- 5 -
Khi Trang đã ra về, ông Khương Sơn ở lại một mình trong vườn. Theo thói quen, ông làm việc rất nhiều giờ, một cách cần mẫn, trong gian phòng lớn nơi thương điếm của ông. Ông đến làm việc ở đấy rất sớm và ra về rất muộn. Sản nghiệp của ông ngày một lớn, ông rất giàu. Ông ham thích công việc nhưng không quá đam mê. Mỗi khi cảm thấy trí óc quá mệt mỏi vì vấn đề tiền bạc, ông nghỉ ở nhà không đến thương điếm nữa, ông ngồi một mình trong vườn và trầm tư mặc tưởng.
Cái hôm ông bắt gặp Trang bên cạnh hồ nước là một trong những ngày nghỉ ngơi ấy. Ông vẫn ngồi trên cái đôn sứ men xanh để ngắm đàn cá lội. Những lúc như thế không ai dám đến quấy rầy ông cả. Thỉnh thoảng có một vài người lấp ló ở cổng, liếc mắt nhìn vào, ngập ngừng rồi chuồn mất. Ở giữa cái ngôi nhà quá đông đúc này, ông Khương Sơn có nhiều trách nhiệm và lo nghĩ, nhưng chính đây là nơi ông tìm lại sự yên tĩnh của tâm hồn. Ông Khương Sơn là người thủ phần trong mọi việc, ông tự cho mình là một người sung sướng, mà quả thật như vậy. Ông xem hạnh phúc là một lẽ phải, có thể đạt được. Trên đời này ông muốn giàu sang, kính trọng những người hùn vốn, thỏa hiệp với các bà vợ và đàn con đông đúc, để, nếu một hai đứa có sắp chết đi cũng khỏi phải lo âu gì. Tất cả những điều đó ông đã có đủ.
Ông không đòi hỏi điều gì ở trên trời cả. Ông không tin các thần thánh, không lo nghĩ gì đến đời sau mà chắc chắn rằng chết là hết. Sự bất diệt của con người, ông không cho là cần thiết; tuy nhiên ông tin rằng con người có định mệnh. Ông bàn về các vấn đề tương lai giống như xét các việc hiện tại, với một nụ cười tin tưởng của một con người chính trực và nhân ái. Nếu quả có thượng đế hoặc quỷ thần, ông cũng không lo sợ. Một hôm ông Era hỏi ông về vấn đề tín ngưỡng, ông bình tĩnh nói:
- Nếu có Thượng Đế và nếu quả Ngài giống như bác đã nói, Ngài sẽ quá đuối lý để đòi tôi phải tin trong lúc tôi không thấy.
Thích làm điều thiện, yêu sự công bình, thừa nhận rằng tất cả mọi người đều có quyền sống một đời sống sung sướng như nhau, tóm tắt, tín ngưỡng của ông Khương Sơn là như vậy. Tín ngưỡng mà ông đã cố gắng để thực hành.
Một mình trong khu vườn, sung sướng vì sáng hôm nay trời trong đẹp, đàn cá vàng lóng lánh bơi lội dưới làn nước trong veo, ông Khương Sơn xua đuổi tất cả mọi suy tưởng trong đầu óc và nghỉ ngơi. Nhưng sự nghỉ ngơi bị dao động vì việc hôn nhân của cô con gái thứ ba của ông. Nếu quả thật nàng đã để lòng tơ tưởng đến chàng thanh niên con một của dòng họ Era thì không nên trì hoãn. Trước hết ông phải tự mình quyết định nếu chính ông bằng lòng về cuộc phối hiệp này. Gả con gái cho một gia đình khác giống, tính danh không có trong số trăm họ Trung Quốc, thì thật là một điều hết sức quan trọng. Ông Khương Sơn biết rõ lịch sử của dân tộc Trung Hoa, ông biết có nhiều người cũng đã gả con cho người dị chủng và tin tưởng như ông rằng đấy là cách độc nhất để hòa làm một những dòng máu khác nhau. Nhưng ông Khương Sơn là một người cha rất thương con, nên ông không muốn cân nhắc cuộc sống quá nặng nề đối với cô gái nhỏ.
Trong lúc ông suy nghĩ như vậy thì một cảnh rất đẹp mắt hiện ra trong hồ nước trước mặt ông. Mấy hôm gần đây, ông thấy có một con cá vàng bụng căng đầy trứng, nên ông đã mua một con cá đực ở chợ, nơi người ta bán cá cảnh. Con cá đực này bơi lội một cách kiêu hãnh trong hồ nước. Con cá rất đẹp, đuôi lóng lánh, xòe ra quẫy nước như một áng mây lay động. Nó bơi gần mặt nước và những cái vây bắt ánh mặt trời giống như trong một cái lưới nhỏ. Ngay lúc ấy, con cái thấy con đực và lao mình đến bên một cách vui thích.
Ông Khương Sơn đoán được gì sẽ xảy ra, Ông mỉm cười quan sát, hơi xúc động về cái cảnh thú vị ấy. Thấy con cái, con đực nhả bọt lên mặt nước. Con cái bơi đến, con đực quay lại và thân mình chúng quấn lấy nhau. Trong sự ôm ấp ấy, con đực nhẹ nhàng lật mình con cái, dùng những cái vây ánh vàng bọc lấy nó. Chúng ngây ngất một chốc, rồi rời khỏi nhau và con cái rải trứng ra. Con đực há miệng đón lấy những trứng rơi và nổi lên đặt từng cái một vào những cái bọt trên mặt nước. Đôi cá đã gặp nhau, phối hiệp cùng nhau, đến khi con cái nhỏ không thể chịu đựng nổi sự hăng nồng, chúng rời khỏi nhau. Ông Khương Sơn thấy con cái gặp cảnh khốn cùng, ông sẽ thò tay vào hồ vớt nó lên và đặt vào trong một cái chậu sành đầy nước cạnh đấy dùng để vớt cá mỗi khi chúng cắn nhau. Thấy con đực tìm con cái một cách vô ích, ông Khương Sơn cười nói:
- Đừng có tức chú, nàng đã vừa rồi!
Cặp nhân tình đã rời khỏi nhau, mỗi con mỗi ngả. Ông Khương Sơn ngồi xuống ghế. Cái trò chơi bé nhỏ này đã khiến ông nhớ đến khuôn mặt kiều diễm của Trang và cho rằng nhà ông bạn Era không phải là nơi thích hợp cho một thiếu nữ quá trẻ quá đẹp như thế. Ông mỉm cười nghĩ đến cậu con trai của ông Era rồi trở nên nghiêm nghị nghĩ đến cô con gái thứ ba của mình. Nếu cô ta là con gái một, hoặc nếu là Lệ Lí, cô gái thứ tư của ông thì ông sẽ không chấp thuận một cuộc hôn nhân như thế. Lệ Lí là cô con gái mà ông thương nhất, nàng là con của người vợ lẽ mà ông đã yêu, đã làm cho ông nhục nhã hết sức, phải mãi mãi mang một vết thương lòng. Ông Khương Sơn không phải là một người đam mê nhục dục, ông ít ve vãn đàn bà và đã bằng lòng với người vợ mà cha mẹ ông đã cưới cho ông trong thời xuân trẻ. Cuộc sống vợ chồng của ông đã bình lặng trôi không có gì quá vui nếu không phải nguyên nhân bởi những đứa con mà vợ ông sinh dựng: bốn trai và ba gái. Thế rồi, cách mấy năm sau, ông đột nhiên phải lòng một cô gái mà ông đã gặp trong một trà thất. Ông đã đưa cô ta về nhà với sự thỏa thuận của vợ ông. Ông xem đời sống riêng tư của mình như vậy là đã tràn đầy.
Nhưng năm vừa rồi, thình lình ông bắt gặp người thiếu phụ này với tên quản gia. Ông giận dữ hết sức, ông lượng cái bề sâu nỗi buồn phiền của mình và biết rằng nàng ta cũng đau khổ về phương diện tình ái. Ông định trừng phạt hai kẻ đã phản bội mình, nhưng ông tự bảo rằng không có một hình phạt nào đáp lại tình yêu của một người đàn bà ngoài sự trung thành của người đàn ông và ông không dành lấy một chút lợi riêng nào. Ông không muốn giữ nàng lại, ông cho gọi hai tội phạm đến và mỉm cười, ôn tồn sa thải họ, cho một số tiền và bảo họ thành lập một gia đình. Lúc bấy giờ người đàn bà trẻ đẹp, nghĩ đến những lỗi lầm của mình, đã liếc nhìn ông Khương Sơn một cách đầy hối tiếc, nhưng mặt ông vẫn lạnh như tiền. Nàng đã ra đi và nàng cảm thấy nàng đã mất tất cả từ đây.
Ông Khương Sơn không còn nghĩ gì đến vấn đề tình ái nữa, nhưng cảnh yêu đương ngắn ngủi mà ông vừa thấy đã làm ông nhớ lại cái giấc mơ đã quên ấy, ông thở dài. Tình ái chóng qua, không một người đàn ông nào có thể hoãn được hồi kết thúc, và với ái tình, hôn nhân chẳng có tác dụng gì. Nếu con gái ông cảm thấy say đắm chàng trai ngoại quốc ấy và nếu nàng cũng sẽ được gia đình chàng tiếp đón nồng hậu, dĩ nhiên là thế, ông Khương Sơn chỉ còn xét về phương diện thương mại. Nếu ông từ chối việc gả con cho con trai ông Era, ông sẽ khó mà có thể hợp tác thương mại với bạn ông. Từ giao kết giữa đôi bên sẽ không bao giờ kí được, ông Era sẽ kết thúc việc ấy với một thương gia khác, mà trong thành phố này thì có nhiều nhà kinh doanh tốt, mặc dầu họ không giàu bằng ông Khương Sơn. Ông ta sẽ rất lấy làm khó chịu thấy một trong những người ấy thu lợi lớn nhờ số hàng ngoại quốc của ông Era. Trái lại, cuộc hôn nhân thành tựu sẽ là mối dây liên hệ vững chắc giữa hai nhà. Sự chung vốn của họ không phải chỉ nguyên trong vấn đề thương mại. Tất cả mọi sự kinh doanh đều phải có những ràng buộc của con người, có thế mới bền chặt và lâu dài.
Ông Khương Sơn không tin tưởng ở sự tin cậy tuyệt đối của ông Era. Nhưng nếu dòng máu của đôi bên hòa chung lại với nhau làm một thì sự bất tín cẩn giữa họ sẽ trở thành vô nghĩa.
Thật đã rõ ràng, ông Khương Sơn lẩm bẩm.
Tóm lại, cô con gái thứ ba của ông sẽ sung sướng hơn nếu có Trang ở trong cái gia đình ngoại quốc ấy. Một cô gái Trung Hoa, một người bạn! Ông sẽ nói việc này với con gái mình mới được, nhưng trước hết là phải nói với mẹ nàng.
Ông Khương Sơn đứng dậy một cách tiếc nuối và đi sang nhà vợ ông. Ông dừng lại ở cửa và vỗ tay ra hiệu. Một con tì nữ chạy đến, thấy ông, nó mời vào.
Ông hỏi:
- Bà mầy có bận gì không?
- Thưa ông chủ, bà con đang ngồi sửa nắng, không bận gì cả.
Ông Khương Sơn bước vào và gặp ngay vợ ông, một người đàn bà đứng tuổi, béo mập, đang ngồi trong một cái ghế phô-tơi rộng bằng mây. Trước mặt bà, con mèo tam thể đang đùa giỡn với một con chuột nhắt vừa bắt được. Bà Khương Sơn ngửng nhìn chồng, cười:
- Mình xem con mèo kìa! Hôm nay nó đã bắt được đến hai con chuột rồi đấy!
Ông nói đùa:
- Mình là Phật tử kia mà!
Bà đáp:
- Tôi không giết chuột!
- Mình không phải là mèo chứ?
- Dĩ nhiên.
- Con mèo cũng không là Phật tử?
Bà Khương Sơn không đáp lại sự đùa giỡn ấy, mà tiếp tục quan sát con mèo. Ông Khương Sơn không lấy thế làm phật ý. Đã từ lâu, ông biết rằng vợ ông dễ dãi và vô tâm.
Ông biết đích xác cái chiều sâu của tâm trí bà nên ít khi họ cãi vã nhau. Ông ngồi xuống ghế và tránh không nhìn đến con mèo đang khéo léo nhăn con chuột cho mềm.
Ông nói:
- Tôi đến hỏi ý kiến mình về con Quí Lan.
Vợ ông đưa hai bàn tay mập mạp đầy nhẫn vàng phác một cử chỉ thiếu kiên nhẫn:
- Ồ, cái còn bé ranh! Nó không chịu học thêu học thùa gì hết. Tôi chắc mụ Chu đã làm thay cho nó cả.
- Con bé nó thế là vì tôi. Tôi không thích thêu thùa.
Ông Khương Sơn nói, vẻ mặt nghiêm trang nhưng đôi mắt ngời sáng, ranh mãnh.
Bà nhìn ông, kinh ngạc:
- Người ta đâu có dạy ông thêu thùa!
- Chính thế! Nhưng nếu người ta có dạy tôi, tôi cũng làm hỏng. Xin lỗi bà, nó là con tôi.
Thấy ông lại đùa cợt, bà Khương Sơn bật cười. Rồi bà quay nhìn con mèo một cách thích thú mà không nói gì. Hai bàn tay bà đặt trên hai đầu gối nổi bật trên nền áo sa tanh màu xám ngọc, giống như màu búp sen vàng gần úa.
Hồi còn xuân trẻ, bà Khương Sơn quá xinh đẹp đến nỗi mãi tới mấy năm sau ông mới biết đến sự ngu dốt của bà.
Sau một hồi thinh lặng, bà nói:
- Rồi sao nữa mình?
Ông Khương Sơn nói:
- Tôi đang đợi tin người ta đến hỏi con Ba nhà mình.
- Ai vậy?
Các cô con gái của ông Khương Sơn được rất nhiều nơi đi hỏi. Những gia đình giàu sang, có con trai lớn đều nhắm đến một trong các cô ấy trước tiên.
Ông đáp:
- Bác Era muốn hỏi cho thằng con bác ấy.
Bà Khương Sơn có vẻ bất bình:
- Việc ấy chúng ta phải thận trọng mới được.
Với một giọng dịu dàng, ông nói:
- Tôi cũng đã nghĩ thế. Nhà họ Era giàu, hơn nữa bác ấy và tôi đang dự định kí một giao kèo mới. Bác ta chỉ có một mình thằng ấy là trai, thì dĩ nhiên là có ai nữa mà bảo tranh giành với con gái nhà chúng ta?
- Nhưng người ngoại quốc thì…
- Mình chưa bao giờ thấy sao?
Bà lắc đầu.
- Tôi cũng đã có nghe người ta nói rồi. Mắt họ rất to và mũi lõ. Tôi không muốn có cháu ngoại mắt to và mũi lõ.
Ông nói:
- Mũi của con Quí Lan nhà ta thì gần như là quá bé. Mình cũng biết đấy, rốt cuộc lại, dòng máu Trung Hoa của chúng ta luôn luôn đồng hóa được các dòng máu khác. Qua thế hệ sau, bọn trẻ sẽ giống hệt người Trung Hoa cho mình xem.
- Người ta nói với tôi rằng người ngoại quốc đều hung bạo.
- Hung bạo? - Ông lặp lại.
Bà nói:
- Họ sùng giáo quá. Họ kiêng ăn vật này vật khác, họ cầu nguyện hằng ngày, họ có một vị Thượng đế mà họ, không bao giờ thấy, nhưng họ rất kính sợ và cho rằng các vị thần mà chúng ta thờ là các tà thần. Những điều ấy thật quá phiền rầy. Con bé nhà chúng ta chắc sẽ bị buộc phải thờ phụng một vị Thần vô hình.
Ông Khương Sơn cười đáp:
- Con bé ba nhà chúng ta sẽ không bao giờ làm những cái mà nó không thích.
Bà hỏi:
- Có biết bao thanh niên muốn hỏi cưới nó, sao chúng ta không gả, lại gả nó cho một người ngoại quốc?
Con mèo đã ngấu nghiến hết con chuột, còn cái đầu nó tha vào sau cánh cửa, việc này làm bà Khương Sơn quá thích nên đã bật cười lớn và quên lửng câu chuyện.
Ông Khương Sơn kiên nhẫn nói:
- Công việc kinh doanh hãy để riêng một bên. Theo tôi, việc chia rẽ các dân tộc thành hai loại khác nhau, tôi tưởng không phải là điều tốt. Mọi con người đều có những lỗ tai, những con mắt, những cánh tay, những quả tim, và theo tôi biết thì tất cả đều sinh sản một cách và như nhau.
Tiếng “sinh sản” đập ngay vào tai bà Khương Sơn. Bà nói:
- Tôi nghe nói rằng đến kỳ sinh nở, người ngoại quốc phanh bụng và lôi đứa trẻ ra.
- Không đúng.
- Sao mình biết được?
- Ông bạn Era đã cùng tắm chung với tôi một chỗ, tôi biết. Ông ta cũng giống như tôi, trừ ra thân hình ông ấy nhiều lông hơn.
Bà Khương Sơn tỏ vẻ quan tâm hơn:
- Người ta cho rằng sở dĩ người ngoại quốc nhiều lông là vì họ gần giống vượn hơn chúng ta. - rồi bà tỏ vẻ lo lắng - Nhưng nếu con bé Quí Lan nhà ta không thích đàn ông lông lá thì sao?
- Con bé chưa bao giờ gặp người đàn ông nào khác ngoài người sắp cưới nó. Vậy nếu sự lông lá làm nó không thích, nó sẽ không biết gì đâu.
Họ đã phăng đến cái mối dây của vấn đề, ông Khương Sơn hỏi vợ:
- Nếu người ta đến hỏi cười thì tôi…
Bà Khương Sơn cắt ngang:
- Nếu, sao lại nếu?
Ông chữa lại:
- Khi người ta đến xin cưới nó, tôi sẽ nhận lời.
Câu nói này gần như là một lời xác nhận. Bà Khương Sơn gật đầu chấp thuận với một vẻ thờ ơ. Bà thấy việc chấp thuận khỏe hơn là phản đối.
Bà ngáp dài lẩm bẩm:
- Chúng ta đông con cái…
Ông Khương Sơn thấy vợ lơ đãng, không quan tâm gì, nên trở ra. Khi đến cửa, ông quay lại và thấy bà nằm dựa ngửa ra, hai mắt lim dim ngủ.
Ông Khương Sơn cảm thấy tức giận. Ông muốn đến gặp con gái ông, nói chuyện với nàng, vì nàng đã có một bà mẹ không quan tâm gì đến số phận của con. Nhưng ông lại thôi. Như thế quá sớm. Tốt hơn là hãy đợi người ta đến xin cưới đã, ông lại trầm ngâm nghĩ ngợi… Cô con gái thứ ba của ông còn quá trẻ. Lúc bấy giờ ông cảm thấy bối rối. Ông quay gót, bước những bước chậm rãi và chững chạc đến phía cổng thông ra đường. Cái xe lừa của ông có mui và diền sa-tanh luôn luôn đậu đợi sẵn ở đấy. Người gác cổng ra hiệu, tên xà ích nhảy xuống đất, ông Khương Sơn bước lên xe, ông bảo:
- Ra thương điếm!
Tên xà ích ra roi, chiếc xe chuyển bánh.
Trong đền thờ, sáng hôm lễ Quá Hải, bà Era vừa cầu nguyện vừa sắp đặt những dự tính của mình. Bà xem xét mọi khía cạnh của vấn đề với khối óc linh hoạt của bà. Bà đã không nói với ông những dự tính của mình. Trước hết, bà sẽ mời giáo trưởng về ở nhà mình một thời gian. Có lẽ một tuần, hoặc một tháng cũng chưa chắc! Nào ai biết được thế là dài hay ngắn, ít nhất cho đến khi Đavít tỏ ý muốn cưới Lịch làm vợ. Nếu bà Era hỏi ý kiến ông về việc này, thì ông sẽ kêu lên rằng không nên ép buộc Đavít. Nhưng Đavít sẽ không hành động như thế vì bắt buộc mà đó là ý Chúa.
Ý Chúa… Hai chữ “Ý Chúa” đã mang lại một niềm an lạc ngập tràn tâm hồn bà Era. Đền thờ là chốn bình an. Nó chưa có vẻ gì hư hỏng cả, còn tốt. Những bức màn cửa đã quá cũ, nhưng còn nguyên, nhờ các bà đã hết lòng khâu vá. Phần đông người Do Thái đều nghèo khổ, nhà họ ở chen chúc quanh ngồi đền thờ. Đôi khi bà Era tự trách mình đã không cùng họ chia sẻ sự nghèo nàn; những gì còn lại của một xã hội rộng lớn ngày xưa.
Dân tộc Do Thái sẽ tiêu diệt tại nơi nào? Mỗi một người đã tự hỏi mình như vậy. Người Trung Hoa không ngược đãi họ, cũng không có ác tâm nào đối với họ, nhưng mỗi thế hệ, dòng giống Do Thái sút giảm bớt dần từng số lớn, điều này đã làm bà Era nổi giận. Họ đã để mình bị lôi kéo thành người Trung Hoa, tiêm nhiễm những tập quán vô lo, không còn sống trong sự sợ hãi Thiên Chúa, bình dị một cách khác với bản tính cố hữu của người Do Thái. Một lý do nữa khiến bà đã sống một cách nghiêm ngặt, bất chấp cả sự giàu sang của mình. Có lẽ ngay chính vì cái lý do giàu sang ấy. Một người Do Thái nghèo nàn cân nhắc việc chọn lựa giữa tiền bạc và Thiên Chúa. Bà không một chút nào cân nhắc theo lối ấy cả. Những điều này làm cho ý muốn của bà càng mạnh mẽ hơn. Chẳng bao lâu buổi lễ chấm dứt, bà nán lại sau và tìm vị giáo trưởng. Bà đã quyết định sẽ nói việc ấy với chồng. Nấn ná lại sau các tín hữu không phải là chuyện khó vì bà dự lễ cách biệt với ông bằng một bức tường gỗ cao chia hai đền thờ, một bên nam, một bên nữ. Lịch ngồi cạnh bà và phía bên kia Đavít ở cạnh ông Era. Lịch về nhà với thím Hoàng trong lúc bà đến gặp vị giáo trưởng.
Một sự bình an đã đến với bà Era khi bà nghe tiếng nói rõ ràng của vị giáo trưởng. Bà ngước mắt lên nhìn vị giáo trưởng đứng cạnh cái tòa giảng của ông Maisen, trên đó có quyển Kinh Thánh Côran mở rộng. Mình Ngài khoác áo choàng đen và đầu đội một cái mũ đen có sợi dây nhỏ bằng hàng trắng vấn quanh, hai mối dây buông thõng ra sau lưng. Ngài lớn tiếng đọc, còn Arông thì đứng bên lật từng trang một, chàng cũng phục sức như giáo trưởng, nhưng mũ thì màu xanh. Dường như giáo trưởng đọc quyển Thánh kinh ấy, nhưng thật ra Ngài đã thuộc lòng trang này đến trang khác. Nếu Ngài ngập ngừng do dự thì Arông lớn tiếng nhắc cho Ngài.
Nhưng sau đó bà Era đã phải khó khăn trong việc thuyết phục vị giáo trưởng. Khi bà giải bày hoàn cảnh cùng Ngài và khẩn cầu Ngài về ở nhà mình ngay, Ngài đã lắc đầu:
- Con hãy cho thằng con trai của con đến cùng thầy để thầy dạy Kinh Côran cho nó. - Ngài quả quyết nói.
Bà Era than thở:
- Thầy! Tại sao thầy giấu con sự thật? Nếu thầy không đến thật nguy hiểm cho nó. Trong lúc này, nó nhiệt thành lắm. Nó đã xúc động vì câu chuyện Cao Liên kể dân tộc ta bị tàn sát. Nó còn quá trẻ, một ngày nào đó nó sẽ tìm lời thoái thác vì một trò chơi, một sự mê ngủ, nó sẽ vui đùa với một con chim, một con chó… với bất cứ gì. Trong lúc nếu có thầy ở nhà, nó sẽ không thoát khỏi thầy.
Câu nói này đã làm giáo trưởng nghĩ ngợi:
- Ta là đầy tớ của Chúa. Ta phải thỉnh ý Ngài.
Bà Era nhận thấy khỏi cần phải nói dài dòng hơn. Ý Chúa sẽ tỏ hiện cùng giáo trưởng rất rõ ràng và làm cho cái ông già bướng bỉnh này thấy đó là việc dĩ nhiên.
- Thưa thầy, xin thầy đừng quên, con nói không một chút khoe khoang rằng, gia đình chúng con là một gia đình thuộc dòng chỉ huy dân tộc Do Thái.
Bà Era thấy bóng một nụ cười thoáng hiện trên đôi môi vị giáo trưởng mù, bà do dự tiếp:
- Con thấy rằng tâm trí nhà con để ở đâu đây, con có thể nói bằng tất cả sự thật rằng, nhiều đêm con đã khóc lóc vì mối tình vật dục của nhà con. Thưa thầy, con sẽ cố gắng hơn để chu toàn nhiệm vụ đối với chồng con, con con. Thầy có biết chăng, đó là sự thật.
- Thầy biết lắm. - Vị giáo trưởng dịu dàng đáp.
- Song con sẽ không sống vĩnh viễn mãi được, con phải dẫn đứa con trai của con đi theo con đường của tổ tiên. Nếu có cưới Lịch…
Vị giáo trưởng tỏ vẻ kinh ngạc:
- Sao lại nếu?
Bà Era kiên nhẫn đáp:
- Dạ đã đành, nhưng chưa cười thì chúng ta chưa lấy làm chắc. Thưa thầy, thầy không hiểu thanh niên đời bây giờ. Con đoán chắc với thầy rằng, nếu cứ để yên cho Đavít thì bao giờ nó cũng là một thằng con trai tốt, nhưng lũ thiếu nữ Trung Hoa luôn luôn nhắm vào nó. Con sẽ không yên tâm khi mà…
Vị giáo trưởng cắt ngang:
- Đavít có để ý đến bọn chúng nó không?
Bà Era lựa lời đáp:
- Nó sẽ không chú ý đến một ai khi nó đã cưới Lịch.
Giáo trưởng thật thà hỏi:
- Vậy sao không cho nó cưới ngay?
- Thưa thầy, trước hết phải để cho Đavít ngỏ ý muốn cưới nàng.
Với vẻ nghiêm trọng, giáo trưởng hỏi:
- Nó muốn cưới con Lịch không?
- Thanh niên luôn luôn không biết họ muốn gì, khi ta chưa chứng tỏ cho họ biết.
Vị giáo trưởng cúi đầu suy nghĩ, hai bàn tay tì vào cái gậy. Rồi Ngài ngửng đầu hỏi:
- Ta phải làm gì trong việc này?
Bà Era hăng hái đáp:
- Không làm gì cả. Đó là việc của con và Lịch sẽ giúp con. Phần thầy, xin thầy dẫn dắt Đavít trong tiếng nói của đấng Dêhôva. Thầy hãy giáo dục nó, dạy cho nó học Kinh Tôrát, làm cho lòng trí nó hướng về với Thiên Chúa. Phần còn lại xin để cho chúng con.
Giáo trưởng suy nghĩ trước khi trả lời. Ngài nói:
- Thầy phải đến trước mặt đấng Dêhôva để lĩnh ý Ngài. Bây giờ con hãy để mặc thầy con ạ.
Bà Era đứng dậy thưa:
- Xin vâng. - Nhưng người ta cảm thấy cơn giận run lên trong giọng nói lanh lảnh của bà. - Con tin rằng chốc nữa thầy sẽ tìm chúng con.
Bà Era trở về nhà, còn vị giáo trưởng thì đi men theo một lối đi nối liền ngôi nhà ở với đền thờ. Cụ biết rõ từng bước và đặt chân lên trên các tảng đá lát đã khuyết mòn. Từ bao năm nay, cụ không còn thấy rõ ngôi đền thờ bằng mắt, nhưng cụ có một cảm quan khác. Cụ đoán biết màn cửa mốc meo, bụi chất đầy trên các cửa ngõ, bàn ghế, bàn thờ, bám chặt như cát trên các đầu ngón tay rất tinh nhạy của cụ. Nhờ đôi chân, cụ biết nền nhà không được quét tước ngay cả trong ngày lễ Xa Ba. Cụ cảm thấy có sự hiện diện của một người nào trong ngôi đền thờ. Cụ lắng nghe và nhận ra tiếng ai đang ngáy phì phò.
Giáo trưởng lớn tiếng hỏi:
- Ai đang ngủ ở đây thế? Ai ngủ trong nhà của Chúa?
Có tiếng ngáp dài và một tiếng nói ấp úng, ngái ngủ:
- Dạ, dạ thưa thầy con… Già Ly đấy ạ! Con đã ngủ quên. Thưa, buổi lễ đã xong rồi chứ?
Đó là người chồng của mụ Rasen, ông ta giữ việc coi sóc ngôi đền thờ.
Vị giáo trưởng nói:
- Con đừng có ngủ ở đây. Buổi lễ chấm dứt đã lâu rồi.
- Ở đây rất yên tĩnh! Ngoài các ngày thánh lễ, không ai vào đây cả, trừ thầy.
Giáo trưởng đột ngột bảo:
- Tới đây!
Ngài nghe tiếng chân của lão từ từ bước đến gần. Ngài hỏi:
- Hãy nói rõ, các bình bạc ra sao rồi?
Già Ly ho khan vì tuổi tác, ông lắp bắp:
- Những cái bình… thưa…
Vị giáo trưởng sẵng giọng bảo:
- Kìa, nói đi! Sao?
- Thưa mấy cái bình bây giờ bằng thiếc cả.
Giáo trưởng lẩm bẩm:
- Ta đã cảm thấy khác. Hồi sáng nay cầm trong tay, ta nhận biết ngay.
Giáo trưởng ngửng đầu lên và khuôn mặt Ngài phản chiếu một nỗi đau đớn khôn lường.
Già Ly động lòng nói:
- Thầy, cớ sao thầy lại tự làm khổ mình, những người trẻ bao giờ cũng…
Ông ta ngừng lại.
Giáo trưởng mù run run hỏi:
- Nói cho ta rõ, con ta đã làm những gì?
Già Ly đằng hắng, rồi im lặng, đưa tay áo lên lau mặt. Nhưng ông ta phải vâng lời giáo trưởng.
Bầu không khí nặng nề khó chịu, ông ta giả tảng cười khẽ, để tỏ ra rằng việc đó không có gì quan trọng cả, rồi ông nói để trấn an vị giáo trưởng:
- Thưa thầy, tuy bằng thiếc nhưng đều mạ bạc, giống hệt như mấy cái bình cũ. Thầy cũng đã rõ sự khéo léo của các người thợ bạc Trung Hoa, khi thiếu chủ con giải thích cho họ rõ thì…
Giáo trưởng lắp bắp:
- Con trai ta đã bán các bình thánh của đền thờ sao?
Già Ly van nài:
- Xin thầy chớ cho cậu con biết là con đã nói cùng thầy.
Giáo trưởng lẩm bẩm:
- Chỉ một mình ta nhận ra là đồ giả… Những người dự lễ…
Già Ly nói để an ủi:
- Bây giờ ít người lắm thầy ạ.
Giáo trưởng lảo đảo. Già Ly chạy đến đỡ Ngài.
Ông nói:
- Xin thầy theo con. Thầy hãy đi nghỉ. Thầy đã quá già, đau khổ làm gì cho cực, những người già cả phải được sung sướng như trẻ con. Đã đến lúc thầy phải ngủ, phải ngồi sưởi ánh mặt trời, phải được ăn vật ngon thức bổ và để người ta giúp đỡ mọi sự.
Giáo trưởng nói:
- Con nói giống như một người Trung Hoa.
Giọng nói có vẻ chua chát, nhưng lão Êly tươi cười:
- Thật thế, bảy phần trong người con đã có sáu phần là Trung Hoa! Ngoài đây ra, người ta đều gọi con là già Ly và con đã đáp lại.
Vừa nói, lão vừa dịu dàng dắt giáo trưởng ra khỏi giáo đường về nhà và đặt Ngài ngồi nghỉ rồi chạy xuống bếp bảo mụ Rasen bưng cháo lên. Giáo trưởng để mặc ông ta làm gì thì làm. Ngài vẫn ngồi, choáng váng như đã bị một quả chùy đánh vào đầu. Ngài húp từng ngụm cháo nhỏ và nói giọng khàn khàn:
- Con tốt với thầy hơn là con đẻ của thầy.
Lão Êly đáp:
- Nhưng giáo sĩ trẻ… thời thế quá khó khăn…
Sau khi lão Êly đã đi khỏi, giáo trưởng nghĩ ngợi về câu nói ấy, Ngài lẩm bẩm:
- Phải, quá khó cho con ta. Ôi, đấng Dêhôva! Nếu một kẻ khác thay thế địa vị nó thì đấy là ý Ngài. Con sẽ đến ở nhà họ Era.
Thế là vị giáo trưởng đã rõ được ý Chúa. Cách một ngày sau, Ngài cùng Arông đến ở nhà họ Era. Ngài nhờ mụ Rasen giữ nhà đợi ngày Ngài trở lại. Ngài không quở trách Arông, Ngài cũng không nói với anh ta.
Bài thơ mà Quí Lan đã gởi cho Đavít, Trang giữ mãi trong ngăn kéo đến ba ngày. Trang chờ đợi nhưng không có khi nào thuận tiện cả. Kể từ hôm lễ Quá Hải, Đavít luôn luôn vắng mặt. Chàng ra ngoài cửa hàng cùng cha và đến tối về rất muộn, chàng lấy sách vào phòng riêng, lánh hẳn những người đàn bà. Trang chờ đợi thái độ chàng thay đổi. Nàng cảm thấy việc bắt buộc chàng ra khỏi chốn nghỉ ngơi là một điều vô ích. Sự việc đã rành rành ra đấy, khi vị giáo trưởng và Arông đến đây, ở tại khuông viên cạnh ông Era.
Trang cảm thấy hoàn toàn xa cách Đavít. Nàng vẫn tiếp tục phụng sự chàng giống như trước nhưng gắn bó hơn và có vẻ trầm tư. Đavít dường như không thấy nàng. Buổi sáng chàng theo học cùng vị giáo trưởng. Arông cũng bị Ngài bắt buộc dự học. Trong tòa nhà rộng lớn này không có gì lọt khỏi mắt bà Era nên Arông không dám kèn cựa. Trang sắp đặt để chốc chốc lại mang trà đến, để được quan sát Đavít. Nàng thấy chàng cúi xuống những trang sách mở rộng trên bàn. Arông loay hoay luôn, đôi mắt hắn ta không ngớt nhìn ra cửa. Hắn không dám gây tiếng động vì sợ cha hắn cảm biết hắn lơ đãng hoặc sợ ông nghe hắn ngáp vặt. Đavít đã than thở cùng mẹ, nỗi bực mình của chàng vì Arông. Bà Era sợ con không dằn được cơn giận, nên đã nhờ Lịch có mặt trong các buổi học và dặn nếu có xảy ra điều gì lộn xộn thì bà sẽ thân hành đến. Lịch vội vã báo tin cho Arông biết ngay việc này.
Khi Trang biết rõ ngày ngày Lịch ở cạnh Đavít thì nàng từ bỏ việc chờ đợi một dịp may mà có lẽ sẽ không bao giờ có cả. Một tối nọ, nàng mang đến cho Đavít cốc nước trà nóng cuối cùng như thói quen từ trước, nàng ngừng lại ở ngưỡng cửa và khẽ đằng hắng. Chàng đang ở trong phòng ngủ, nhưng một nỗi e thẹn mới ngăn Trang không cho nàng tự do vào đấy như trước.
Đavít ra đến cửa và hỏi nàng muốn gì.
Chàng đã cởi áo dài, mình bận áo cụt và quần lụa trắng. Đôi mắt Trang long lanh, hai má ửng hồng và nhìn chàng, tim nàng ngập tràn lửa yêu thương.
Nàng dịu dàng nói:
- Tôi mang trà đến cho cậu.
Chàng ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại báo trước thế? Sao Trang không mang vào ngay như trước kia Trang đã làm?
Vậy là nàng bước vào phòng, đặt cái bình trà xuống, móc túi lấy một tờ giấy xếp tư và đưa cho chàng.
Nàng nói:
- Tôi đợi trao cho cậu cái này, nhưng mãi không tìm ra dịp nào tiện cả, độ rày cậu quá bận.
Chàng cầm lấy mảnh giấy, ngồi xuống, còn nàng thì lắng tai nghe chàng đọc. Ngửng đầu lên, chàng thấy nàng đứng nên bảo:
- Trang ngồi xuống đi. - Và chàng đọc lại bài thơ. Rồi chàng nhìn Trang.- Thật tuyệt! Nàng ta viết đấy à?
Trang đáp:
- Tôi thấy nàng viết bằng bút lông.
Rồi Trang thú thật:
- Tôi đã mang đến cho nàng bài thơ của cậu, cái bài thơ mà cậu đã làm lỡ dở ấy.
Chàng hỏi mà không quan tâm gì đến những việc Trang đã làm:
- Trang thấy nàng à?
Nàng gật đầu.
Chàng cúi xuống bàn.
- Nàng ta ra sao?
Trang lắc đầu:
- Đừng nói đến là hơn cả.
- Kìa sao lại thế?
Nét nhìn của Đavít không lộ rõ vẻ gì, tay vẫn cầm mảnh giấy.
Trang làm ra vẻ buồn rầu.
- Nàng dễ thương lắm, trẻ, đẹp và rất dịu dàng. Không nên làm cho nàng đau khổ.
Mặt Đavít phớt hồng:
- Tôi không hiểu Trang muốn nói gì?
Trang giữ một vẻ nghiêm trọng:
- Có, cậu hiểu đấy chứ. Nàng đã thấy cậu, nàng sẵn sàng yêu cậu, và khi nàng sẽ…
Trang ngừng lại, không nói nữa.
- Sẽ sao?
Trang lắc đầu. Nàng lặng thinh. Đavít tức giận liệng bài thơ ra giữa bàn:
- Này, Trang, tôi buộc nàng phải giải thích rõ, nàng muốn nói gì. Cái điều tôi ghét nhất trên đời là người đàn bà hay nói bóng nói gió, quanh quẩn một ý nghĩ trong đầu óc mà không muốn nói ra.
Đến lượt Trang nổi giận, nàng nhìn thẳng vào mặt chàng thanh niên dằn từng tiếng:
- Cậu không nên gặp mặt cô ta, đó là điều mà tôi đã nghĩ.
- Không phải nàng phán đoán được việc ấy. Tại sao nàng muốn chia rẽ cô ấy với tôi?
Trong thâm tâm, Đavít lấy làm ngạc nhiên về sự phản trắc của mình. Có nên để Lịch tưởng là chàng yêu nàng không? Cái kỷ niệm trong phút giây ấy ở vườn đào, khi chàng ôm lấy Lịch trong tay đã trở lại trong tâm trí. Chàng nhớ lại với nhiều tình cảm lẫn lộn. Đôi lần, nghĩ đến, tim chàng đập mạnh và chàng cảm thấy lòng mình rung lên khi nhìn khuôn mặt đẹp đẽ trang nghiêm của Lịch nghiêng nghiêng trên quyển Kinh Tôrát, hay khi nàng ngước mắt lên nhìn thân phụ nàng với một vẻ sùng mộ. Song Đavít bắt đầu hiểu rõ rằng cuộc hôn nhân của chàng không phải là một cuộc hôn nhân thường. Nếu chàng chọn Lịch, thì đó chỉ bởi một lý do vượt quá sức chàng. Chàng muốn được giống như mọi người khác, nhưng cảm thấy điều đó không thể được.
Trang nói:
- Tôi không nghĩ đến cậu mà là nghĩ đến Quí Lan.
Đavít điên tiết ngay. Chàng rít lên:
- Trước khi nàng chỉ nghĩ đến tôi kia mà?
- Tại sao bây giờ tôi còn nghĩ đến cậu nữa?
Giọng nàng lạnh lùng đanh lại, chàng không biết gì, vẻ mặt vẫn dửng dưng. Chàng giận giữ kêu lên:
- Trang, nàng sẽ đi đến đâu?
Trang cúi nhìn xuống:
- Tôi sẽ không đi đến đâu cả, chính cậu là người…
- Tôi vẫn thế!
- Không phải bây giờ! - Nàng vừa nói vừa lắc đầu.
Chàng nắm lấy tay Trang; nàng gỡ ra, kêu lên:
- Để cho tôi đi.
- Không. Nàng hãy kể cho tôi nghe cô ấy ra sao đã.
Bầu không khí im lặng một lúc lâu. Đavít cầm tay Trang, gài những ngón tay mình giữa những ngón tay nàng; người nàng rung lên. Nàng muốn được nắm lấy tay chàng và giữ chặt trong tay mình. Nàng gần muốn khóc; tim đập dồn dập trong lồng ngực nàng. Rồi, nàng ngước nhìn chàng thỏ thẻ:
- Cô ấy… Cô ấy… bận… bận màu xanh lá cây sẫm.
- Khuôn mặt ra sao?
- Nhưng cậu đã biết mặt nàng rất xinh đẹp!
- Nói đi, sao?
- À… À… miệng cô nhỏ, môi dưới dầy hơn môi trên một chút, mọng đỏ như một quả lựu chín… hàm răng đều và trắng khi cô ta viết cái lưỡi liếm vào môi, xinh như lưỡi một con mèo con.
Trang ngừng lại.
- Gì nữa?
- Mắt nàng đen ngời, đôi mày như lá liễu, cậu có thấy rõ không?... Khuôn mặt cô ta giống hình trái xoan, dường như… đôi tai nhỏ và trắng xanh. Trên mái tóc cô có cài một đóa hoa hồng…
- Kể tiếp nữa đi.
- Tôi cúi xuống một bên cô trong lúc cô viết, hơi thở của cô như hương hoa; còn bàn tay của cô thì thanh mảnh hơn cả tay của tôi nữa.
Đavít mở ngửa bàn tay của Trang ra trong tay mình. Chàng nói:
- Tay Trang nhỏ và đẹp đấy chứ!
Trang nhìn chàng và nói cách van lơn:
- Cậu đừng có làm cho cô ấy yêu cậu!
Chàng để tay nàng xuống bàn.
- Sao Trang biết cô ta nghĩ đến tôi?
Trang vòng tay lại trong hai cánh tay áo phồng. Nàng cúi xuống, khẽ nói:
- Tôi biết!
- Nói đi Trang!
- Khó nói lắm. Đó là điều mà tôi cảm thấy.
Một sự im lặng bao trùm lấy hai người. Đavít đột ngột đứng dậy và quay sang phía kệ sách. Trang hiểu rõ lắm.
Chàng nói mà không quay lại:
- Tôi muốn đích thân gặp lại nàng.
Trang mỉm cười sau hai cánh tay áo. Nàng đáp:
- Không!
Đavít nắm tay đấm xuống mặt bàn rít lên:
- Có!
Trang nói:
- Cậu dữ quá!
- Tôi biết phải làm gì nếu tôi không thấy cô ấy?
Trang nghĩ ngợi:
- Nếu tôi thu xếp để cậu gặp cô ta thì cậu phải hứa với tôi đừng có viết gì cho cô nữa mà cũng đừng có xin gặp cô nơi này nơi khác và đừng có làm một việc gì có thể khiến cho lòng cô tan nát, nghe cậu?
Đôi mắt chàng chớp chớp và miệng mỉm cười:
- Ừ, tôi hứa với Trang như thế. Khi tôi thấy cô ta, tôi sẽ quyết định, rồi tôi sẽ viết thư cho cô ấy hoặc gặp nàng nếu tôi muốn.
Mắt trong mắt, họ đắm đuối nhìn nhau rất lâu. Rồi Trang đứng dậy với một vẻ duyên dáng thường lệ.
Nàng trịnh trọng nói:
- Đó phải là một lời giao ước giữa chúng ta.
Nàng đưa tay sờ thử bình trà, nhận thấy còn đủ nóng nên chúc chàng ngon giấc rồi lui ra và lấy làm thỏa dạ.
Giữa lúc trong nhà xảy ra những sự biến đổi ấy thì ông Era giữ một vẻ lặng thinh khác với thường ngày. Câu chuyện ông Cao Liên đã kể làm cho ông quá xúc động. Nhưng đời ông là một cuộc đời hoạt động và thỏa mãn, nên những cảm giác ấy khi thu nhận bị giảm bớt hiệu lực rất nhiều. Vợ ông, cái người đàn bà lạ lùng và khó hiểu ấy, là người giữ đức tin cho ông. Mọi hoạt động về thương mại, xem ra ông rất sáng suốt; nhưng khi nghĩ đến Thiên Chúa thì tâm trí ông lại mờ mịt tối tăm. Vợ ông nhắc cho ông nhớ đến thân sinh ông, người mà ông đã yêu thương và kính sợ, thân phụ ông luôn luôn dịu dàng, nhưng buồn, một nỗi buồn dai dẳng. Lúc trẻ thơ ông không thể hiểu được, nhưng nó đã làm cho ông cảm thấy mình có tội mà tội ấy không phải do mình gây ra nên đã chạy đến chia sẻ cùng người mẹ Trung Hoa của mình. Tuy nhiên, ông không bao giờ nghe đến một lời than trách, và mẹ ông cũng không thể tỏ vẻ buồn rầu hay hối hận. Cạnh mẹ, ông quên tất cả, nhưng khi bà đã mất thì cái cảm giác về tội phạm ấy chỉ đè nặng lên trên một mình ông và sau đó ít lâu, để làm vừa lòng thân sinh, ông cưới cô Naomy làm vợ. Trong thời gian đầu chung sống, ông đã cố gắng rất nhiều để làm vui lòng người vợ trẻ. Nhưng thấy rõ rằng mình sẽ không bao giờ đạt đến được sự thỏa hiệp hoàn toàn, nên ông đã trở về với cái nếp sống cũ và tìm lại được tất cả tính vui vẻ ngày xưa. Tuy nhiên, đôi lúc, nỗi ám ảnh và cái cảm giác khó hiểu về tội lỗi ấy đã trỗi dậy trong lòng ông, giống như khi Cao Liên kể câu chuyện người Do Thái bị tàn sát.
Ông Era nhận thấy biết bao việc đã xảy ra trong nhà và lũ nô tì Trung Hoa cũng đã thông báo cho ông biết những điều đó. Ông không nói gì cả. Ông hiểu người này người khác, bởi vì ngay ông cũng cảm thấy bị chia trí. Nhờ đôi mắt tinh tế của thím Hoàng mà ông biết rằng, vị giáo trưởng đang xây một cái mộng lớn là được thấy Đavít đứng đầu dân tộc Do Thái nếu Arông không tròn nhiệm vụ. Thím Hoàng đã không lầm. Sau vài buổi học, vì không thấy rõ được mặt Đavít nên vị giáo trưởng nói:
- Con ơi! Đến đây, đến đây để ta được biết mặt con!
Đavít đến bên Ngài.
- Con hãy quì xuống như quì trước mặt Chúa con ạ.
Đavít quì xuống, giáo trưởng đưa tay sờ khuôn mặt trẻ trung của chàng, mười đầu ngón tay Ngài rất tinh nhạy, đến nỗi Đavít như cảm thấy một niềm vui chiếu sáng trên khuôn mặt nhăn nheo. Tiếp đến, Ngài sờ thử đôi vai rộng, lồng ngực nở nang và cái vóc dáng thon thon của chàng thanh niên. Ngài kéo chàng đứng dậy, sờ vào đôi đầu gối thẳng tắp, hai mắt cá chắc gọn và đôi bàn chân vững vàng. Ngài cầm lấy hai bàn tay của Đavít để biết rõ cái hình thể và sức mạnh của chúng. Tiếp đến, Ngài đứng lên và sờ vào đỉnh đầu chàng. Thốt nhiên, Ngài nói:
- Con cao lớn hơn ta, con ạ.
Arông nhìn một cách cau có.
- Ồ! Nếu con là con trai của ta, thì ta được ơn Chúa biết bao!
Nghe vậy, Đavít đột nhiên cảm thương cho Arông người con trai đã bị thất sủng. Nhìn chàng, Đavít nói với giáo trưởng:
- Theo con tưởng, bề ngoài của con người không đáng kể; ít ra đó là điều mà con đã học ở thầy đồ nho của con.
Giáo trưởng hỏi, vẻ ganh tị:
- Ông ta có còn dạy con nữa không?
Đavít do dự, đáp:
- Mẹ con đã cho thầy ấy nghỉ dạy từ khi Ngài đến.
Bà Era đã bảo vị đồ nho nghỉ dạy mà không nói trước cho ai biết cả. Đavít do dự, vì chàng không muốn giáo trưởng biết chàng vẫn còn tiếp tục đến gặp thầy đồ già của chàng. Ông Era biết việc này, do thím Hoàng nói. Thím ta thì thầm:
- Hồi trưa, cậu con đến gặp thầy đồ tại nhà ông ấy ở đường Tiết Phụ.
Mỗi buổi chiều, thím Hoàng bưng đến cho ông một chén nước gạo rang. Ông thủng thỉnh hớp từng hớp một và nghe người nữ tì mách chuyện. Nhờ thế ông biết thêm được nhiều điều. Khi thím Hoàng cho ông biết việc ấy, ông có vẻ nghiêm nghị và thím ta do dự tiếp:
- Cậu ấy có nên học chữ nho nữa không?
Ông Era nghĩ ngợi, hai tay ôm cái chén, miệng húp từng ngụm nước gạo rang nóng và thơm. Ông nói:
- Ta không muốn quyết định việc ấy. Theo ta, vì kính nể mẹ, Đavít phải tránh ông đồ nho vì ông ta khó phá bỏ được những gì mà vị giáo trưởng đã làm.
Thím Hoàng kêu lên cách lo lắng:
- Sao ông nghiêm khắc đến thế?
Sự thân mật giữa hai người trong thời họ còn xuân trẻ, cho phép người tì nữ đối diện với chủ nhân, một sự tự do mà bà ta không có đối với ai khác.
- Thiên Chúa của ta không muốn thế.
Thím Hoàng đáp:
- Các thần thánh đều do con người tạo ra. Người Do Thái đã tạo ra Chúa của họ.
Ông Era bật cười:
- Không phải là ta.
Nụ cười nở ra giữa chòm râu đen, quá tươi trẻ, quá chân thật làm thím Hoàng nhớ lại cái chàng tuổi trẻ ngày xưa, thím mỉm cười. Rồi thím cúi xuống thì thầm vào tai chủ:
- Đừng để con trai ông khổ sở. Tôi biết cậu ấy lắm. Ông là người Do Thái, ông bị buộc phải giống người Do Thái. Ông nói đi… nhưng không, vô ích… khi ông nghĩ đến thân sinh ông là Do Thái, thì ông buồn. Khi ông nhớ lại mẹ ông là người Trung Hoa, thì ông sung sướng, cuộc đời thật là tốt đẹp.
Ông Era nhận thấy thím Hoàng đã đưa vấn đề đi hơi xa một chút. Ông nói:
- Có lẽ đôi khi ta đã buồn vì ta cảm thấy mình không phải là một người Do Thái tốt.
Thím Hoàng cười.
- Ông sẽ sung sướng khi ông nghĩ rằng ông là một người công bình và nhân ái, một người giàu có và thông minh, ngoài ra thì có gì quan trọng đâu? - Thím ta nhích lại gần ông hơn. - Trong thành phố này ai ai cũng kính trọng ông. Nào có ai nghĩ đến việc thân sinh ông trước kia ra sao đâu?
Ông Era cảm thấy xúc động mỗi lần thím Hoàng minh chứng như thế với một lòng mến phục và thân yêu. Từ hồi hai người còn xuân trẻ, người tì nữ Trung Hoa này đã hết lòng tán đồng ý kiến ông, điều mà vợ ông đã khước từ. Ông thích cảm thấy mình sung sướng và tin cậy thím Hoàng, người đã mang niềm vui đến cho ông.
Thím Hoàng nói:
- Kìa, ông không đặt lại sự giao thương cùng ông Khương Sơn à? Từ ngày đoàn thương hồ về đến nay ông có vẻ buồn buồn. Ông cứ ở nhà mãi. Đàn ông đừng ở nhà mãi như thế. Để việc nhà cho đàn bà. Ông Khương Sơn sẽ tự hỏi rằng bây giờ ông đã ra sao. Ông ấy bị hối thúc đặt hàng của nhà mình bán ở các thương điếm của ông.
- Thím nói có lý. Sáng mai ta sẽ đến văn phòng của ông ấy sớm.
Ông đứng dậy thay áo quần ngủ, còn thím Hoàng thì mang cái chén đi. Khi thím Hoàng ra đến cửa, ông nhớ lại và nói theo:
- Phải để Đavít đi gặp thầy đồ già của nó.
Thím chậm rãi đáp:
- Có thế chứ!
Sáng hôm sau, ông Era thức dậy, lòng đầy tràn một nghị lực mới và cảm thấy yêu đời. Điều này đã khiến ông linh động và rộng rãi trong vấn đề buôn bán, do đó, ông quyết định mời ông Khương Sơn dùng cơm tối tại Thạch Kiều tửu quán, ngôi tửu quán sang trọng nhất thành phố. Cao Liên cũng sẽ đến dự và cả ba người sẽ cùng thảo luận về các cuộc kinh doanh mới, nhiều lời. Thời thế làm ăn dễ dàng. Gần mười năm nay chưa bao giờ có cảnh đói kém. Vị Tổng Đốc là người đức độ, thuế má không có gì quá nặng, vì vậy người dân chịu mua sắm. Đó chính là lúc làm thương mãi.
Sáng hôm ấy, ông Era ra đi, không gặp ai trong nhà, ngoại trừ hai vợ chồng lão Hoàng là những người hầu hạ ông. Thím Hoàng thỏa dạ về những điều thím đã nói với ông hôm qua, thím lặng thinh mỉm cười. Vốn sốt sắng, lão Hoàng tìm cách làm vui lòng ông chủ. Lão ta trỗi dậy, ăn vận sạch sẽ, đứng gác ở cổng và cái xe lừa có mui đậu đợi sẵn bên ngoài. Đó là một buổi sáng hè đẹp trời, ngoài đường kẻ qua người lại tươi tỉnh, sung túc và sẵn sàng để vui đùa. Vừa đi giữa đám đông ông Era vừa tự bảo nếu cứ khăng khăng cho rằng dãy đất ấy là của tổ tiên thì là chuyện điên rồ. Được sinh trưởng ở đây thật quá hạnh phúc. Ông khá rõ rằng Palestine là một xứ sở nhỏ bé, khô khan, hạng người du mục và ngoại giáo đã cư ngụ từng bao thế kỷ. “Nếu chúng ta trở về đấy, ông thầm nghĩ, chúng ta có thể để họ đến sinh sống không? Nơi đây chúng ta được trọng đãi, không ở lại đây thì thật là điên rồ”.
Ông Era tự hỏi, nếu ở đây người ta thù ghét ông thì sao? Ông không thể tưởng có điều ấy được. Ở Trung Hoa người ta chưa bao giờ tàn sát ai vì lý do chủng tộc cả. Sự thật, người Trung Hoa có thể tỏ ra độc ác với kẻ mà họ ghét, nhưng không phải vì lý do chủng tộc, mà là để hành phạt một kẻ phạm lỗi. Một lần, khi ông Era còn bé, ông từng thấy một người Bồ-đào-nha bị kẻ đi đường đánh trọng thương vì hắn ta đã dám động đến một cô gái quê theo cha lên phố bán rau. Era đã chạy đến xem, nhưng người đàn ông ấy không còn hình thể nữa, chỉ là một đống thịt bầy nhầy. Người ta có thể nhận ra cái đầu: một vật to lớn, tóc đen quăn, rối bù, đôi mắt còn mở lớn, cái miệng tầm thường với đôi môi nhợt nhạt ở giữa chòm râu rậm, màu nâu. Nhưng người đàn ông ấy đã tự mình gây nên cái chết, và mọi người đều cảm thấy rằng công lý đã được thi hành. Nếu gã Bồ-đào-nha kia tỏ ra lễ độ, người ta sẽ tiếp đón tử tế. Người ta sẽ khéo léo nhìn hắn cách tò mò, và có thể họ sẽ chế giễu chút ít về cái đầu tóc rối bù của hắn mà không hành động điều gì không tốt đối với hắn cả.
Vì đã được tin trước nên ông Khương Sơn chờ đợi ông Era. Ông ngồi trong một gian phòng lớn nơi thương điếm của ông, trung tâm của mọi việc kinh doanh. Gian phòng trưng bày toàn đồ quí giá: nền nhà lát bằng đá men, bàn ghế đều bằng gỗ gụ chạm trổ tinh vi, khảm cẩm thạch Giang Nam. Những cái gối tựa bọc sa-tanh đỏ thẩm càng làm tăng thêm vẻ sang trọng của các ghế ngồi, cửa sổ đều che mành trúc kết bằng những dây tơ màu sắc rực rỡ. Tất cả dường như trưng bày vì tiện nghi, nhưng nhờ kinh nghiệm, ông Era biết rằng đó là một lối quảng cáo khéo léo.
Khi ông Era bước vào, ông Khương Sơn đứng nghiêng mình một cách rất là thân hữu.
- Chào bác, chà lâu ngày quá! Tôi có sai thằng tiểu đồng đến hỏi thăm người gác cổng nhà bác. Tôi muốn biết, nếu quả bác đau thì khỏi dám phiền bác về chuyện ấy nữa.
- Dạ không dám, xin bác tha lỗi!
Chủ khách an vị. Cánh cửa hé mở, một tì nữ bước vào dọn nước trà và bánh ngọt, đoạn lui ra.
Sau khi uống nước trà và ăn bánh ngọt, ông Khương Sơn nói:
- Tôi hy vọng rằng bên nhà, bác không gặp sự gì bất như ý.
- Dạ, không!
Ông do dự. Làm sao giải thích cho ông Khương Sơn, con người rất tốt và đầy lịch sự này rõ nhưng điều đã xảy ra tại nhà ông? Đột nhiên, ông quyết định sẽ dò hỏi ý kiến ông Khương Sơn để xem bạn ông trả lời ra sao. Tại sao ngoài người Trung Hoa ra, mọi dân tộc đều xem người Do Thái là những kẻ lầm lỗi? Có lẽ con người chính trực này sẽ giúp ông khám phá ra tại sao người ta đã thù ghét người Do Thái trong bao xứ sở và nếu quả họ là thủ phạm, tại sao ở đây người ta lại tiếp đón họ tử tế?
- Tôi muốn hỏi bác một vấn đề, nhưng tôi lại tự hỏi nếu tôi nói rõ cho bác hiểu, chính xác, bác sẽ nghĩ sao.
- Bác thử nói xem.
Ông Khương Sơn có vẻ đầy khôn ngoan, đầy hiểu biết. Ông bận áo gấm xanh thẫm, nụ cười nở ra trên khuôn mặt nhẵn nhụi, và trong đôi mắt ánh lên một vẻ bằng lòng. Ông Era cảm thấy như tin cậy ở một người anh. Ông nói:
- Đại huynh ạ. Thân phụ tôi là con dân của một dân tộc kỳ lạ, một dân tộc mà tôi không bao giờ hiểu nổi, ngoại trừ một vài khía cạnh của chính mình tôi. Đại huynh phải biết, dân tộc chúng tôi…
Ông Khương Sơn dịu dàng:
- Đại huynh cứ kể…
- Một dân tộc nhỏ bé, một nhóm người giữa đại đa số. Chúng tôi đã chết dần mòn trong kiếp nô lệ ở Ai Cập.
- Tại sao thế?
- Tôi cũng không hiểu. Theo truyền thuyết, người ta cho rằng dân tộc chúng tôi đã làm cho đấng Dêhôva nổi giận, tôi không hiểu lý do vì sao.
- Dêhôva là gì?
- Là Thượng Đế của dân tộc Do Thái.
Một nụ cười lướt qua khuôn mặt ông Khương Sơn, nhưng ông nói cách lịch thiệp và tôn kính:
- Đó là Thượng Đế của bộ lạc trong nước đại huynh à?
Ông Era do dự:
- Thân phụ tôi xem Ngài là Thượng Đế của nhân loại. Vị Thượng Đế chân thật và độc nhất.
- Ở đây chúng tôi chưa bao giờ nghe nói đến Ngài, nhưng xin đại huynh cứ tiếp tục.
- Dân tộc chúng tôi được giải thoát khỏi ách nô lệ nhờ tay của một trong những vị thủ lãnh của chúng tôi. Ông ta đã hứa, nghĩa là Thượng Đế hứa rằng, nếu chúng tôi vâng lời Ngài trong mọi việc, chúng tôi sẽ được trở về đất tổ.
Ông Khương Sơn ra chiều lưu ý, hỏi:
- Thân phụ đại huynh có trở về đấy à?
- Không, nhưng một vài người trong chúng tôi đã trở về đấy. - Ông Era đáp, luôn luôn do dự.
- Vậy, tại sao dân tộc bác vẫn còn phải sống tản mát?
- Dân tộc chúng tôi đã không vâng lời Chúa; đã chung lộn với người ngoại giáo và đã làm nhiều việc như thế!
Ông Era khó mà giải thích điều ấy trước nét nhìn tươi sáng và nhã nhặn của người bạn Trung Hoa - đột nhiên ông ta từ bỏ câu chuyện định nói. Thật là khó, điều ấy có vẻ vô lý!
Khi ông Era không nói nữa, ông Khương Sơn hỏi:
- Nhưng bây giờ những việc ấy có can gì đến chúng ta nữa đâu?
- Tôi có thể nói rằng việc ấy không quan hệ gì đến tôi cả nếu Cao Liên không mang về cho chúng tôi cái tin thương tâm là: người ta đã tàn sát dân Do Thái hàng ngàn - ở bên kia chân trời.
- Khổ chưa! Họ đã phạm lỗi bên ấy sao?
Ông Era đáp, cương quyết:
- Không, không một lỗi nào.
- Vậy tại sao họ lại khốn khổ thế?
- Đó là điều mà tôi muốn hỏi bác. Xin bác tự xét lấy những gì bác đã thấy ở chúng tôi, ở đây!
Ông Khương Sơn lắc đầu:
- Tôi không thể nói với bác lời gì về việc ấy. Tôi chưa bao giờ nghe nói một việc như vậy. Tôi muốn sẽ tự mình hỏi Cao Liên việc này.
Đó là điều mà ông Era đang mong.
- Tôi đến đây, đúng là để mời bác dùng bữa tiệc rượu cùng tôi chiều nay. Tôi sẽ xin đưa Cao Liên đến.
- Ồ, bác tốt quá! Cảm ơn bác.
Ông Era hỏi:
- Vậy quán Thạch Kiều nhé?
- Chỗ ấy thì tuyệt.
- Vào khoảng trăng mọc nhé?
- Lúc ấy tuyệt nhất, nhưng xin bác cho tôi được hân hạnh mời bác, tiếp bác.
Sau một đôi câu từ chối xã giao, ông Era nhận lời, và dường như không nêu chuyện kinh doanh trước khi dự một buổi tiệc. Ông trao đổi đôi lời cùng ông Khương Sơn, đoạn đứng dậy chào để ra về và hứa sẽ gặp lại nhau ngay tối hôm ấy.
Hôm ấy mỗi người lo công chuyện của mình. Ông Khương Sơn cho mời những người tín nhiệm trong thương điếm của ông đến để hỏi về cái tập đoàn Do Thái nhỏ bé xưa kia đã đến lập nghiệp tại thành phố này.
Trong bọn họ có hai người cao niên nhất; một là người đã hùn vốn với thân phụ ông Khương Sơn. Ông lão đã ngoài thất tuần. Suốt ngày lão chỉ ở trong phòng giấy. Tính ham làm việc của lão đã làm cho lũ con lão xấu hổ, nhưng họ không sao có thể làm cho lão nhượng bộ được. Để tỏ đạo làm con, mặc dầu người con trưởng không tán thành, ông vẫn lẳng lặng dẫn cụ đến vào buổi trưa, rồi trở lại tìm cụ vào lúc mặt trời sắp lặn.
Đó là một lão già tên gọi là An Huy, họ Trần. Ông Khương Sơn hỏi cụ về những người Do Thái.
Cụ Trần An Huy đáp:
- Người ta nhận thấy người Do Thái di cư dần dà đến nước ta nhất là trong thành phố chúng ta đây, vì kế cận một con sông lớn. Tôi nhớ lại tổ nội tôi nói rằng họ đến một hoặc hai đợt gì đấy, mỗi đợt hàng trăm người. Tổ tiên chúng ta đã tề tựu nhau lại tại Văn Miếu để quyết định việc có nên khoan hồng cho họ hay không. Tổ tiên chúng ta đã nghĩ rằng, nếu họ đến quá đông, họ có thể mang lại nhiều sự thay đổi giữa chúng ta. Nhưng có một vài người trong số dân Do Thái ấy nói rành tiếng của chúng ta nhờ đến buôn bán trước, trình với tổ tiên chúng ta rằng dân tộc họ chỉ xin cư ngụ tại đây, yên ổn, theo luật lệ và cổ tục của họ. Họ có một vị Chúa nhưng họ không buộc người khác tin vào Ngài; họ chỉ muốn rằng chúng ta cứ để cho mặc họ giữ những tục lệ của họ.
- Thế tại sao họ lìa bỏ tổ quốc của họ?
- Tôi chỉ nhớ có bấy nhiêu, vì tôi không hề nghĩ đến chuyện ấy kể từ bao năm nay, họ bị một quốc gia hiếu chiến tấn công. Bao người Do Thái đã kháng cự lại, một số người khác thì thỏa hiệp. - Ông lão ngậm thinh, lắc đầu. - Tôi không còn nhớ lại gì hơn.
Ông Khương Sơn khẩn khoản:
- Còn một vấn đề nữa. Những người đến cư trú ở trong thành phố chúng ta đều là những người thuộc phe kháng chiến hoặc phe chủ hòa cả phải không?
Cụ Trần An Huy không thể trả lời được. Tuy nhiên, một lá