Đúng đấy, để thanh gươm này không còn bao giờ được vung lên sát hại một nhân mạng nữa!

Ông Era đứng dậy bảo Cao Liên:

- Thôi xin hiền huynh cho sắp xếp đồ đạc lại đi.

Ông lấy cho Trang chiếc lược đã chọn, cố tình quên Lịch như là không có nàng ở đấy, xoay lại phía bà Era nói:

- Bà nó ạ, tôi thấy đói lạ. Bà bảo chúng nó dọn cơm tối cho sớm nhé.

Rồi đột nhiên, ông bước ra khỏi phòng.

Lịch đứng yên lặng có vẻ ngượng nghịu, bẽn lẽn. Chính Đavít hình như cũng quên chú ý đến nàng. Chàng mải thử cắt lớp vải thô bọc ngoài các kiện hàng để xem thanh gươm bén đến mức nào. Chàng vui mừng reo lên:

- Bác Cao xem này, bén quá!

Cao Liên sắp gọi bọn người nhà vào xếp hàng lại, vội xoay lui, bình tĩnh nói:

- Xin cậu đừng bao giờ thử vào bàn tay đấy. Chỉ một cái phát nhẹ thôi cũng đủ đứt ngang một thân hình vạm vỡ. Tôi đã mục kích điều đó rồi.

Cao Liên bước ra. Lịch vẫn đứng yên chỗ cũ phân vân, hết nhìn bà Era lại nhìn Đavít. Nhưng bà Era chỉ đắm đuối nhìn con trai, và Đavít cảm thấy nét nhìn trang trọng và thâm trầm của mẹ đè nặng lên người chàng, nên chàng vẫn mải miết lấy gươm cắt vải.

Mãi một lúc sau, bà Era mới nói, mắt vẫn đăm đăm nhìn Đavít:

- Lịch, bây giờ con có thể lui về phòng riêng của con.

Lịch chưa kịp lui ra, Đavít đã ngẩng đầu lên nói:

- Con cũng xin phép mẹ đi treo thanh gươm đây.

Và chàng hối hả bước ra phía cửa gần nhất.

Lịch e lệ:

- Thưa dì, thế bây giờ con có phải lui ra nữa không?

Nàng muốn thét lên, muốn hỏi nàng đã làm điều gì không phải, nhưng nàng không dám, nàng chỉ đứng yên, cúi đầu, đợi bà Era chỉ bảo:

- Con lui ra… Về phòng riêng đi!

Giọng bà Era tuy không xẵng, nhưng hàm ý rõ rệt rằng bà muốn được yên tĩnh một mình.

Lịch vội vã vâng lời.

Sáng ngày lễ Sa Ba, Đavít thức dậy muộn sau một đêm đã thao thức vì có cảm giác rất mệt mỏi lạ lùng chiều hôm qua.

Lần đầu tiên trong đời chàng, hình như chàng đã thấu hiểu mẹ chàng, thấu hiểu bản chất của bà cùng những điều bà đã cố công dạy dỗ chàng. Nằm dài trên giường trong ánh sáng lờ mờ và êm dịu lọt qua các bức màn thêu, chàng thấy mình khác hẳn con người mà lâu nay chàng đã tưởng – nghĩa là một thanh niên tự làm chủ lấy mình, tự do sống theo ý muốn, chơi theo sở thích, không bị ràng buộc bởi một mối liên hệ nào. Bây giờ, chàng cảm thấy mình là một phần tử của một toàn thể, của một dân tộc rải rác khắp bốn phương trời, nhưng vĩnh viễn thống nhất và bất khả phân. Dầu có ở đâu và dầu sống lẻ loi chăng nữa, một người Do Thái vẫn thuộc dân tộc mình.

Mẹ chàng vẫn nhắc chàng điều đó từ buổi sơ sinh, nhưng điều đó lướt qua trí chàng như nước đổ lá môn. Và bây giờ chàng mới hiểu, không phải với trí não mà với tất cả một bầu nhiệt huyết. Vì sao dân tộc chàng bị tàn sát? Nộ khí xung lên đầu chàng. Nếu thiên hạ, ở các nước ngoài kia, tìm cách tiêu diệt đồng bào chàng, thời ở đây trong sự yên ổn của xứ sở này, chàng phải cố gắng duy trì sức sống của giống nòi. Chàng sẽ bắt đầu học tất cả những gì liên hệ đến dân tộc chàng. Hai năm nay, chàng chống lại ý muốn của mẹ và từ chối theo học thánh kinh với vị giáo trưởng già. Chàng viện cớ không rảnh. Chàng muốn có nhiều thì giờ đọc sách; chàng phải tỏ ra chăm chú đến công việc thương mại để vừa lòng thân phụ; và chàng cũng muốn đi du lịch. Nhưng mẹ chàng không buông cho chàng ra đi trước khi chàng có vợ và có con trai. Lâu nay, chàng cho đó chỉ là một tục lệ do mẹ chàng bịa đặt ra để giữ chàng, nhưng bây giờ, không cần phải suy nghĩ và xét đoán, chàng cảm thấy, tận đáy lòng mình, rằng có con trai làm một bổn phận. Nếu một số người thuộc nòi giống chàng bị tàn sát, một số khác phải sinh ra. Sinh nở bù đắp cho chết chóc.

Lần đầu tiên trong cuộc đời đầy hoan lạc, Đavít suy nghĩ đến những điều cao cả. Chàng ý thức được nguồn gốc sâu xa của nòi giống, di truyền bởi cha mẹ, nhưng bởi mẹ chàng nhiều hơn. Chàng hiểu, tuồng như mẹ chàng ngăn đón chàng, không cho chàng tự chủ, nhưng kỳ thật bà chỉ tìm cách bảo vệ và cứu rỗi chàng.

Và từ mẹ, Đavít liên tưởng đến Lịch, chiều hôm qua nàng xinh đẹp biết bao! Hai người không tâm sự riêng tư, nhưng họ đã cảm thấy cùng nhau thắt chặt bởi những liên hệ của huyết thống, của tâm tình và của lý trí. Dân tộc họ, thật thế, là một dân tộc độc nhất có một vận mạng, do Dêhôva vị chân Chúa duy nhất dành riêng. Đavít nhận thấy mình đã phạm trọng tội, chàng có cảm tưởng là đã phản bội Chúa với cuộc đời vô tư và hoan lạc trong một nước ngoại giáo. Trong lúc đồng bào chàng đau khổ và chết chóc, chàng mải cười đùa, vui chơi và lãng phí tuổi xanh. Chàng ôn lại các sở thích, những cuộc đỏ đen trong các trà đình tửu điếm, những buổi chiều mùa hạ nhàn du trên thuyền ca, và những buổi sáng trăng đờn địch, hát xướng trong sân, hương sen ngào ngạt. Chàng liên tưởng đến bạn của phụ thân chàng, ông Khương Sơn, và hình ảnh Quí Lan hiện ra trong trí chàng, ngây thơ duyên dáng trong tuổi thanh xuân. Đavít quen gương mặt xinh xắn này như đã thấy hàng trăm lần, đôi mày ngài thanh tú, đôi mắt đen nhánh, đôi môi đỏ mọng, làn da mịn màng và thân hình mảnh mai, uyển chuyển như một cành liễu. Nhưng chàng nhớ đến các điểm trên cũng vì Trang. Trang cũng mảnh mai, cũng có đôi môi đỏ mọng và đôi mắt tươi sáng. Biết bao lần, họ đã cùng cười vui vẻ… Đavít phải giữ lắm mới khỏi mỉm cười. Trong lúc vui chơi, thì những người thuộc nòi giống chàng bị xua đuổi. Tại những thành phố khác, giữa những dân tộc khác, đồng bào chàng nằm chết ngổn ngang dọc đường. Hối hận, chàng đứng dậy định đến thăm mẹ và hứa sẽ cùng bà đến giáo đường ngay trong sáng nay. Chắc bà sẽ vui lòng lắm.

Rửa mặt và thay áo xong, ra đến trước vườn đào, chàng trông thấy, qua cửa vòng nguyệt phản chiếu trong mặt hồ phẳng lặng những đóa hoa đào nở muộn. Cảnh vật xinh tươi, không khí ấm áp và dầu muốn buồn bã, một niềm vui bỗng rung động lòng chàng. Chàng lên tiếng gọi nho nhỏ:

- Trang!

Không ai đáp lại, như thường, Trang giả vờ điếc mỗi khi nàng ở ngoài vườn đào. Thật là một cô bé nghịch ngợm và ranh mãnh. Chàng mỉm cười và bước qua cửa vòng nguyệt. Bây giờ đến giáo đường thì còn sớm quá và chàng thôi không đến thăm mẹ nữa.

Bà Era vui mừng không sao ngủ được. Trái tim bà, lắm lúc bị cô đơn trong ngôi nhà này, đã được yên ủi. Bà cho là chính Lịch đã thức tỉnh tâm hồn mê muội của Đavít. Tâm hồn này sẽ thức tỉnh cùng với tâm hồn ông Era. Nhưng không phải chỉ một mình Lịch, mà Dêhôva đã ban phép lạ cho nhà này vào lúc thích hợp. Đoàn thương hồ đã về cùng một ngày với Lịch. Khi lo ngại sự trùng phùng ấy, bà đã mù quáng và kém đức tin xiết bao!... Cảnh tàn sát mà Cao Liên diễn tả, Lịch bước vào phòng nhằm lúc Đavít âu sầu cảm động, niềm tin tưởng, sự khéo léo mà Lịch đã vận dụng để chuyển mối sầu cảm này thành một thứ khí giới đánh mạnh vào lương tâm ở Đavít, tất cả các sự kiện trên chỉ có thể là do bàn tay của Chúa.

Đầu hôm, lúc ông Era vào phòng vợ, thay vì nằm dài bên mình vợ, ông ngồi xuống bờ giường, cầm lấy tay bà. Hai vợ chồng đã cùng nhau bàn luận một cách đứng đắn và sâu sắc, xứng là một đôi vợ chồng Do Thái.

- Naomy ạ, bây giờ tôi bằng lòng để Đavít học thánh kinh.

Nghe chồng nói mấy lời trên, bà Era thầm cám ơn Chúa. Trước kia, Đavít đã theo học với giáo trưởng cho đến hôm chàng ương ngạnh không chịu học nữa. Hôm ấy, ông Era đã không khuyên nhủ con mà còn viện lẽ rằng Đavít đã đến tuổi tập tành công việc thương mại, chàng không đủ thời giờ để vừa học thánh kinh vừa lo công việc làm ăn. Đắc thắng, Đavít đã theo cha giao thiệp với các hãng buôn Trung Quốc và làm quen với đám thanh niên con các thương gia này. Vì vậy mà chàng đã đến nhà ông Khương Sơn và gặp Quí Lan.

Bà Era nén nỗi vui mừng, bà nói:

- Cám ơn mình.

Ông Era tiếp lời:

- Chúng ta không thể làm gì cho dân tộc chúng ta ở các nơi khác được. Chúng ta ở đây là hợp lý vì ở đây chúng ta được yên ổn.

- Cho đến ngày một vị cứu tinh đứng dậy và hướng dẫn chúng ta về nơi quê hương xứ sở.

Ông Era khẽ ho rồi nói:

- Đôi khi tôi tự hỏi vì sao chúng ta cứ nghĩ có ngày chúng ta rời bỏ đất Trung Quốc này.

Naomy xem, chúng ta ở đây đã bốn đời, và đến đời con cái của Đavít là năm. Người Trung Quốc họ rất tốt đối với chúng ta.

- Tôi ngại lòng tốt ấy lắm…

Và bà Era rút tay ra, nhưng sợ chồng thay đổi ý kiến về vấn đề học hành của Đavít, bà lại đặt tay mình vào hai tay chồng. Hai người không còn nói thêm gì nữa và một lúc sau ông Era trở về phòng riêng.

Rạng sáng ngày lễ Sa Ba – một ngày lễ Sa Ba mới, tưng bừng hoan hỉ đối với bà Era, vì tất cả gia đình sẽ cùng nhau đến giáo đường. Trong nhà, hoàn toàn yên tĩnh, mọi người đều nghỉ việc. Bên ngoài la thành, tiếng ồn ào của thị trấn ngoại giáo này chỉ còn nghe văng vẳng. Ở trong nhà bà Era lại cảm thấy biểu hiện của Chúa, một sự biểu hiện có kèm theo những nỗi lo buồn thật đấy, nhưng Chúa có ở đây, luôn luôn gần gũi hơn dân tộc của người trong thời kỳ thử thách.

Lúc chồng ra khỏi phòng, bà Era đã lẩm nhẩm khấn hứa:

- Từ đáy vực thẳm, chúng con kêu gọi đến Chúa. Ôi Dêhôva!

Bà Era vận y phục quí giá nhất để mừng ngày lễ này, một chiếc áo sa tanh đỏ thắm, hai tay viền kim tuyến.

Và Lịch, cô gái khả ái kia, phỏng nàng có hiểu nàng đã vâng theo ý Chúa đến mức nào chưa? Cần phải giữ lấy tất cả những gì mà nàng đã thâu đoạt ngày hôm qua, dìu dắt bởi ơn trên. Trong lúc bồng bột, bà Era quay lại phía thím Hoàng đang túc trực đợi giúp bà trang sức:

- Đi mời cô Lịch đến đây.

Thím Hoàng sáng trí đã hiểu thấu tận lòng bà Era khi bà thốt ra mấy lời trên. Thím liếc nhìn chủ và sắp bước ra cửa không nói một lời gì. Chợt bà Era ngăn lại:

- Thôi để ta thân hành đi.

Thím Hoàng nhún vai và đứng xê một bên để nhường lối chủ bước ra.

Vậy là sáng sớm ngày lễ Sa Ba, Lịch thấy bà Era đến phòng nàng. Đêm qua nàng đã ngủ một giấc ngon lành, khoan khoái. Nàng đã vâng theo ý Chúa. Ngày hôm qua, chỉ một lần thôi, nàng đã cảm thấy có sức gì thúc đẩy nàng ra khỏi phòng riêng và đến hội họp cùng mấy người kia. Nàng đã đến sảnh đường đúng vào lúc mà tâm trí Đavít đang xao xuyến và nung đốt bởi cơn thịnh nộ của Chúa. Khi nàng vén bức màn cửa, nàng thấy Đavít đang quỳ như quỳ trước bàn thờ, cầm một thanh gươm bạc trên đầu gối. Chàng ngước nhìn lên và bốn mắt gặp nhau. Và Chúa đã đặt trên môi nàng những lời mà nàng đã thốt ra. Trong đêm nàng đã thức giấc, nhớ lại vẻ mặt Đavít nhìn nàng, nàng mỉm cười và ngủ lại.

Sáng hôm ấy nàng đọc kinh cầu nguyện và nghĩ đến phụ thân; không biết người có được mạnh chăng? Arông có ngoan hơn chăng? Em nàng có vâng lời Rasen chăng? Rồi ngây thơ nàng tự hỏi, phải chăng Đavít sẽ đến thăm nàng, cho người đến với nàng, hay bà Era sẽ cho gọi chàng và nàng cùng nhau sum họp. Suốt bữa cơm tối hôm qua, Đavít không nói gì, điều đó nàng thấy rất tự nhiên, chính nàng cũng không nói gì. Hơn nữa, nàng không còn gì để lo ngại cả. Ơn trên đã phù hộ cho nàng.

Lịch đi đi lại lại sáng hôm ấy, mơ mộng, tươi cười, đôi mắt xa xăm. Nàng dạo quanh sân rồi lui vào phòng. Nàng cảm thấy tràn trề hạnh phúc và tin tưởng cho nên chợt thấy bà Era nàng vội vã ra đón bà, miệng thỏ thẻ:

- Dì yêu quý của con.

Xúc động vì sự nồng nhiệt của Lịch, bà Era nói:

- Con, hôm nay con có vẻ sung sướng lắm?

Lịch ngẩng đầu đáp:

- Không, con vẫn ở đây.

Bà Era chỉ có ý định này ngay trong lúc ấy. Ý định này đã đến rõ ràng và giản dị quá làm cho bà có cảm tưởng chắc chắn là do Chúa xui nên.

- Dì sẽ thưa chuyện với thân phụ con trước giờ hành lễ, còn con tin cho Đavít biết ngay bây giờ. Nhưng thôi, để dì nói trước với Đavít tiện hơn. Rồi con sẽ đi với dì và hai con sẽ nói chuyện cùng nhau. Hôm qua là hôm qua, hôm nay là hôm nay, chúng ta phải tùy từng lúc mà hành động để chúng ta có thể đi đến đích.

Bà Era siết chặt tay Lịch, buông ra rồi đứng dậy.

Lịch ngây thơ hỏi:

- Đích nào, thưa dì?

Bà Era thản nhiên đáp:

- Cuộc hôn nhân của Đavít… và của con. Bây giờ đúng lúc lắm. Dì chưa bao giờ thấy Đavít xao xuyến bằng hôm qua.

Lịch bối rối hỏi:

- Bây giờ sao?

- Ừ.

Bà Era vừa nói vừa bước ra phía cửa. Bà không muốn nghĩ ngợi gì hơn về những điều Lịch có thể hoặc phải làm. Chỉ cần cho đôi trẻ hội ngộ, ngoài ra đã có Chúa sắp xếp.

Ra đến ngưỡng cửa, bà quay nhìn lại đằng sau. Lịch không nhúc nhích, vẻ bối rối, hai tay nàng siết chặt lấy nhau.

Trước khi đi ra, bà dặn Lịch:

- Con hãy nói về Chúa với Đavít.

Lịch chưa kịp suy nghĩ kỹ về các lời của bà Era thì thím Hoàng đã đến thưa:

- Thưa cô, bà của con mời cô ra ngoài vườn đào!

Thím Hoàng đứng đợi Lịch sửa soạn để theo thím ra vườn.

Vườn đào là nơi Đavít ưa thích nhất, bà Era đã đến đây sau khi từ giã Lịch. Bà thấy Đavít một mình đứng dưới gốc đào, vẻ mặt bối rối.

Bà ngọt ngào gọi:

- Đavít con.

- Dạ, thưa mẹ!

Miệng chàng nói, nhưng trí chàng đang nghĩ vẩn vơ. Ở trong vườn này, hình như cảnh chết chóc ở tận đâu đâu! Không khí ngày Sa Ba yên tĩnh quá. Vườn rộng, thành lại cao nên sự ồn ào bên ngoài không lọt vào đến tai chàng. Bình sinh Đavít rất ghét cảnh tịch mịch. Ngày thường, ra vườn không gặp Trang thì chàng vội vã băng qua cổng đi tìm bạn bè, cùng nhau dạo phố và xem có gì mới lạ xảy ra từ hôm trước không. Thị trấn Khai Phong ở nửa đường giữa miền Hoa Bắc và miền Hoa Nam, khách thường dừng chân tại đây để nghỉ ngơi lấy sức và thưởng thức cao lương mỹ vị tại các quán xá nổi danh của thị trấn này. Những phường xiếc với đủ trò ảo thuật trên mười ngón tay, những phường hát dạo từ Bắc Kinh đến, hằng ngày trổ tài trong các sân đền hoặc la cà hết trà đình này đến tửu điếm khác để mua vui cho khách khứa.

Nhưng sáng hôm ấy Đavít không còn lòng dạ nào để nghĩ đến các trò giải trí nói trên. Chàng không muốn rời khỏi ngôi nhà kín cổng cao tường này. Ở đây thật là yên ổn! Chàng có cảm giác như vậy vì ở trong tâm trí của chàng, những bóng ma gợn lên tựa những thây chết đuối trồi lên mặt nước.

Bà Era nói:

- Cha con và mẹ đã quyết định cho con học kinh Tôrát.

Bà đã nhiều lần nhắc nhở điều này, lần nào chàng cũng gạt đi viện cớ rằng quá bận, nhưng lần này chàng đáp:

- Thưa mẹ, con rất sẵn sàng!

Chính chàng cũng ngạc nhiên và xúc động thấy ý định của mình phù hợp với quyết định của song thân, nhưng chàng không bộc lộ cho mẹ chàng biết.

Bà Era lại nói:

- Hôm nay sau khi dự lễ ở Thánh đường, mẹ sẽ mời giáo trưởng lại ở đằng nhà ta một thời gian. Như thế tiện cho con hơn. Còn đối với Ngài thì việc dạy dỗ ở đây cũng như ở đằng ấy.

Bà ngẩng đầu nhìn các cây anh đào đang trổ hoa và tiếp:

- Ồ đẹp quá! Chắc là Lịch sẽ vui thích. Để mẹ cho đi gọi nàng.

Bà đã định yêu cầu Đavít gọi Lịch đến, nhưng lại thôi. Mong ơn trên phối hợp đôi trẻ, bà thầm cầu nguyện: “Xin Chúa lưu giữ con tôi lại nơi đây.”

Đavít đã thấu rõ lời cầu nguyện của mẹ không phải bằng thính giác mà chính bằng trực giác và cảm xúc. Chàng đứng yên dưới gốc đào và mẹ chàng vừa đi vừa tươi cười nhìn chàng. Bà gặp thím Hoàng và bảo thím mời Lịch ra vườn đào. Đavít vẫn đứng một chỗ, tựa như đôi chân chàng đã mọc rễ cho đến lúc Lịch bước vội đến cổng vườn.

Chàng thong thả đến đón nàng:

- Lịch!

Sự mầu nhiệm hôm trước tái diễn. Dưới ánh bình minh, nước da Lịch tươi sáng và xanh xanh, với đôi mắt u huyền có vẻ toàn bích. Nàng mặc áo vải trắng dài phết gót, với chiếc thắt lưng hổ hoàng và cài trên đầu chiếc trâm bằng vàng chạm. Nàng xinh đẹp, xinh đẹp hơn một cánh hoa huệ. Danh từ này nhắc Đavít nhớ lại bài thơ chưa hoàn thành và lý do buộc chàng bỏ dở nửa chừng.

Chàng tiếp:

- Lịch rực rỡ tựa bình minh.

Lịch ngước mắt nhìn Đavít. Tim nàng tựa cánh chim bay thẳng hướng về Đavít và nương tựa vào chàng. Bắt đầu từ giờ phút ấy, nàng yêu chàng và chỉ một mình chàng với một mối tình trọn vẹn.

“Chúa ơi! Hãy ban cho con trái tim của chàng.” Câu cầu nguyện xiết bao mạnh mẽ và chân thành này làm rung động tất cả tâm hồn lẫn thể xác Lịch. Đavít xúc động đến run rẩy, cảm thấy mối tình của Lịch tràn ngập, xâm chiếm lòng chàng, tựa nhận lãnh mối tình một tặng vật vĩ đại của một người ngoại quốc. Có lẽ chàng cũng xúc động, những sự xúc động còn mãnh liệt xiết bao đối với một người cùng nòi giống, cùng huyết thống với chàng. Chỉ có hai người trong vườn đào. Trên đầu họ, nền trời êm dịu của một buổi sớm mùa xuân, và nổi bật trên nền trời ấy hoa anh đào mơn mởn với những ngọn lá non xanh tươi. Hai người cảm thấy, tựa một ơn lành, sự yên ổn đang bao trùm họ trong khu vườn này, trái ngược hẳn với các ám ảnh chết chóc ghê rợn và cảnh tàn sát hung bạo mà Cao Liên đã kể hôm trước.

Đavít phân vân do dự, bị giày vò giữa quá khứ xa xăm mà chàng chẳng hề biết với thời thơ ấu đầy hạnh phúc mà chàng đã trải qua. Cái quá khứ xa xăm ấy, chàng chia sẻ với Lịch. Mối liên hệ ấy thắt chặt hai người với dân tộc họ. Chàng buông tay Lịch, và thúc đẩy bởi một cơn bồng bột của trái tim, chàng ôm choàng Lịch và kéo nàng về phía chàng.

Nàng cúi đầu dựa vào ngực chàng, nhắm mắt và thầm cảm ơn Chúa:

“Chúa đã chuẩn y thỉnh nguyện của con.”

Đavít cúi nhìn đôi mắt đen và cong của Lịch, chàng tự hỏi mình đã vừa làm gì trong ngày lễ Sa Ba này. Phải chăng chàng đã chọn lựa? Có lẽ là như vậy, nhưng chàng không rõ đã chọn lựa theo chiều hướng nào.

Bỗng nhiên chàng nghe tiếng mẹ gọi:

- Hai con.

Hai người liền rời nhau khi thấy bà Era xuất hiện phía cổng vườn:

- Hai con theo mẹ đi dùng điểm tâm rồi chúng ta còn cùng nhau đến giáo đường. Gần đến giờ rồi, Đavít ạ, mẹ đã soạn lễ phục của con và để sẵn trên giường của con rồi.

Hai người lặng lẽ theo sau bà Era. Đavít cảm thấy nhẹ nhõm – điều mà chính chàng rất đỗi ngạc nhiên – rằng mẹ chàng đã can thiệp lúc chàng đang ôm choàng Lịch trong tay. Mẹ chàng mỉm cười dò hỏi, chàng cũng mỉm cười đáp lại và chàng không hiểu vì sao chàng lại có cảm giác là đã dối mẹ.

Trong lúc Đavít dự lễ ở Thánh đường. Trang đem hết tâm trí để thuyết phục mụ Chu tại nhà họ Khương. Nàng gợi tánh kiêu căng và khéo lợi dụng sự ghen ghét hoặc tức giận của mụ ta.

Nàng đã quyết định cuộc thăm viếng này trong đêm vừa rồi. Bữa cơm tối áp lễ Sa Ba, nàng thấy khác thường, lặng lẽ và đầy vẻ xúc động. Chính ông Era cũng trầm ngâm, không quan tâm đến các món ăn. Đavít và Lịch gần như không đụng đũa, chỉ riêng bà Era vẫn ngon miệng. Chính bà cũng ít nói, chỉ thường hết nhìn Đavít đến nhìn Lịch.

Nhận thấy mình bị loại, Trang đã sớm rời phòng ăn và đã thức khá khuya để trau chuốt hoàn thành một bài thơ mới. Nàng định bụng sáng sớm sẽ thân hành mang đến nhà họ Khương để dùng vào âm mưa nàng đang theo đuổi – và bây giờ, ngồi dưới bóng một cây thiên tuế, trong một sân nhỏ phía sau vườn, nàng đang trò chuyên ngọt ngào với già Chu:

- Xin thím bỏ lỗi cho! Nàng vừa nói vừa vuốt lại mái tóc mà gió sớm đã tung lên.

Mụ Chu đang thêu dở một chiếc hài sa tanh, ngước mắt mỉm cười hỏi:

- Chị có lỗi gì?

- Thưa thím, hôm qua cháu đã không trở lại thăm thím được như lòng cháu mong muốn, nhưng sau khi nghe cháu trình bày lý do và chắc thím sẽ tha lỗi cho cháu.

Và Trang kể lại cho mụ Chu nghe chuyện đoàn thương hồ về với các tin tức dữ dội: các cuộc tàn sát dân tộc Do Thái, sự buồn rầu của hai ông bà chủ của nàng, sự tang tóc đã lan khắp mọi người trong nhà, vì vậy nàng sợ lại đây sớm quá sẽ mang đến cho nhà họ Khương điềm chẳng lành.

Trang lim dim đôi mắt vẻ buồn bã, nàng cảm thấy cặp mắt sắc bén của mụ Chu đăm đăm nhìn nàng, và nàng dịu dàng tiếp:

- Cháu sợ hôm qua đã thưa chuyện với thím hấp tấp quá. Cháu sợ chưa thấu rõ lòng dạ của thiếu chủ cháu.

Nàng thở dài, mụ Chu đáp:

- Già có nhớ chị nói gì đâu.

Biết mụ Chu giả vời, nàng tiếp:

- Cháu đã nói thiếu chủ cháu chỉ mơ tưởng đến một mình tiểu thư đây, và cháu đã trao cho tiểu thư bài thơ của cậu cháu. Nhưng đánh đùng một cái họ đưa con gái Giáo trưởng lại ở đàng nhà và cháu sợ họ không khỏi dùng những chước quỷ mưu thần để làm cho cậu quên đến cả mối tình thắm thiết đối với tiểu thư.

Mụ Chu khịt mũi rồi đứng dậy. Mụ ta to béo quá cho nên mỗi lần gắng đứng lên là nào kéo, nào khâu, nào vải vóc trên đầu gối mụ đều đổ tung xuống đất. Trang vội vã lượm lên.

Mụ Chu giận dữ bảo:

- Để đấy, kệ tôi. Tốt hơn là chị theo tôi mà gỡ cục vạ chị đã gieo cho nhà này.

Mụ ta đi trước và hất hàm ra hiệu bảo Trang theo mình. Trang có cảm tưởng vào một cung điện, lối đi chằng chịt chẳng biết ngõ nào mà ra.

Tòa nhà họ Khương rất rộng lớn, còn rộng lớn hơn cả nhà ông Era. Mấy thế hệ chồng chồng, vợ vợ, con con, cháu cháu chung sống dưới mái nhà này. Mấy người đàn bà chỉ liếc Trang bằng khóe mắt, còn trẻ con thì nhìn nàng tận mặt, nhưng nàng cứ khiêm tốn cúi đầu bước qua. Cứ vậy cho đến khuôn viên dành riêng cho Khương tiểu thư. Ông Khương Sơn có bốn cô con gái, hai cô lớn đã lấy chồng và theo chồng; Quí Lan là thứ ba, còn cô út là con bà hầu mà ông Khương Sơn đã hối hận đem về, vì bà ta lại say mê anh quản gia cho nên ông buộc lòng phải đuổi cả hai và chỉ bắt cô bé.

Hai chị em đang cúi xuống một sợi dây chơi kéo cưa, lúc mụ Chu và Trang vào. Trang chưa hề thấy Quí Lan mà chỉ biết nàng qua sự mô tả của Đavít. Nhưng thoạt nhìn, Trang nhận thấy sự mô tả của Đavít chưa bì kịp sự thật và Quí Lan quả là một tuyệt thế giai nhân. Trông nàng có vẻ ngây thơ và chẳng lớn hơn em nàng mấy, nhưng mụ Chu vội bảo cô gái đi nơi khác.

Quý Lan hỏi:

- Sao vú lại đuổi em Lí đi?

Trang chăm chú nghe giọng nói thanh thanh ấy.

Mụ Chu không lộ vẻ gì sợ hãi đối với Quí Lan và không trả lời câu hỏi của nàng, mụ lớn tiếng hỏi:

- Bài thơ hôm qua vú trao cho cô đâu rồi?

Quí Lan rút bài thơ trong tay áo ra đáp:

- Đây.

Mụ Chu quắc mắt nhìn Trang trách móc:

- Chị hẳn thấy tội của chị. Tiểu thư đêm ngày ôm ấp bài thơ ấy. - Rồi mụ quay lại phía Quí Lan. - Cô trả ngay bài thơ cho vú. Nó chẳng có nghĩa lí gì, để vú vứt đi cho rồi.

Trang vốn sẵn thông minh suy tính rất mau, nàng nhận rõ Quí Lan đối với nàng sẽ là một người bạn, hơn nữa một kẻ đồng minh để tranh thủ trái tim của Đavít. Nơi Quí Lan không có nghị lực, không có dũng cảm. Nàng có dáng một con mèo con: đôi mắt to như ngạc nhiên, như tinh nghịch, miệng cười chúm chím. Tuy nhìn mụ Chu với vẻ hơi sợ sệt, nàng vẫn giữ chặt bài thơ trong tay, lắc đầu bướng bỉnh nói:

- Tôi muốn giữ bài thơ này. Tôi không muốn vú xé đâu. Tôi không muốn… không muốn.

Mụ Chu ngửa mặt lên trời, sắp sửa nổi giận. Trang thấy vậy vội nói:

- Xin tiểu thư đừng phiền muộn. Tôi chỉ lại đây để nhận phúc đáp của tiểu thư.

Và nàng nói nhỏ với mụ Chu:

- Xin thím chớ giận. Con thấy cả rồi. Bằng cách này hay cách khác con sẽ thu xếp được, thím chớ lo.

Mụ Chu tỏ vẻ hờn dỗi không nói gì. Trang đến gần Quí Lan vui vẻ hỏi:

- Tiểu thư đã viết bài phúc đáp chưa?

Quí Lan cúi đầu lúc lắc:

- Tiểu thư có muốn tôi giúp không?

Quí Lan ngạc nhiên hỏi:

- Chị biết viết à?

- Dạ. - Trang mỉm cười. - Xin tiểu thư cho tôi biết tiểu thư muốn phúc đáp như thế nào. Tôi sẽ viết thay cho tiểu thư.

Quí Lan ấp úng:

- Nhưng tôi biết viết, chỉ có điều là không biết viết gì thôi.

Mụ Chu xen vào:

- Tiểu thư đây chưa viết thư cho trai bao giờ.

Trang vẫn ngọt ngào:

- Không có gì mà tiểu thư phải ngại. Cậu tôi tốt bụng, hiền lành không khi nào làm hại ai. Tôi hầu hạ cậu tôi suốt đời chưa khi nào cậu tôi đánh tôi hoặc để cho ai đánh tôi cả.

Quí Lan nhìn Trang sửng sốt:

- Cả những lúc giận dữ cũng thế à?

Trang mỉm cười đáp:

- Cậu tôi không nổi giận bao giờ.

Quí Lan thở dài, Trang vội thò tay vào yếm rút bài thơ nàng đã làm sẵn và đọc to, giọng dịu dàng:

Gương sen lóng lánh hạt sương chờ

Nhìn thấy triêu dương luống ngẩn ngơ!

Cao vút mây xanh đem đặt để,

Cùng nhau ngự trị thỏa lòng mơ.

Quí Lan lấy ngón tay nhỏ thó theo dõi từng hàng, khi nghe Trang đọc xong, nàng vui thích reo lên:

- Chị cho tôi nào!

Rồi tiếc rẻ, nàng tiếp:

- Giá như do tôi làm…

Trang vội nói:

- Tôi xin biếu tiểu thư, thì cũng không khác gì tự tiểu thư làm.

- Không khi nào chị nói với công tử rằng không phải tôi làm chứ?

- Không khi nào. Nhưng xin tiểu thư tự tay chép lại cho.

- Vú đi lấy một tờ hoa tiên và bút mực nào.

Quí Lan ngồi trầm ngâm với bộ điệu một bà hoàng, để Trang đứng. Khi mụ Chu đã đem văn phòng trí bảo đến, nàng chăm chú viết có vẻ long trọng lắm. Nàng chép xong bài thơ, xếp lại theo một lối đặc biệt đưa cho Trang: “Đây, chị trao lại công tử.” rồi lấy tay ra hiệu cho nàng lui ra.

Trang cúi đầu tạ Quí Lan, nhìn mụ Chu với một nét nhìn đầy ý nghĩa rồi bước ra.

Nếu nàng cứ theo đường cũ khi vào mà đi thì có lẽ nàng đã ra khỏi nhà mà không ai thấy trừ Quí Lan và mụ Chu. Nhưng nàng tò mò muốn nhân dịp xem qua cho biết tòa nhà này, đặc biệt là hồ sen mà nàng nghe nói ở giữa sân chính. Nàng xăm xăm bước về phía sân ấy và khi gặp một nô bộc nhà họ Khương hỏi nàng đi đâu, nàng lạnh lùng đáp nàng vừa lại hầu tiểu thư xong nay trở ra. Rồi nàng cười nói tiếp:

- Nhà này rộng quá, đến lạc đường mất.

Nàng cứ rảo bước cho đến lúc thấy một chiếc cổng hình vòng nguyệt mà nàng đoán chắc là cổng vào sân chính. Nàng rón rén lại gần và nhìn vào trong. Nàng thấy một khuôn viên xinh đẹp, lát gạch xanh, ở giữa: một hồ sen hình bầu dục. Sát chân tường đào, mận sum suê, hoa tươi rực rỡ. Gần hồ, những khóm trúc phất phơ trước gió, và đó đây chim chóc bay lượn nhởn nhơ. Trang ngước mắt nhìn lên và thấy tận trên các bức tường cao có giăng lưới để giữ đàn chim khỏi ba mất.

Trang quên tất cả, nàng bước qua cổng và chậm rãi tiến vào hồ sen. Nước hồ trong vắt, cá vàng lượn quanh, Trang đương mải ngắm thì có tiếng hỏi nàng:

- Này, chị ở đâu đến?

Sửng sốt, Trang ngẩng đầu lên và thấy chỉnh chủ nhân ông họ Khương ngay trước mặt. Với một nụ cười thoảng qua trên môi nhưng đủ làm cho đôi má núng đồng tiền, nàng đáp:

- Bẩm đại nhân, đàng nhà ông Era sai con lại đây tìm một người thợ thêu. Khốn, con không thể cưỡng lại sự khao khát muốn vào xem hoa viên này, nơi mà con đã từng nghe người ta ca tụng không tiếc lời. Cúi xin đại nhân xá tội cho.

Ông Khương Sơn vuốt cằm mỉm cười. Mặt ông vuông, đôi mắt hiền từ, môi dày, mũi rộng. Ông mặc áo dài xám và để đầu trần, chân mang bít tất trắng, giày nhung đen. Hai ngón tay trỏ đều đeo nhẫn ngọc. Tay phải cầm chiếc điếu. Lông mày thưa, râu cạo nhẵn, mặt ông trông có vẻ cởi mở và hòa nhã.

Ông ôn tồn bảo Trang:

- Chị có lỗi gì đâu. Chị cứ tha hồ ngắm xem hoa viên và hồ sen, mỗi ngày cứ giờ này sau bữa ăn là ta ra đây xem cá.

Vừa nói ông vừa lấy chiếc điếu chỉ mặt hồ và Trang cúi nhìn dòng nước trong vắt với đàn cá đang đợi bơi lội thảnh thơi.

Nàng than thở:

- Chúng thật sung sướng! Trong nhà đại nhân đến bầy cá cũng yên vui, sung túc.

- Đằng nhà ông Era có nuôi cá không?

Câu này hình như hỏi cho lấy có nhưng Trang chỉ thấy đó là một câu mở đầu, những câu khác sẽ theo sau.

Nàng vội đáp:

- Bẩm đại nhân có. Đằng ông chủ con cũng có hồ, có cá - và cũng có nuôi chó Bắc Kinh nữa.

Ông Khương Sơn tra thuốc vào điếu, kéo vài hơi:

- Ta thích chơi chim hơn. Lông đã đẹp tiếng lại hay. Mỗi lần đem chúng đến nơi khóm trúc, nghe chúng hót, những chim khác kéo đến từng đàn. Chiều chiều lúc mặt trời sắp lặn, ta thường đem con họa mi ra đấy và sau khi được ăn thịt sống, nó cất tiếng hót là cả bầy chim tụ tập đậu trên bức lưới. Ta ngồi yên, không nhúc nhích đến nỗi chúng tưởng ta là tượng đá.

- Bẩm đại nhân, như thế hẳn là thú vị lắm!

- Chính những lúc như vậy người ta mới sống những phút thần tiên nhất trong đời.

Trang chần chờ. Giữa hai người có nhiều cách biệt giới tính, tuổi tác, địa vị, nhưng không vì vậy mà có sự khó khăn lúng túng trong việc đối xử. Ông Khương Sơn dễ dãi, đức độ.

Tự nhiên Trang cảm thấy có thể tin cậy nơi ông. Mắt vẫn đăm đăm nhìn mặt nước, nàng thú nhận:

- Bẩm đại nhân, lúc nãy con đã dối đại nhân.

Đôi mắt ông Khương Sơn lộ vẻ nực cười. Nhưng ông cố nhịn để khỏi cười to:

- Ta đã biết ngay điều ấy.

Trang liếc nhìn trộm ông Khương Sơn rồi hai người phì cười.

- Có việc gì chị cứ nói thiệt với ta. Gì đi nữa thì ta với chị há không phải là người Trung Quốc cả sao?

Trang không thể bày tỏ ngay sự thật. Nàng hỏi dò:

- Bẩm đại nhân có thù ghét người ngoại quốc không?

Ông Khương Sơn ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại thù ghét, bất kỳ ai?

Ông dừng lại, rồi ôn tồn bảo:

- Thù ghét một người khác nào bỏ vào trong gan ruột mình một con giun, nó rúc rỉa và đời mình sẽ mất yên vui.

- Bẩm đại nhân, con có ý hỏi đại nhân điều khác kia.

Ông Khương Sơn vui vẻ đáp:

- Sao lại không?

- Bẩm đại nhân, liệu đại nhân có thuận gả con gái cho một người ngoại quốc không?

- Ồ! Ồ! - Ông Khương Sơn lại kéo hai hơi thuốc nữa. - Sao lại không?

Ông gạt tàn thuốc rồi tiếp:

- Thôi ta hiểu ý chị rồi. Ông Era có cậu con trai, còn ta đây có nhiều con gái. Con gái thứ ba của ta tuổi xấp xỉ cậu ấy. Trên công việc, ta thường giao thiệp với ông Era. Ông bán sỉ cho ta hàng ngoại quốc. Ta sắp ký với một ông một khế ước đặc quyền, lẽ dĩ nhiên ta sẽ được một giá lời. Ngoài ra nếu do con gái ta, ta lại có thêm mối liên hệ khác với ông Era thì là việc tốt chứ sao. Nhưng ta không phải hạng người hi sinh con vì lợi. Nhưng thẳng thắn mà nói thì khi người ngoại quốc đã đến lập nghiệp ở một xứ nào, nên làm cho họ không còn là người ngoại quốc nữa, nghĩa là: hai bên hãy gả con cái cho nhau để hai dòng máu chan hòa làm một. Chiến tranh đắt đỏ, chứ tình yêu tốn kém gì.

Trang hết cả e dè. Nàng cảm thấy kính mến ông Khương Sơn, và lấy làm hân hạnh là người cùng xứ sở với ông. Những lời ông vừa nói là của một hiền nhân quân tử. Nàng thưa:

- Bẩm đại nhân, cậu con có thấy tiểu thư cách đây vài hôm, từ đó cậu con mất ăn mất ngủ.

Ông Khương Sơn thản nhiên nói:

- Tốt.

- Cậu con có làm một bài thơ.

- Lẽ tự nhiên!

- Và tiểu thư đã làm một bài khác để họa lại.

Ông Khương Sơn tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Con gái ta không làm được thơ. Trước kia ta có nhờ cụ đồ dạy nó, nhưng cụ đã phàn nàn nó không có thi tứ.

Trang đỏ mặt:

- Bẩm đại nhân con đã giúp tiểu thư.

Ông Khương Sơn phì cười:

- Thế à! Chị có bài thơ đó không?

Trang trao bài thơ, Ông Khương Sơn mở ra và ngâm to.

- Khá lắm, duy có hai chữ nhìn thấy hơi non.

Ông vừa nói vừa chỉ hai chữ này bằng chiếc điếu.

- Đại nhân thứ lỗi cho!

- Chị cứ để như vậy. Nếu đặc sắc quá thì công tử có thể đâm nghi. Thôi bây giờ, chị đem về trao cho công tử; ái tình phải chớp lấy khi thủy triều đang lên và trước khi ngọn sóng rút xuống.

Trang nhận lại bài thơ, cúi đầu từ tạ.

Nàng cảm thấy sung sướng hơn khi mới đến nhiều. Càng suy nghĩ, nàng càng nhận thấy ông Khương Sơn đã đối xử với nàng như nàng cùng ông ta và tất cả người Trung Hoa chỉ là một. Nàng không còn cô đơn, cách biệt như trước nữa. Lẽ dĩ nhiên, nàng chỉ là một hạt cát trong biển cả dân tộc, nhưng nàng thuộc vào toàn thể; đời nàng không còn cách biệt với đời đồng bào chung quanh.

Nàng thầm nghĩ: "Chỉ còn một điều là không biết Đavít có thể liên kết với chúng ta không". Dự tính của nàng thêm rõ ràng. Nàng sẽ tách Đavít khỏi dân tộc u sầu buồn bã kia và phối hợp chàng với dân tộc tươi vui của nàng. Chàng sẽ quên sự chết chóc và sẽ biết yêu đời.

Nàng trở về nhà, trong lòng thư thái. Ông Era và Đavít vừa ở giáo đường về, một lát sau bà Era và Lịch về kịp và ngày lễ Sa Ba trôi qua theo nghi thức Trang đã thuộc lòng. Công việc của nàng là hầu tiệc. Nàng đặt các đèn lồng lớn trước mặt bà Era để bà tự tay đốt lên khai lễ. Khi mọi người đã ngồi vào bàn tiệc, nàng đem bình rượu lễ lại cho ông Era và đứng hầu bên cạnh chủ trong lúc chủ đọc kinh làm phép rượu. Sau đó nàng điều khiển các nô tỳ khác trong việc hầu nước thau và sắp dọn các thức ăn lên bàn tiệc. Thấy một người đầy tớ mới đến ở đem chiếc điếu của ông Era lại, nàng chau may lắc đầu ra hiệu bảo đem ra, vì trong ngày lễ này không được đốt lửa.

Ngày lễ tiếp diễn và Trang không muốn chú ý xem Đavít đã ngỏ lời với Lịch bao nhiêu lần, cũng không lưu tâm đến những cái nhìn rất lâu và có dáng suy nghĩ mà Đavít đã nhìn Lịch. Đến chiều tối, Đavít đưa Lịch ra vườn để tìm ba ngôi sao đầu tiên trên nền trời và báo rằng ngày lễ Sa Ba đã chấm dứt.

Trang chạy đi thắp nến, thắp đèn lồng. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe lời chúc nhau đến ngày mai, một ngày tốt đẹp nàng tự nghĩ, một ngày thường dễ chịu, một ngày thuộc của người đời của người đời chứ không phải của một vị Chúa xa lạ.

Cả ngày lễ Sa Ba, nàng không trao đổi với Đavít một lời nào, nhưng nàng không thất vọng - nàng có thể chờ đợi.