- 6 -
Sống trong nhà họ Era, vị giáo trưởng cảm thấy hoàn toàn sung sướng. Trong thâm tâm, cụ không bao giờ muốn chấp nhận điều ấy, song vì vẻ yên tĩnh của ngôi nhà, những cao lương mỹ vị cùng sự cách biệt sân này với sân khác đã an ủi vỗ về cụ.
Bà Era rất chu đáo, bà chăm sóc từng nghi thức của ngày lễ Sa Ba và những ngày lễ trọng trong năm. Khi Đavít ở cùng giáo trưởng, bà thường đến hỏi xem mọi sự có đúng lề luật Tôrát không vì bà biết sau bao năm tháng, qua bao thế hệ sống giữa cái xứ ngoại giáo này, ngay cả bà cũng trở nên ngu muội. Do đó mà những nghi thức của ngày lễ Quá Hải và lễ Purim đã nhằm vào ngày đại nhạc hội mùa xuân, lễ “Trái đầu mùa” trúng với lễ “Trăng mùa hạ” và tuần chay thánh trước lễ Yom Kippur luôn luôn gặp vào kỳ Tết Nguyên Đán, cho nên thay vì phải ăn năn sám hối, Đavít lại vui đùa thỏa thích.
Vị giáo trưởng sốt sắng trả lời từng câu hỏi của bà Era. Tuy mắt không nhìn thấy gì, nhưng cụ đoán được sự việc qua cái làn sương mù của những rung cảm và ước muốn của mình. Cũng như cụ đã có cảm giác rằng, ngày này qua ngày khác, Đavít trong lúc nghe cụ giảng giải kinh Côran, đã chia sẻ cuộc sống và nỗi hoan hỉ của cụ và cùng với cụ tiến đến đấng Dêhôva. Giáo trưởng cảm thấy bao quanh mình một làn không khí nóng hổi và dũng mãnh có sự hiện diện của một đấng mà cụ ít rõ bản chất. Đấy hẳn là thần linh của Chúa đang bay lượn trên họ. Vị giáo trưởng già không thể hình dung được sự xích mích mà cụ cảm thấy trong lúc dạy kinh Tôrát cho Đavít, Lịch và Arông lại là sự xích mích cá nhân giữa ba người. Giáo trưởng quen sống trong cảnh mù lòa nên có một lối tiếp nhận riêng.
Vì vậy, cụ cảm thấy gian phòng chỉ yên tĩnh khi vắng mặt các trẻ; sự yên tĩnh biến mất khi chúng trở lại, dẫu chúng vui cười hay thinh lặng.
Cụ bảo Đavít:
- Trước đấng Dêhôva không được lười nhác, buồn ngủ con ạ! Chúng ta là một dân tộc hoạt động. Chúng ta có sứ mệnh thức tỉnh nhân loại cho đến ngày mọi người tất cả đều nhìn biết đấng Dêhôva, vị Chúa chân thật độc nhất. Chúng ta là những kẻ lữ hành, những người đi từ trái đất lên trời.
Cụ ngừng lại, ngửng cao đầu, dang hai tay ra đàng trước, kêu lên:
- Nghe đây, hỡi Itxraen! Thiên Chúa là Chúa độc nhất!
Câu nói quen thuộc này ở kinh Sêma, tuôn ra từ miệng vị giáo trưởng già, đã ám ảnh Đavít. Chàng cảm thấy luôn luôn có sự chia rẽ giữa trời và đất mà ngay cả tâm hồn chàng cũng bị phân chia. Chàng không thể trả lời cụ giáo trưởng, chàng chỉ biết nghe và đón nhận cái ý nghĩa sâu xa trong lòng tin của dân tộc chàng. Chàng bắt đầu hiểu điều mà mẹ chàng đã chứng tỏ bằng hành động, bằng sự tuân theo những ngày tiết lễ và những nghi thức tôn giáo, bằng cách từ chối tên Trung Hoa, vậy mà gần như hầu hết mọi người Do Thái chung quanh bà đều mang lấy một tên Tàu. Tất cả những điều đó chỉ biểu lộ ra bên ngoài cái tinh thần nồng nhiệt của vị giáo trưởng. Cả hai đều xác tín rằng dân tộc họ là dân tộc độc nhất, riêng biệt. Thượng đế dùng họ để thực hiện kế hoạch của người. Bà Era và vị giáo trưởng tin tưởng rằng Thiên Chúa đã giao phó cho dân tộc họ cái nhiệm vụ thiêng liêng là hãm mình đền tội cho đến khi nhân loại trở về với người.
Dần dần giáo trưởng nhận thấy rằng Đavít đã bắt đầu tin tưởng. Cụ đã lảng tránh con trai cụ làm nảy sinh sự xung đột giữa Đavít, Lịch và Arông. Ban đầu, giáo trưởng thường hỏi thăm Arông mỗi buổi sáng, bây giờ cụ không còn bận tâm nữa. Khi Đavít bước vào, cụ hướng về phía chàng, xúc động và run run đưa hai tay ra cho đến khi cụ cảm thấy tay mình được nằm trong đôi tay thân ái của Đavít. Cụ sờ vào đầu vào mặt của chàng thanh niên và kéo ngồi xuống cạnh mình. Cảm thấy bị bỏ quên, Arông đã trở nên khó chịu và không thể oán trách cha, chàng đã trút tất cả sự tức giận của chàng lên Lịch. Khi chỉ có hai người chàng đã nói với chị:
- Các người đã âm mưu chống tôi. Các người muốn Đavít làm giáo trưởng thay tôi khi cha tôi chết, để nó trở thành thủ lãnh của dân tộc chúng ta. Nhưng chính chị sẽ thực sự là cái đầu, chị sẽ điều khiển Đavít giống như mụ già Era điều khiển chồng mụ.
Lịch quá dịu hiền, quá phúc hậu đến nỗi nàng không có thể nói được lời nào. Trong khi thân sinh họ dạy kinh Tôrát thì Arông dằn vặt chị; hai mắt Lịch rưng rưng ngấn lệ, nhưng nàng không nói gì cả. Arông tưởng rằng những điều tàn nhẫn ấy qua đi không ai nhận thấy, nhưng Đavít không bỏ sót một cử chỉ nào. Đavít cảm thấy ghê tởm Arông, dù chàng đã xem hắn không hơn một con chó trong nhà. Arông đã nịnh hót chàng, tán tỉnh chàng nhập vào đám bạn bè trác táng của nó, nhưng Đavít dường như không nghe, không hiểu, gã Arông đã tự rút lui và thù ghét Đavít vì vẻ thung dung và kiêu ngạo của chàng.
Nhận thấy Arông bắt nạt Lịch, một buổi sáng, Đavít ngăn nàng trên ngưỡng cửa và nói:
- Tại sao em khóc khi Arông nhăn nhó một cách ngu ngốc như thế?
- Bởi vì em biết nó nghĩ gì.
Họ đứng dưới ánh nắng mặt trời, Đavít thầm khen sắc da tươi mát của Lịch và mái tóc nâu bóng của nàng. Chàng không tỏ một cử chỉ yêu đương nào kể từ buổi sáng trong vườn đào, bởi vì tâm hồn chàng ngày một càng thêm bối rối – đôi mắt Lịch nồng nàn, âu yếm ngước nhìn Đavít làm tăng thêm nỗi e thẹn, khiến chàng nói không ra lời:
- Arông nghĩ gì?
Lịch thành thật thú nhận:
- Em xấu hổ nói ra điều đó.
Nếu Đavít sáng suốt nhận định chắc chàng đã yêu cầu giải thích, nhưng chàng không nài nỉ vì sợ Lịch e thẹn về mối tình của nàng – chàng đột ngột nói:
- Arông là một thằng ngốc!
Ngay khi ấy, Arông tiến đến cửa chính. Đavít bước vào và Lịch theo sau chàng.
Vị giáo trưởng quên chính cả con gái ông. Mỗi buổi sáng nàng đến bất ngờ, không một tiếng động; khi vị giáo trưởng không nghe biết; nàng cất tiếng chào ông và ông miễn cưỡng trả lời. Ông chỉ nghĩ đến Đavít. Ông cầu nguyện suốt đêm và nếu ông tỉnh thức sau một giấc ngủ vắn vỏi, ông cảm thấy ngay một sự khích lệ cuồng nhiệt và nghĩ rằng ông chỉ ngủ khi Đavít đã thề hứa với Thượng đế. Mặc dầu mong muốn hết sức, nhưng ông không có thể đặt vấn đề trực tiếp với chàng. Tuy nhiên, sau khi giảng giải kinh Tôrát ông đã cố gắng dằn lòng không thốt ra câu nói sau đây: “Đavít, con có muốn là giáo trưởng sau ta không? Hãy nghe tiếng của Thượng đế, ôi! Đavít thân yêu”. Ông muốn bảo các con ông đi ra để ông có thể nói với Đavít. Tuy nhiên ông đã lặng thinh, quyết chờ lệnh thiêng.
Một hôm, vào cuối hè, vị giáo trưởng cảm thấy sự chờ đợi này đã vượt quá sức mình. Bấy giờ còn là tháng tám, tháng của những cơn giông. Buổi mai yên tĩnh và nóng bức – không khí nặng nề như sương mù đè xuống trên ông lão già cả. Ông bị kích động hết sức, bộ xương già yếu rung lên, và máu trong huyết quản dồn dập đến choáng váng cả người.
Sáng hôm ấy, Đavít đến sớm; Lịch xin cáo từ vì nàng đang đau khổ. Arông không đến cũng chẳng nói một lời. Một mình với Đavít, giáo trưởng cảm thấy tim mình đập mạnh – chưa đến lúc sao? Vị giáo trưởng già đã hết lòng giảng sách một cách cẩn trọng. Ông nhiệt thành tiến đến cạnh chàng thanh niên. Ngay Đavít cũng mệt mỏi bởi khí trời nóng bức, chàng không thể chịu nổi mùi hôi thum thủm của sự già nua tiết ra từ người giáo trưởng. Chàng đứng dậy giữa lúc đang học, bước vội ra khỏi phòng và thở dài. Giáo trưởng nghe biết và đột nhiên sợ hãi. Tại sao Thiên Chúa không phán bảo gì cả? Ông cụ ngẩng đầu lắng nghe, nhưng bầu không khí vẫn câm lặng. Kinh hãi, cụ cố hết sức để giữ vẻ trầm tĩnh, cụ nói:
- Con ạ, chúng ta hãy đến nhà của Chúa. Buổi sáng nóng bức, nhưng dưới bóng im của đền thờ, không khí sẽ mát mẻ.
- Tùy ý thầy.
- Con để thầy nắm lấy cánh tay con, chúng ta sẽ đi bộ.
Đền thờ không xa bao nhiêu. Nhà cửa của dân Do Thái chồng chất chung quanh, nằm dọc theo một vài con đường dẫn đến con đường mà người Trung Hoa gọi là “Đường rút gân” – quãng đường cũng như ngôi đền thờ rất quen thuộc đối với Đavít, tuy nhiên chàng cảm như thấy chúng lần đầu tiên. Cho đến nay ngôi đền thờ đối với chàng chỉ là nơi chàng thường đến một cách miễn cưỡng, rứt khỏi sự vui chơi để vâng lời mẹ chàng. Lần này chàng vào đó đầy ý chí, ước ao được đối diện với Thiên Chúa. Quyết định của chàng luôn luôn bị đè nén, không còn trì hoãn nữa, chàng bước đều theo nhịp chân của vị giáo trưởng, chậm và dài. Nếu ngày hôm ấy chàng nghe tiếng gọi của đấng Dêhôva, nếu chàng cảm thấy được chọn lựa, kêu mời, chàng sẽ mạnh dạn trả lời một tiếng, vâng hoặc không tùy theo sự truyền bảo của con tim.
Giáo trưởng thì thầm:
- Con có đội mũ chỏm hay không?
- Dạ có, con đội mũ chỏm mỗi buổi sáng khi con đến tìm thầy.
- Ta biết. Tại sao ta đặt câu hỏi này bởi vì con trung thành với giáo điều của Chúa.
Bất đắc dĩ, ông đưa tay lên sờ vào cái mũ chỏm trên đầu Đavít.
Đavít mỉm cười nói:
- Thầy không tin con?
Giáo trưởng cười xòa:
- Không, không!
Hai người đi vào của chính dẫn đến các sân bên ngoài đền thờ - hễ khi nào giáo trưởng đến đấy một mình, cụ đi thẳng vào các sân trong, sau bức tường thành, gần ngôi nhà nhỏ của cụ. Nhưng hôm nay cụ ước ao đưa Đavít đi ngang qua cánh cửa chính mà một ông già Do Thái thuộc dòng Di đang mở rộng. Cửa chính hướng về phía Đông và một cửa tò vò vĩ đại, đẹp đẽ xây cất ngay đằng sau. Ở bên kia là một cửa chính thứ hai và một cửa tò vò khác. Mỗi bên hai bia đá nằm trên hai cái bệ cũng bằng đá chạm hình những lá sen. Trên những bia đá này khắc ghi lịch sử dân tộc Do Thái và sự tan tác của họ bằng những cổ ngữ Hi-bá-lai. Đằng sau những phiến đá là một khoảng bao la, nóc bằng, dùng để căng cái lều lớn của ngày lễ “Dựng lều” và bên kia là cái hòm Thánh để trên cao phía trong nội cung. Đavít đã biết tất cả những sự đó, nhưng bây giờ là lần đầu tiên chàng thấu hiểu ý nghĩa. Đó là lâu đài của Thiên Chúa, dựng lên trong lòng một thành phố ngoại giáo, dân cư đông đúc, đầy những đình chùa miếu vũ.
Ở đây ít nóng hơn, Đavít cảm thấy khí mát trên ghế chàng – hàng cây ô-liu bao quanh sân, im lặng, dịu dàng. Nơi này vắng bóng con người tràn ngập một sự cao cả thần dịu. Một hàng chữ chạm trên những cửa tò vò hợp với không khí chung quanh: ĐỀN THỜ CỦA SỰ TINH KHIẾT VÀ AN BÌNH.
Vị giáo trưởng và Đavít chậm rãi tiến lên. Dừng trước một tấm đá lớn, chàng hỏi:
- Tại sao những chữ con thấy khắc trên một số lớn những tấm đá này đều là chữ Trung Hoa mà không là chữ Do Thái?
Giáo trưởng thở dài:
- Than ôi! Dân tộc chúng ta đã quên mất tiếng nói của tổ tiên. Sau khi ta chết không còn ai đọc được lời của Chúa.
Ông cụ dừng lại, với hy vọng rằng Đavít tự nguyện học chữ Do Thái. Hằng ngày ông đã chờ đợi, trong hão huyền, điều tự nguyện này, nhưng lần này Đavít cũng lặng thinh.
Chàng chỉ nói:
- Phải, lịch sử dân tộc chúng ta ghi chép bằng chữ rõ ràng trên tấm đá này.
Và chàng đã đọc hàng chữ Trung Hoa:
- “Abraham, vị tộc trưởng đã dựng nên Do Thái Giáo là thế hệ thứ mười một sau thành Bành Tổ A Đam.”
Giáo trưởng nói:
- Như con đã biết dân Trung Hoa cho rằng ông Bành Tổ là người đầu tiên. Gã thợ khắc những chữ này đã pha tên ông vào với tên A Đam.
Đavít mỉm cười đọc tiếp:
- “Từ khi tạo dựng nên Trời và Đất, những tộc trưởng đã truyền lại cổ tục mà họ đã thu nhận. Các ngài không tạo nên một hình ảnh nào, không tìm cách thỏa hiệp với thần linh cũng như ma quỷ, và không tin vào một sự mê tín nào. Trái lại các ngài đã tin tưởng rằng thần linh và ma quỷ không bảo vệ các ngài, vì thế những điều mê tín đều vô ích. Vậy cho nên Abraham chỉ suy tưởng đến Thượng đế.”
Giọng nói mạnh dạn và trẻ trung của Đavít chợt tắt. Tưởng niệm trên Trời, đó là điều mà vị giáo sư Trung Hoa đã dạy chàng. Chàng không còn đến nhà thầy đồ Nho từ nhiều tuần lễ nay, nhưng lần cuối cùng chàng đến thăm ông vào một buổi chiều lễ Đoan Ngọ - bầu trời đầy sao, ông đồ già ngẩng mặt lên trời khẽ nói:
“Chúng ta có thể suy tưởng về Trời, nhưng chúng ta không có thể hiểu được Trời.”
Cụ giáo trưởng nói, không nghi ngờ những tư tưởng của Đavít:
- Đền thờ đã hai lần bị nạn lụt sông Hoàng Hà tàn phá. Tuy nhiên những tảng đá lớn này đã được phòng giữ. Thiên Chúa không có đề tên của dân Người phải tiêu diệt.
Họ bước đi chậm rãi. Trời đột nhiên tối sầm. Đavít ngước mắt nhìn lên, chàng thấy lơ lửng trên không trung những đám mây đen viền bạc, chàng nói:
- Trời sắp mưa, và không khí khắp nơi sẽ mát hơn.
Cụ giáo trưởng không để ý gì đến chàng cả. Cụ xúc động trang nghiêm nói:
- Thầy muốn đặt Thánh Thư Tôrát vào tay con, con ạ.
Họ băng qua cái bậc cao tiến vào vùng tranh tối tranh sáng nội cung, bước trên những tảng đá lát và phẳng phiu. Họ đến gần cái vòm đặt sau một cái bàn cao trên đó có vòng cung ba phần với các hàng chữ sau đây:
“Chúc tụng Thiên Chúa”
Thần của các vị Thần, Chúa của các vị Chúa. Vị chúa cao cả toàn năng và Chí Thánh. Giáo trưởng lớn tiếng đọc với một giọng trầm hùng và ngay khi ấy giống như một tiếng vang từ trời cao, tiếng sấm vang dội ở trong ngôi đền. Giáo trưởng đứng bất động, đầu ngước lên cao. Trong sự im lặng và tiếp theo sau tiếng sét, ngài vén bức màn và Đavít nhìn thấy những chiếc hộp đựng kinh Tôrát. Những cái hộp ấy mạ vàng, khóa vàng và mỗi hộp có cái nắm tay hình lưỡi lửa.
- Đây là những pho sách Thánh của Maisen, vị giáo trưởng long trọng nói, tất cả gồm 12 cuốn, mỗi cuốn cho một chi phái của dân tộc chúng ta, và cuốn thứ 13 cho Maisen.
Cụ cầm lấy hộp thứ 13, hình trụ tròn giống như các hộp khác. Ông đặt lên cái ngai cao chạm trổ, tòa giảng của Maisen, mở hộp và lôi cuốn sách ra.
- Đưa tay ra. - Cụ bảo Đavít.
Đavít đưa tay ra và giáo trưởng đặt vào đó cuốn sách cổ, dưới hình thức một cuốn giấy dày.
- Mở ra. - Ông nói (và Đavít mở ra). - Ngươi có đọc được không?
- Không, thưa ngài, ngài biết rằng đây là chữ Do Thái cổ.
- Ta sẽ dạy cho ngươi. - Giáo trưởng nói. - Phần ngươi, con trai chính thật của ta, ta sẽ dạy cho con sự huyền diệu của ngôn ngữ này, trong đó Thiên chúa đã ban lề luật cho Maisen, tổ phụ chúng ta, Người đã từ núi xuống, mang nó đến cho dân tộc chúng ta đang chờ đợi trong thung lũng.
Sấm chớp lại gầm thét quanh đền thờ, vị giáo trưởng cúi đầu xuống. Khi sấm chớp lặng yên, ngài tiếp:
- Chính con là người sẽ nói với dân tộc chúng ta trong giới hạn lề luật. Một Maisen thứ hai, ôi, con yêu mến!
Đoạn ông ngẩng đầu lên, hai tay dang cao và kêu lên:
- Nghe đây, hỡi dân tộc Do Thái! Thiên Chúa là Trời là Chúa độc nhất!
Những tiếng cuối cùng chậm rãi và long trọng vang dội như những lời than vãn; tiếng sấm lại vang rền.
Làm sao biết được nếu tiếng ấy đã làm vang dội lời vị giáo trưởng, thì nó đã có thể góp phần trong việc khép kín tâm hồn Đavít, con trai ông Era? Bởi vì trong tâm hồn Đavít rung lên và tìm cách tiếp nhận giữa cơn giông tiếng nói vẫn còn quá yếu của Thiên Chúa, thì đôi mắt chàng lại nhìn vào một bảng chữ khắc nhỏ bằng đá.
Những bảng chữ này rất nhiều, dâng kính bởi những người Do Thái mong đợi từ bao thế kỷ, một phần nhỏ được lưu lại trong đền thờ này. Dòng chữ này rất giản dị, trên một bảng đá đầy bụi, không trang trí. Như một người Do Thái đã chết và đã bị quên lãng, đã ghi vào đấy tư tưởng của cá nhân ông. Đavít đọc: “Sự thờ phụng là để làm vinh danh Thượng Đế và tỏ lòng đạo đức theo gương tổ tiên. Nhưng trước sự thờ phụng và đạo đức còn có tinh thần nhân loại”.
Sự tinh quái của những chữ cuối cùng đánh mạnh Đavít, giống như một tiếng cười vang lên trong Thánh thất. Một lão già Do Thái lai Trung Hoa, đã viết câu đó, và có thể là chính ông ta đã tự tay khắc câu đó lên đá và đặt vào trong đền Thánh này. Đavít bật cười, không sao nín được:
Nghe chàng cười, vị giáo trưởng giận dữ, gay gắt hỏi:
- Sao nhà ngươi cười?
- Thưa cha, - Đavít thành thật nói - con thấy một cái gì làm cho con buồn cười.
- Hãy trả lại cho ta cuốn kinh Tôrát. - Ông già giận dữ nói.
- Xin cha tha lỗi cho con!
- Cầu xin Thiên Chúa tha tội cho nhà ngươi!
Vị giáo trưởng lấy lại kinh Tôrát từ tay Đavít, bỏ vào hộp và đặt vào tủ đựng Thánh tích. Ông cảm thấy bị tổn thương và bối rối, ông xây xẩm mặt mày, phải tựa vào tòa giảng Maisen. Ông đột ngột nói:
- Để mặc ta. Ta muốn cầu nguyện một lát.
- Con không phải đợi ngài sao? - Đavít nói, vẻ thẹn thùng, nhưng vẫn còn tươi cười.
- Ta sẽ tự kiếm lấy đường về.
Giọng nói của vị giáo trưởng thật nghiêm khắc, đến nỗi Đavít phải rút đi. Chàng thở một hơi dài, cảm thấy choáng váng bởi không khí thay đổi bất ngờ và ngay cả chính bản thân chàng cũng đổi thay khiến chàng không thể nhận định được chính xác những gì dã xảy ra. “Trước sự thờ phụng và đạo đức còn có tinh thần nhân loại”. Tinh thần nhân loại đó là tư tưởng của chính chàng.
Đavít bước những bước cao ra cửa đền thờ, tâm thần chàng bị căng thẳng trong bao ngày nay đột nhiên được giải tỏa giống như một cái cung đã buông tên. Cơn mưa giông đã dứt trên thành phố, không khí trở nên mát mẻ và trong sáng; mặt trời chiếu lấp lánh trên các mái nhà và trên vệ đường ướt, khách bộ hành có vẻ tươi vui, hăng hái và linh hoạt.
Mặt trời trực tiếp chiếu xuống đường phố, sau cơn giông, và Đavít bất ngờ gặp ông Khương Sơn từ một phòng trà bước ra. Nơi đây ông đã ngồi tránh mưa và uống một tách nước trà sáng thường lệ. Ông cẩn thận bước từng bước một trên hè phố ướt để trở về thương điếm của ông. Cũng như bao giờ, ông có vẻ trầm lặng, thỏa mãn. Trong bầu không khí mát mẻ, cái áo lụa màu kem của ông trông vui mắt và đôi giày lụa đen vẫn sạch như chùi. Ông cầm một cái quạt lụa màu đen, tóc chải láng bóng, đánh thành bím với một sợi dây đen có tua. Người ta khó có thể gặp được trong thành phố một người đàn ông nào đẹp hơn ông. Ông không ngớt nhìn Đavít và dừng lại gọi chàng.
- Kìa cháu, cha cháu có mạnh khỏe không?
- Thưa bác, sáng hôm nay, cháu không gặp cha cháu đến ạ.
Đavít rảo bước theo ông vì không thể cưỡng được sự thu hút của người đàn ông bệ vệ nhưng thật nhã nhặn ấy, giống như một đứa trẻ ham thích một người lớn tuổi tươi cười và vui vẻ. Chàng sung sướng thụ hưởng tuổi xuân. Tuổi xuân đang độ nẩy nở sau những ngày tinh thần căng thẳng tột độ với vị giáo trưởng và những gì mà chàng đã phát hiện trong chính mình.
- Cậu đi nhà thờ về đấy à? - Ông Khương Sơn hỏi với cái giọng tự nhiên như là hỏi chàng đi xem hát về.
- Vị giáo trưởng đã dạy cháu học.
Ông Khương Sơn ngập ngừng, đoạn tò mò nói:
- Tôi muốn xem bên trong nhà đền thờ nhưng chỉ ngại điều đó bị cấm ngặt.
- Không hề gì! Bác hãy đi với cháu nếu bác muốn.
Đavít không muốn trở lại ngôi đền thờ chút nào nhưng chàng sung sướng được gần gũi ông Khương Sơn, hãnh diện đi trước dẫn đường cho ông. Lão gác cửa đền thờ do dự nhưng cũng đã mở cửa chính và để hai người bước vào.
Dưới bầu trời trong xanh, ngôi đền thờ tràn ngập ánh nắng đã tạo thành một quang cảnh tuyệt đẹp. Ông Khương Sơn quan sát chung quanh một cách xã giao, nhưng không kính sợ không tôn sùng. Đôi mắt linh hoạt của ông không bỏ sót vật gì, ông đọc các hàng chữ ghi chú trên đá với một giọng trầm hùng và vui vẻ. Ông tán thành tất.
Ông đã đọc hàng chữ sau đây:
“Nếu nhà ngươi chấp nhận sự hiện hữu của trời, đất, của quân, sư, phụ, thì nhà ngươi không xa con đường chính đạo.”
“Khi cúi đầu tôn sùng Thiên Chúa hằng sống, chúng ta phải thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể xác.”
Những câu châm ngôn này treo trên hàng cột ở cửa chính lối vào đại sảnh. Ông Khương Sơn lòng đầy cảm phục, quay nhìn với một vẻ ngạc nhiên và thỏa mãn:
- Này cậu, dân tộc của cậu và dân tộc của chúng tôi có chung một lòng tin. Có gì chia rẽ chúng ta đâu?
Và không đợi Đavít trả lời, ông lớn tiếng đọc:
“Từ thời tổ phụ Abraham, khi đức tin của chúng ta được thiết lập và liên tiếp về sau, chúng ta, những người Do Thái tại Trung Hoa đã luôn luôn truyền bá sự hiểu biết Thiên Chúa và ngược lại, chúng ta cũng đã tiếp nhận những gì tinh hoa của Khổng, Phật và Lão.”
Ông Khương Sơn gật gật cái đầu to tướng của ông ra vẻ tán đồng. Ông tiếp tục đọc hết bảng chữ này đến bảng chữ khác, và càng đọc càng thán phục. Nhưng câu này đã làm ông thích thú một cách đặc biệt:
“Chúng ta đốt hương trầm trước đấng tối cao, trong sự lãng quên hoàn toàn danh tánh Ngài và hình dáng của Ngài.”
Đavít và ông Khương Sơn sánh vai đi trong ngôi đền, mỗi người suy nghĩ về những ước muốn của mình. Ông Khương Sơn tự nhủ rằng ông không có gì phải khiếp sợ về việc gả cô con gái thứ ba của ông cho con trai một gia đình mà giáo thuyết hết sức gần gũi với đạo lý thánh hiền; Đavít thì cảm thấy cái trọng lực mà chàng đã tiếp nhận từ ngày Cao Liên trở về, hầu như tan biến mất. Sự hiện diện của ông Khương Sơn đã an ủi chàng, làm nhẹ lòng chàng và cởi mở những mối dây đã thắt chặt tâm hồn chàng bấy lâu. Cái con người tốt bụng này khó lầm lẫn, còn vị giáo trưởng thì đôi khi đã lầm lạc một cách nguy hiểm. Những tia sáng yếu ớt của hy vọng và an ủi đã len lỏi vào tận các xó ngách thầm kín nhất của tâm hồn chàng, và Đavít sau bao ngày khắc khổ, chàng mong ước được tiêu khiển; muốn được như trước kia, tức thời đi khắp các nẻo đường tràn ngập ánh mặt trời. Chàng có cảm tưởng như được trở về nhà sau cuộc hành trình trong một xứ miền u sầu ảm đạm; chàng đã nhận được cái cảm giác ấy từ ông Khương Sơn, nơi con người oai vệ, khoan thai và đại lượng đang đi bên chàng.
Ông Khương Sơn thán phục tất cả những gì mà ông đã thấy, những kiến trúc bằng đá, những đài kỷ niệm vòng cung, những chậu nước hình hoa sen trong các sân, nơi tắm gội và giết súc vật.
Ông rất ngạc nhiên thấy những kiến trúc này trong một đền thờ. Khi ông được giải thích rằng người Do Thái nhận thấy thể xác phải được trong sạch để giữ đúng nghi lễ, ông gật đầu đồng ý, nhưng khi Đavít giải thích thêm rằng tôn giáo của họ bắt buộc phải giết một con vật rút gân để cúng tế, thì ông Khương Sơn thắc mắc chẳng hiểu lý do. Khi ông nghe kể câu chuyện một người tên là Jacob chiến đấu với thiên thần, ông liền cười với một nụ cười hoài nghi.
- Về phần tôi, - ông nói - tôi không chấp nhận việc sát sinh, dù là để thờ phụng. - Rồi ông tiếp với một nụ cười cởi mở.
- Tuy nhiên, khi người ta dọn cho tôi một đĩa thịt heo thì tôi vẫn xơi ngon lành như thường lệ.
Đavít không nói gì; chàng tự hỏi không biết cụ giáo trưởng đã rời khỏi gian nội điện chưa? Chuyện gì sẽ xảy đến nếu cụ vẫn còn ở đấy? Chắc cụ sẽ xung trận vì Đavít đã quay trở lại mà còn dắt theo một người Trung Hoa. Đavít bước chậm rãi, anh sẵn sàng để dừng chân khi cần, nhưng mặc dầu không muốn, cuối cùng anh cũng đã bước vào cung thánh, nơi mà vị giáo trưởng đang quỳ cầu nguyện dưới tủ đựng Thánh tích. Đavít mừng thầm nghĩ rằng vị giáo trưởng không thể nào nhìn thấy được chàng và ông Khương Sơn, ngay cả nếu cụ có ngẩng đầu lên nhìn cũng vậy. Tuy nhiên chàng lấy làm hổ thẹn vì ý nghĩ ấy. Ông Khương Sơn ngừng lại ở ngưỡng của và nhìn Đavít.
- Cụ giáo trưởng… - Ông nói.
- Ngài đang cầu nguyện. - Đavít khẽ nói.
Cả hai đang quay gót trở ra thì vị giáo trưởng với thính giác hết sức tinh nhạy, nhận được tiếng bước chân và những tiếng thì thầm. Ông quay đầu hỏi lớn:
- Đavít, con! Con đã trở lại!
Giáo trưởng hối hận vì cơn nóng nảy của mình, cụ đã quỳ gối cầu nguyện trước Thiên Chúa, van xin ngài, cầu khẩn ngài dẫn đưa Đavít trởi lại và cụ tin chắc rằng lời cầu xin của cụ đã được chuẩn nhận. Cụ bước ra khỏi cửa, đưa tay chờ đón. Đavít thụt lùi, nhưng ông Khương Sơn với lòng quảng đại tự nhiên, tiến lên, nói:
- Thưa cụ giáo trưởng, xin cụ cẩn thận.
Vị giáo trưởng ngừng lại, buông hai tay xuống, hỏi:
- Ai đấy?
Ông Khương Sơn chân thật đáp ngay:
- Thưa cụ tôi đây, tôi là Khương Sơn, thương gia; tôi gặp cậu con trai của ông Era bạn tôi ở cửa, và vì tò mò, tôi đã nhờ cậu ấy dắt vào xem bên trong ngôi đền thờ của cụ.
Vị giáo trưởng nổi xung hét lên hỏi Đavít:
- Tại sao nhà người dám dẫn một người lạ vào nơi này hả?
Ông Khương Sơn có thể bỏ qua những lời nói đó vì ông cụ là một giáo trưởng già nua mê tín, nhưng ông nhận thấy bào chữa cho Đavít là điều phải, nên dịu giọng thưa:
- Xin lão sư bớt giận, không phải cậu ta mời tôi vào mà chính vì tôi yêu cầu đấy ạ. Xin lão sư cứ khiển trách tôi.
Giáo trưởng xẵng giọng:
- Ông là con cái của A Đam, còn nó, nó là con Thiên Chúa. Vậy phải khiển trách nó!
Ông Khương Sơn hết sức ngạc nhiên. Ông nói:
- Tôi không phải là con cái của A Đam, tổ tiên tôi không có ai tên đó cả.
- Tất cả người ngoại giáo đều là con cái của A Đam.
Ông Khương Sơn cảm thấy nổi nóng, ông nói:
- Tôi không muốn nghe ai nói rằng tôi là con của một người mà tôi chưa từng biết đến.
Giọng nói của ông vẫn ngọt ngào. Là một người cao thượng, ông cảm thấy tỏ lộ sự tức giận ra bên ngoài là một điều bất đối xứng, nhất là đối với người già cả. Nhưng cơn giận sôi sung sục trong lòng, và ông phải dằn lòng nói tiếp:
- Vả lại, tôi không thích nghe ai cho rằng họ và dân tộc của họ là con cái của Trời. Chúng tôi chấp nhận, nếu cụ muốn, rằng cụ là con cái Trời, nhưng có nhiều Trời kia mà.
- Chỉ có một Trời, một Chúa, đó là Dêhôva. - Toàn thân ông run rẩy khi nói những tiếng đó. Ông Khương Sơn nghiêm giọng nói:
- Các đồ đệ của Mahômet cũng cho rằng họ là con của Thiên Chúa. Allah. Không hiểu Allah có phải cũng chính là Dêhôva của cụ đấy chăng?
- Không có Thiên Chúa nào ngoài Thiên Chúa của chúng tôi cả. - Vị giáo trưởng nói lớn và dằn từng chữ một. - Ngài là vị Chúa thật và độc nhất.
Ông Khương Sơn chăm chú nhìn giáo trưởng, đoạn quay sang Đavít:
- Vị lão sư này điên rồi. - Ông nói. - Thật ái ngại cho ông. Những người suy nghĩ quá nhiều về Thần, Tiên, Ma, Quỷ hoặc những điều tương tự đều lâm vào trạng thái như thế. Tốt hơn hết là chúng ta không nên biết những gì ở bên ngoài trái đất này.
Nhưng vị giáo trưởng không muốn được thương xót. Ông lớn tiếng quả quyết:
- Chúng ta phải biết có những gì ngoài cái quả đất này. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chọn dân tộc chúng tôi; để cho chúng tôi nhắc nhở mãi mãi sự hiện hữu của ngài giữa nhân loại. Chỉ có ngài ngự trị. Chúng tôi là những con ong chăm chích vào tâm hồn người ta. Chúng tôi chỉ nghỉ ngơi khi nào nhân loại biết tin Thiên Chúa thật.
Tất cả cơn nóng giận đã tan trong lòng ông Khương Sơn. Ông nói với một giọng hết sức ôn tồn:
- Nếu quả có vị Chúa ấy, thì ngài sẽ không chọn một người để đặt lên trên mọi người và cũng không chọn một dân tộc để thống trị thế giới. Dưới bầu trời này, chúng ta đều là anh em.
Vị giáo trưởng không có thể chịu đựng được câu nói của ông Khương Sơn. Ông ta ngẩng cao đầu và cầu cúng Thiên Chúa của ông:
- Ôi! Lạy Chúa, Chúa có nghe chăng lời xúc phạm của kẻ ngoại giáo này!
Trong khi đôi bên tranh luận, Đavít đứng yên không nói một lời, hai tay chắp lại, đầu cúi xuống. Giữa hai người, tâm hồn chàng vẫn phân vân bất quyết.
Ông Khương Sơn quay sang Đavít:
- Hãy để cho lão sư cầu nguyện nếu điều đó an ủi được ngài. Tôi không tin các vị Chúa; vậy các vị ấy không có thể gây thiệt hại gì cho tôi, gia đình tôi. Tôi xin kính chào nhị vị.
Ông tiến ra cửa, rất trịnh trọng, rẽ sang hướng đông đến cổng chính. Đavít tan nát cõi lòng, vừa thương cảm vừa hổ thẹn. Chàng chạy theo ông Khương Sơn và bắt kịp ông này ở cổng:
- Xin bác tha lỗi cho cháu.
Ông Khương Sơn quay lại, khuôn mặt nhân từ, không còn lại một dấu vết nào của sự xung giận vừa rồi. Ông nói một cách trịnh trọng:
- Có gì thiệt hại cho tôi đâu, vậy thì không việc gì phải tha lỗi cả. Tuy nhiên, vì nể cậu, tôi mới thành thật nói với cậu câu này: không có ai trên trái đất này có thể thương yêu được những người cho rằng chỉ có họ là con độc nhất của Thiên Chúa.
Nói xong, ông Khương Sơn lại tiếp tục đi. Đavít tần ngần ở ngưỡng cửa, và câu nói đó đã khắc sâu vào tâm khảm chàng. Chàng không thể nào quay trở lại cùng vị giáo trưởng, điều đó rất quan hệ đến cuộc đời của chàng. Nhưng sự hấp dẫn của thú vui vô tư lự đã tan biến. Gánh nặng dân tộc lại rơi xuống trên chàng với sức nặng của bao thế kỷ.
Một tiếng nấc trào lên cổ, nghẹn ngào, chàng trở vào đền thờ và ẩn mình dưới một khung cửa tò vò khóc thương chua xót.
Cũng trong buổi sáng hè ngột ngạt ấy, Trang biết Đavít ra đi với vị giáo trưởng, nàng bèn chạy đến cửa sổ phòng Lịch xem nàng có cùng đi với hai người không. Thấy Lịch đang bận thêu thùa. Trang liền lẻn đi. Đavít trở về lúc xế chiều. Trang hỏi chàng có cần gì không, nhưng chàng lắc đầu muốn ở một mình.
“Trong nhà này, ai cũng muốn ở một mình cả.” Trang nói vẻ bất bình. Nàng cảm thấy mệt mỏi đến rã rời. Từ khi nàng trao bài thơ cho Đavít, chàng không hề nói một lời nào, chàng không để cho Trang hỏi và cũng không viết một hàng nào. Trang chỉ biết bài thơ mà nàng tự nhận là do Quí Lan sáng tác, đang nằm trong bàn giấy của Đavít. Mỗi ngày sau khi Đavít đã đi ra ngoài, nàng lôi ngăn kéo và nhìn thấy bài thơ đặt dưới một cái dằn giấy bằng ngọc. Nàng chỉ biết chờ đợi đến chiều tối.
Hai bàn tay Trang rất khéo léo, nàng biết xoa dịu cơn đau của bắp thịt hoặc con tim. Thím Hoàng đã dạy cho nàng cái nghệ thuật ấy và nàng đã học được cách khám phá các cơn đau và tập trung ở những nơi nào trong quãng lộ trình của thần kinh và huyết quản. Đôi khi như vậy nàng đã xoa dịu được một chứng đau nhức của bà Era hoặc Đavít. Nhưng nàng hết sức ngạc nhiên, vì chiều hôm ấy ông Era đã bảo nàng xoa hai bên thái dương và hai lòng bàn chân của ông, mặc dầu sau cơn giông trời đã dịu mát. Lâu nay, nàng chưa từng thấy ông chủ khỏe mạnh và vui tính ấy đau vặt bao giờ. Nàng gặp ông ngồi trong phòng, và khi đứng sau lưng ông để xoa bóp, nàng cảm thấy máu tích tụ hai bên thái dương và cái điểm then chốt của cơn đau do tại óc.
- Thưa chủ nhân, lòng ngài đang đau khổ.
Trang biết phân biệt nhiều lối đau trên thân thể, loại nào do các bắp thịt, loại nào do tinh thần.
- Ta đang buồn khổ. - Ông Era đáp. Ông ngả đầu về phía sau, nhắm mắt lại để mặc Trang xoa bóp.
Trang lặng thinh xoa những dây thần kinh vuốt các mạch máu đầu, làm máu tản đi.
Bỗng nhiên ông Era nói:
- Hai bàn tay của con tài tình làm sao! Con đã học ai thế?
- Một phần con học thím Hoàng, một phần khác con tự tìm học lấy.
- Thế là thế nào?
Hai mắt ông vẫn nhắm nhưng trên miệng thoáng hiện một nụ cười.
- Chính con, đôi tay con cũng cảm thấy buồn. - Trang khẽ nói.
- Kìa, kìa sao lại buồn? - Ông vui vẻ nói. - Trong nhà ai nấy đều thương yêu con cả mà?
- Chủ nhân rất yêu thương con, nhưng con biết rõ rằng con không sinh ra trong nhà này và con không có bà con thân thích gì với chủ nhân cả.
- Nhưng ta đã mua con kia mà! - Ông Era dịu dàng nói.
- Phải, chủ nhân đã mua con, nhưng điều đó không làm cho con trở thành con của chủ nhân được. Không ai có thể mua một con người toàn diện.
Ông Era tỏ vẻ nghĩ ngợi trong khi hai bàn tay cô gái xoa nắn những bắp thịt khỏe mạnh trên cổ của ông. Tiếp đến, Trang cuối xuống cởi vớ cho ông chủ và bắt đầu chà xát vào hai bàn chân. Ông ngồi thẳng dậy, tỉnh táo nói:
- Tuy nhiên ta xem con như con gái ta! Trong thâm tâm, ta không nên để cho con săn sóc hai chân ta. Điều này sẽ làm cho các đồng bào của con kinh ngạc. Nhưng dân tộc ta cho phép con gái hành động như vậy. Tại Ấn Độ cũng thế. Khi ta đi ngang qua Ấn Độ cũng với đoàn thương hồ, ta đã thấy họ chữa lành chứng đau chân bằng cách ấy.
- Đôi chân chịu sức nặng của thân thể, cái đau mang sức mạnh của trí thông minh, con tim mang sức mạnh của tinh thần và tư tưởng…- Trang dịu dàng nói. - Đừng có quan tâm đến những gì người ta có thể nói. Người ta có thể nghĩ rằng đấy chỉ là tục lệ của người ngoại quốc. Chủ nhân đã biết rõ lòng nhân hậu của người Trung Hoa, chúng tôi chấp nhận tất.
- Ta biết chứ, họ là những kẻ tốt nhất trên đời này và họ đã chứng tỏ là người nhân hậu nhất…
Ông thở dài khiến Trang đoán được những ý nghĩ của ông, tuy thế, nàng hỏi:
- Cớ sao chủ nhân lại thở dài?
- Tại vì ta không biết đâu là tốt, đâu là xấu.
Trang mỉm cười:
- Lúc nào chủ nhân cũng nói đến điều tốt điều xấu.
Nàng chà vào gan bàn chân của ông Era, vừa làm việc nàng vừa vui vẻ tiếp:
- Nói thế chứ người tốt là người đã mang hạnh phúc đến cho ta và người xấu là người đã tạo cho ta niềm đau khổ.
- Con có thể nói như vậy vì con không có gì phải phân vân giữa trời và đất cả.
- Con biết, con thuộc về quả đất.
- Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về trời.
Nàng làm xong nhiệm vụ, mang vớ vào chân cho chủ. Nàng nói:
- Chúng ta nói đến Trời và Đất nhưng chúng ta lại nghĩ khác.
- Nghĩ gì vậy?
Nhưng ông biết nghĩ gì rồi. Trang dang ra một chút, và ngồi xuống trên hai gót chân nhìn ông:
- Chúng ta cùng nghĩ đến Đavít. - Nàng dịu dàng nói.
- Con cũng nghĩ đến nó sao?
- Con nghĩ đến chàng luôn. - Trang đáp (nàng vẫn ngồi xổm, tiếp tục nhìn ông và quyết định nói cùng ông tất cả). - Con biết rằng đó là một chuyện điên rồ, chủ nhân ạ! Nhưng biết làm sao được, con yêu chàng.
Với vẻ mặt vui tươi như thường lệ, ông Era nói:
- Cố nhiên. Vì chúng con đã chung sống với nhau từ thuở bé, như anh em.
- Vâng. Nhưng chúng con không phải anh em và không vì vậy mà con yêu chàng.
Ông lộ vẻ lo lắng. Nếu ông suy nghĩ chín chắn, tất ông phải hiểu rằng, một cô gái trẻ và dịu hiền không có thể sống bên Đavít, săn sóc chàng, mà không yêu chàng. Ông nhớ lại thời xuân trẻ, thời mà ông say mê thím Hoàng. Bấy giờ ông còn thẹn thùng. Bởi vì mặc dầu bao năm tháng đã trôi qua, ông chưa bao giờ xem thím Hoàng như một tỳ nữ. Khi ông được 16 tuổi và thím Hoàng cũng xấp xỉ tuổi ấy, sắc đẹp của thím đã làm cho ông biết bao xao xuyến đến nỗi ông đã phải nói cho thân phụ ông biết rằng ông không muốn cưới ai khác làm vợ ngoài nàng. Lúc bấy giờ tên thím là Bích Ngọc. Bích Ngọc! Mỗi khi tên Bích Ngọc trở lại trong ký ức của ông Era, một cái gì trong ông đã chết từ bao lâu nay bừng trỗi dậy. Xưa kia thím Hoàng đẹp hơn Trang nhiều, màu da tươi mát, vóc người thon hơn, mũi dọc dừa và đôi môi xinh xắn hơn.
Nhưng thân phụ ông đã cười bảo:
- Đó là một đứa nô lệ. Con ơi đừng lấy đầy tớ.
Chàng thanh niên Era hăng hái nói:
- Khi đã là vợ con rồi thì cô ta sẽ không còn là đầy tớ nữa.
Nụ cười đột tắt trên môi ông cụ.
- Những gì đã xảy ra giữa nhà ngươi và con tỳ nữ ta chẳng quan tâm, có điều là đừng có nói những chuyện đó với ta. Ta phải cưới Naomy, con gái của Judah Ben Isaac cho ngươi.
Era đã hiểu. Trong đám thanh niên bạn bè của chàng, Naomy được xem là cô gái Do Thái xinh đẹp nhất thành phố. Chàng thanh niên Era khá tinh nhạy và tự hào để tưởng tượng sự thèm muốn của bạn bè nếu chàng công bố tin chàng đính hôn cùng Naomy, bởi vì Judah Ben Isaac thuộc một gia đình hết sức giàu có, đến nỗi đã xuất tiền tái thiết ngôi đền thờ sau khi bị sụp đổ trong một trận lụt hồi đầu thế kỷ. Gia đình này đã được nhà vua ân ban tên họ Trung Quốc là Trình nhưng Judah đã xác nhận rằng điều đó chỉ có mục đích thương mại.
Ông Era nói với Trang trong khi nàng vẫn còn ngồi xổm nhìn ông:
- Con ơi, con hãy giữ kín tình yêu của con trong lòng, để trong nhà khỏi phải lộn xộn. Ông xin con.
Đến lượt ông cũng vậy, ông đã lập lại những gì mà thân sinh ông đã nói với ông trong thời niên thiếu. Thật là điên rồ nếu nói đến việc làm vợ lẻ trước mặt Trang, bởi vì bà Era không bao giờ chấp nhận cho con trai bà làm việc đó. Nhưng Trang biết tất cả mọi tư tưởng của ông chủ, nàng vẫn yên lặng nhìn ông với đôi mắt trong sáng, thay vì hết sức tươi vui bây giờ đã hóa ra buồn bã. Nàng nói hết sức khẽ:
- Đavít sẽ khốn khổ nếu chàng cưới cô Lịch.
Ông Era nhún vai thở dài:
- Ngươi lại làm cho ta nhức đầu trở lại rồi! Cút đi con, để cho ta yên một chút.
Nàng cảm thấy ông sẽ không giận dữ lâu. Ông thường thích tỏ ra luôn luôn khoan hồng đại lượng, ông không quên rằng Trang chỉ là một con bé duyên dáng dễ thương, một sự thoải mái cho trong nhà. Tim Trang se lại. Nàng đứng dậy, chào ông, và lui ra, trong khi ông Era vì tốt bụng, đã ân hận đưa tay ra ngăn lại.
- Này con, đợi ta một chút. Ta cho con một món quà nhỏ mà đoàn thương hồ đã mang về cho ta. Có biết bao sự lộn xộn trong nhà khiến ta quên không đưa cho con. Con hãy mở cái hộp này ra và xem thử vật gì ở bên trong nào!
Ông trỏ một cái hộp sơn mài để trên bàn. Trang cầm lấy và mở nắp hộp, bên trong đựng một cái lược bằng vàng.
Nàng trố mắt hỏi:
- Cho con sao?
Ông Era mỉm cười:
- Cho con đấy. Cài vào tóc của con đi!
- Không có gương! - Trang kêu lên, vẻ hoảng hốt.
Ông Era lại cười:
- Kìa, cầm lấy đi và vui vẻ lên.
- Cảm ơn lão gia. Cảm ơn vô cùng.
- Kìa, cảm ơn làm gì. Vẽ chuyện…
Nàng cảm thấy ông vui hơn. Ông thích biếu xén, ông muốn tất cả mọi người đều sung sướng. Nụ cười của Trang đã làm cho ông thích thú, nên nàng phải cố gắng tỏ ra vui vẻ. Cái lược rất đẹp. Nàng ưa thích các vật xinh đẹp. Nhưng nàng không còn là một đứa trẻ và một món đồ chơi đối với nàng không đủ. Nàng tiếp tục bước đi, lòng nặng trĩu.
Khi Trang đã ra đi rồi, ông Era than vắn thở dài. Ông bối rối lo âu vì đã ngu ngốc làm hài lòng ông Khương Sơn bằng cách ám chỉ đến cuộc tác hợp giữa Đavít và đứa con gái thứ ba của ông ấy. Tuy nhiên ông không đến nỗi thiếu lịch sự để nói đích danh. Ông đã nói:
- Đại huynh ạ, nhà của đại huynh cũng như nhà của tôi… Nào có nghĩa gì một giao kèo thương mại, sao ví được với đàn con lũ cháu sinh ra bởi sự kết hợp của hai nhà?
Ông Khương Sơn nghiêng mình mỉm cười. Bây giờ tất cả đều rối ren, ông Era tự hỏi tại sao, trong khi ông chỉ muốn hạnh phúc cho mọi người kể cả chính ông, ông nhận thấy luôn luôn lâm vào hoàn cảnh không mang lại niềm vui cho ai cả mà chính ông thì lại càng kém vui hơn. Thí dụ, ông đã cảm thấy khó chịu có vị giáo trưởng trong nhà. Ông ta là một người đạo hạnh, dĩ nhiên, nhưng ông chỉ nghĩ tới những cổ tục Tôrát. Lề luật Tôrát là công việc của một giáo trưởng, nhưng nó chỉ mang lộn xộn đến trong nhà. Không ai được thoải mái dễ chịu nếu người ta cứ mãi mãi không ngừng nhắc lại thời quá khứ. Chính vì vậy mà ngay cả ông Era cũng cảm thấy bực mình trong chính nhà của ông, mỗi khi ông gặp vị giáo trưởng mù mò mẫm đi dọc các hành lang. Ông muốn lẩn tránh vị giáo trưởng, nếu chỉ có một mình giáo trưởng thì ông Era nín thở đứng bất động để ông ta đi ngang qua.
Ông tiếp tục nghĩ đến Lịch. Nàng đẹp hơn Naomy, nhưng ít khi nghiêm túc hơn bà hồi trẻ. Ông Era không mấy khi nói chuyện với Lịch, nhưng đôi lúc ông gặp nàng trong vườn đào buổi chiều. Năm ấy đào đẹp. Lịch lại càng ít nghiêm túc hơn khi nàng chỉ một mình, không như vợ ông hồi xưa. Có thể Đavít sẽ hạnh phúc với nàng? Đavít tính tình mạnh dạn hơn ông ngày trước, chàng sẽ có thể đương đầu dễ dàng với một người đàn bà ngoan cố. Ông Era nghĩ rằng dạo này ông ít khi gặp Đavít. Ngày lại ngày trôi qua kể từ khi giáo trưởng dạy dỗ cho chàng, ông chỉ gặp chàng trong các bữa ăn. Ông Era vùng dậy quyết định đi tìm Đavít tại phòng chàng mặc dầu lúc bấy giờ đã khá khuya.
Đoạn ông nghĩ đến Trang, Đavít có biết chăng nỗi lòng của cô gái trẻ? Trong thời niên thiếu của ông, mọi việc xảy ra khác hẳn, ông đã bày tỏ nỗi lòng cùng thân phụ, còn bây giờ, chính cô gái đã thổ lộ trước tiên. Như vậy càng ít quan trọng! Chân không, ông bước nhanh đến phòng Đavít theo những dãy hành lang chiếu sáng bởi ánh trăng trong.
Sau khi nghe mấy lời của của chủ nhân, Trang đi thẳng đến vườn đào. Nàng không thể nào ngủ được. Phải chăng cuộc hôn nhân của Lịch và Đavít đã được quyết định? Phải chăng đó là nguyên nhân do nỗi buồn phiền của chàng? Nếu người cha đồng ý thì sẽ không còn đối thủ nữa, bà mẹ đã thắng.
Trang bối rối lo âu. Khi Lịch trở thành bà thiếu chủ, liệu nàng có để cho Trang ở lại trong nhà này nữa không? Cho dù bà Era có còn giữ quyền cai quản trong nhà này đi nữa, cuộc sống của nàng cũng sẽ trở nên khó khăn hơn, vì chính Lịch mới đích thực là kẻ nắm quyền hành. Lịch sẽ điều khiển Đavít chuyển đạt ý kiến nàng đến bà Era. Người mẹ sẽ chấp nhận tất cả chỉ vì con bà đã nghe lời bà: cưới cô gái do chính bà đã lựa chọn.
- Ôi mẹ ơi! Xin mẹ hãy thương con! - Trang khẽ rên rỉ.
Như vậy, Trang đã kêu đến người mẹ mà nàng không thể nào nhớ được nét mặt, người mẹ đã mang bán nàng. Không biết bà có nghe chăng? Bà còn sống hay đã chết?
- Tôi chỉ còn một mình tôi để tự cứu lấy tôi.
Vừa thất vọng vừa giễu cợt, nàng năn nỉ:
- Trang ơi! Hãy đến giúp ta những gì người có thể giúp được, hãy thương chính mày.
Đoạn nàng bước vào vườn đào và gặp Lịch đang ngồi trên ghế dưới hàng cây. Người thiếu nữ Do Thái bận một áo dài trắng, mang thắt lưng vàng. Với một lòng khiêm nhường, Trang thầm nghĩ, sắc đẹp của nàng không thể nào sánh được với sắc đẹp của Lịch đang tắm ánh trăng.
- Thưa cô chủ, cô ngồi chơi!
- À, ta không thể nào ngủ được.
- Tôi cũng thế. Sáng trăng, không ngủ được.
Nàng đến bên Lịch, nhìn ánh trăng qua kẽ lá, đưa tay trỏ:
- Cô chủ có thấy ông Nguyệt lão trên ấy không? Ở trong mặt trăng ấy.
- Nguyệt lão? - Lịch nhắc lại, nhìn lên trời.
- Ông Nguyệt lão ở trong mặt trong mặt trăng, ông ban cho ta những giấc mộng đẹp. - Trang nói, giọng vui vẻ. - Nào, cô chủ muốn xin ông những mộng ước nào?
Lịch cao hơn, Trang chiêm ngắm khuôn mặt tuyệt mỹ của nàng với một vẻ thích thú đượm buồn. Tính bao dung, Trang không một chút ghen tức vì sắc đẹp của Lịch, tuy nhiên điều đó đã làm cho nàng buồn rầu muốn khóc.
- Chỉ có Thiên Chúa ban cho ta những gì mà ta mơ ước. - Lịch nói với một giọng nói trầm trầm, dịu dàng.
Trang khẽ cười.
- Vậy thì ta hãy xem ai có quyền lực hơn, ông Nguyệt lão hay là Thiên Chúa của cô.
Và, nàng ranh mãnh qùy gối cúi đầu sát đất, đoạn ngẩng đầu lên khấn vái:
- Xin Nguyệt lão ban cho con điều mà con mộng ước.
Lịch nghiêm nghị nhìn Trang. Trang đứng dậy nói với một vẻ nghịch ngợm:
- Nào, bây giờ chúng ta có thể thổ lộ cho nhau nghe những điều đã mơ ước.
Lịch lắc đầu:
- Không, ta không thể thổ lộ nổi lòng ta cho ai hay cả. Nhưng khi nào được thỏa nguyện, ta sẽ nói cho ngươi hay.
Hai người vẫn tiếp tục nhìn nhau. Trang chỉ muốn la lên: “Tôi biết cô mơ ước điều gì rồi, cô muốn làm vợ Đavít”.
Nếu có thể nói trắng ra cùng Lịch rằng chính nàng cũng yêu Đavít và đang tìm cách chinh phục chàng, vì lợi ích của nàng, thì thật thỏa lòng Trang biết bao! Nhưng Trang vẫn im lặng. Biết một việc và giữ riêng cho mình, đó là một vũ khí để hộ thân.
- Kính chào cô chủ. - Trang nói sau một phút im lặng.
- Chào ngươi.
Hai người từ giã nhau. Khi bước ra cửa vườn, Trang quay lại và thấy Lịch đang đi bách bộ dưới các rặng đào.
Sáng hôm ấy, khi rời khỏi đền thờ để ra về, Đavít đã nức nở khóc. Chàng nhìn quanh. Không ai có thể thấy được hai dòng nước mắt của chàng. Tuy đã nguôi nhưng chàng còn cảm thấy buồn. Chàng không còn quan tâm gì nữa. Thiên Chúa đã không kêu gọi chàng, chàng không thấy gì thay đổi hết. Chàng vẫn là chàng. Đavít cho thế là tốt. Chàng không còn muốn gặp ông Khương Sơn cũng như vị giáo trưởng, chàng chỉ muốn ở yên một mình. Chàng gấp mũ nồi lại, đút vào túi và rảo bước trên đường phố, mắt nhìn quanh, không quan tâm gì hết, nhưng tâm thần đã dần dần định tỉnh. Chàng bước vào đền thờ đức Khổng Tử. Tại đây người ta có thể xem nhiều trò lạ mắt và nghe những tiếng lạ tai: các trò ảo thuật, múa rối, nhào lộn, gấu khiêu vũ, két nói tiếng người v.v… Nhưng những trò này không làm cho chàng vui thích như trước nữa. Đavít dửng dưng không buồn nhếch mép cười. Đavít nhìn thấy một gánh hàng rong với những đĩa thức ăn ngon lành nóng sốt, chàng mua một đĩa, nếm thử, nhưng hôm nay không ăn gì thấy ngon cả, bèn mang cho lũ ăn mày.
Mặc dầu cô đơn, nhưng chàng không muốn gặp bạn bè, mà chỉ muốn đắm mình trong nỗi buồn êm ái ấy. Đột nhiên chàng nghĩ đến Cao Liên và muốn nói chuyện với ông ta. Cao Liên hiện đang có mặt tại thương điếm của ông Era. Ông ta có thói quen dậy trưa và đến cửa hàng trễ, nhưng mãi mà đến khuya mới về nhà. Còn ông Era thì đến sớm và về sớm. Đavít bèn đến kiếm ông ta.
Thương điếm của ông Era hết sức lớn, tọa lạc tại một đường phố đông đúc, trên cửa treo nhiều băng lụa màu bay phấp phới, kê nhiều hàng ngoại hóa, bán sỉ và bán lẻ. Sau khi hợp đồng được ký kết với ông Khương Sơn thì tên hai nhà sẽ được viết lên trên các băng lụa; bây giờ chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Era và con trai.”
Đavít bước vào thương điếm, bọn làm công cúi chào, và khi nghe chàng hỏi Cao Liên, một người trong đám ấy dẫn chàng đi vào phòng giấy riêng của ông ta. Trong căn phòng mát mẻ, Cao Liên đang ngồi viết những hàng chữ Tàu ở một cuốn sổ lớn. Thấy Đavít bước vào, Cao Liên đứng dậy. Ít khi Đavít đến một mình vì vậy ông Cao Liên tỏ vẻ ngạc nhiên và lo lắng. Ông hỏi:
- Ba cậu ốm à? Tôi vừa thấy ông đây mà!
- Hôm nay tôi không gặp ba tôi đâu cả. Tôi muốn nói chuyện cùng chú, nếu chú cho phép.
Họ ngồi xuống và Cao Liên nhìn Đavít không nói một tiếng. Qua nét nhìn hòa ái của ông Cao Liên, Đavít không còn đắn đo nữa, chàng nói một mạch:
- Từ khi chú kể chuyện dân tộc của chúng ta bị tàn sát đến nay, tôi rất khổ sở. Tôi cảm thấy cần phải làm một cái gì thay đổi lối sống của tôi hiện nay, tôi nghĩ rằng tôi không có quyền sung sướng tại đây, vui chơi thỏa thích và thụ hưởng cuộc đời.
Một nụ cười chua chát nở trên môi Cao Liên. Ông hỏi:
- Vậy, cậu cảm thấy cậu cần phải khổ sở sao?
Đavít thành thật:
- Tôi biết là vô ích. Nhưng tôi nhận thấy trong lúc dân ta đang bị khốn đốn khắp nơi thì tại đây, tôi sống như thế này là điều không phải.
- Vị giáo trưởng đã khuyên dạy cậu, còn mẹ cậu thì bảo cậu cưới cô Lịch.
- Rồi chú trở về và mang lại những tin tức ấy cho nên tôi nghĩ rằng phải vâng lời giáo trưởng và mẹ tôi.
- Vậy trong trường hợp vâng lời họ, cậu có ngăn được cái chết của dân tộc chúng ta không?
- Không, không… Nhưng điều đó có thể làm nhẹ lòng tôi.
- Để được toại ý mà cậu phải nghe theo lời vị giáo trưởng và vâng lời mẹ cậu cưới cô Lịch. Vậy sao cậu không làm đi?
- Bởi vì tôi hoang mang không biết chắc. - Đavít kêu lên. - Tôi muốn được như cũ, như khi chưa biết gì về sự khốn khổ của dân tộc ta.
Đavít ngồi trên một ghế đẩu, thấp hơn ghế của ông Cao Liên. Ông này nhìn xuống, chàng bối rối.
- Nhưng cậu đã biết và phải biết về điều đó. Nào ai trong chúng ta có thể chối bỏ sự thật?
- Sự thật nào?
Ông Cao Liên biết rất rõ gia đình Đavít. Cha chàng là một người tính tình nồng nhiệt, khao khát hạnh phúc, và trong người mang hai dòng máu Do Thái và Trung Hoa, giống như ông. Còn bà mẹ thì lại là một người đã kiêu hãnh vì sự tinh tuyền huyết thống muốn bảo tồn tất cả những tập tục xưa cũ của một dân tộc trước đây tự do và hùng mạnh, bây giờ sống như nô lệ, không đất đai, không tổ quốc, bị tản mát khắp thế gian. Bà Era muốn truyền cho Đavít tất cả niềm kiêu hãnh của bà. Bà ghen tức, chỉ muốn giữ lấy linh hồn Đavít cho riêng mình.
- Đấy là sự thật. - ông Cao Liên nói. - Cậu hãy nhận biết cậu là ai và quyết định cậu phải làm gì. Mẹ cậu nhận định cuộc đời theo quan điểm riêng của bà.
- Nhưng mẹ tôi chỉ muốn tôi học sách Tôrát với giáo trưởng.
- Vậy thì cậu sẽ nhìn thấy thế giới và nhân loại qua khung cửa hẹp của mẹ cậu.
Đavít xúc động:
- Cả chú nữa chú Cao Liên ạ. Chú cũng là người Do Thái kia mà!
- Phải, tôi là người Do Thái lai Tàu (một vẻ trào lộng thoáng xuất hiện trên khuôn mặt dài của ông Cao Liên rồi vụt biến mất). Sự thật tôi đã lạnh xương sống khi thấy các thấy ma trên khắp các thành phố phía Tây, nhưng bởi vì đó là những thây ma song sượt chứ không riêng gì họ là Do Thái. Tôi tự hỏi: Tại sao những người này, những người kia bị giết như vậy? Tại sao lại ghét bỏ họ?
- Phải, tại sao vậy? - Đavít nói. - Đó là điều mà tôi không ngớt suy nghĩ. Tôi nghĩ rằng nếu tôi biết được điều đó thì tôi sẽ hiểu được tất cả.
Đôi mắt của ông Cao Liên trở nên sắc bén hơn.
- Tôi có thể nói cho cậu biết điều mà tôi chưa từng dám hở môi: Họ bị thù ghét chỉ vì họ tách rời khỏi nhân loại. Họ cho rằng họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn. Tôi biết rõ điều đó như thế nào. Tôi sinh trong một gia đình đông con, một đứa trong chúng tôi cả gan rêu rao rằng nó là người được cha mẹ tôi yêu quý nhất, nên chúng tôi thù ghét nó (miệng ông Cao Liên mím lại). Đến giờ tôi vẫn còn ghét nó. Tôi sẽ vui mừng nếu nó chết đi. Là một người văn minh, tôi không giết nó. Nhưng nếu nó chết, tôi sẽ không rỏ một giọt nước mắt nào.
Trong cái tranh tối tranh sáng của gian phòng đã im lặng, rộng rãi, Đavít hoảng hốt nhìn ông Cao Liên lẩm bẩm:
- Chúng ta không phải là những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn sao?