← Quay lại trang sách

HAI NHÀ SƯ CHẾT OAN

Có một người đi kiếm mật ong, suốt ngày tay xách cái giỏ, cầm một cây sào hóp đá lang thang trên đồi, trong rừng tìm miếng ăn giữa trời đất vu vơ. Nghe tiếng vù vù, trông lên thấy ong đậu thành đám như bóng mây. Trên cành đề kia có tổ ong mật to bằng cái thúng.

Người ấy buộc mồi rơm, đánh lửa, núp vào gốc cây giơ cái sào, bùi nhùi ngùn ngụt bốc lửa hơ dưới tổ ong. Ong lúc nhúc trước cửa tổ, lửa khói hun khét lẹt, cả đàn bay ra cháy cánh rơi lả tả. Trong chốc lát, ong đã tản mác, tan tác hết.

Người leo lên ung dung gỡ tổ ong óng ánh toàn mật. Tổ ong to, nặng bằng cả thúng gạo; phải đặt ghé vào thành giỏ, ôm lên ngực mới khỏi tuột. Nhưng hai tay ôm tổ ong, không thể quay mình trèo xuống được.

Đành ngồi khư khư giữa cái chạc ba trên cây đề.

Đằng xa có con voi lừng lững đi tới. Trên lưng một người nài voi ngồi ngất ngưởng. Mừng quá, anh gọi to:

– Nài ơi nài, đỡ tao xuống được thì tao chia mật ong cho.

Người nài voi ngẩng mặt nhìn rồi nói:

– Bác men ra đầu cành, buông hai chân xuống. Tôi đứng trên lưng voi, tôi đỡ bác.

Người nài voi thúc gót chân giục voi bước tới rồi đứng giơ hai tay lên phía người đương ôm tổ ong loay hoay nắm cành để thả hai chân xuống, trong khi người nài kiễng lên, giơ tay đỡ.

Chẳng may, lúc chân người nài thúc lưng voi, người trên cây buông mình xuống nặng như tảng đá, voi tưởng người giục đi mau. Thế là voi ve vảy đuôi, bước luôn, bỏ lại hai người nối nhau bíu cành đề, treo lơ lửng giữa khoảng không.

Người nài bị hẫng chân, bảo người kiếm mật ong lủng lẳng ở trên:

– Không được buông! Buông thì chết cả!

Hai người cứ nhũng nhẵng, kêu khóc om lên.

Có hai nhà sư ở ngoài chùa về qua. Hai người bị treo trên cây gào to:

– Nhà chùa cứu tôi! Xin nhà chùa cứu tôi!

Hai nhà sư đứng lại, nhìn lên rồi bảo hai người đương nguy khốn: “Cứ yên đấy, ta cứu cho!” Rồi lấy tấm vải bọc sách kinh trải ra, lại cởi hai cái áo dài, độn thêm thắt nút lại vừa cầm tay vừa buộc vào cổ hai người cho chắc. Sau đó, mỗi nhà sư cầm một góc căng ra hứng tấm vải dưới chỗ hai người.

Người đeo tổ ong buông tay. Hai người như hai cái cối đá rơi, tấm vải hõm sâu xuống, vít đầu hai nhà sư đập cốp vào nhau. Hai nhà sư ngã ra, chết ngay. Hỡi ôi, cái chết chỉ vì thương người.

Người nài voi và người kiếm tổ ong sợ quá, bỏ chạy.

Ở ngã ba đường đầu cửa rừng cạnh cây đề có một quán hàng cơm. Mụ chủ quán ấy keo kiệt, hung ác, vừa bán cơm vừa là kẻ cướp. Nhiều khi, chập tối có đám lái buôn vào trọ, sáng hôm sau chẳng thấy ai gánh gồng đi ra. Không biết người mất của đã trốn được hay đã bị giết. Quán vắng, chỉ có khách xa nhỡ độ đường không thuộc thung thổ mới ghé lại mà thôi.

Mụ quán đi đâu về, thấy hai nhà sư nằm chết ở gốc đề. Tai ách bỗng dưng quàng vào cổ thế này, các quan nha hương chức mà biết thì gông đóng lên đầu đến nơi rồi.

Mụ quán vội vã kéo xác hai nhà sư vào trong bụi lau, thế nào thì rồi liệu sau. Vừa hay, một người lù lù đến. Mụ hốt hoảng tưởng lính tráng đã tới. Nhưng không phải, đấy là ông lão sãi hầu hạ ngoài chùa.

Ông sãi ở ngoài chùa, đi tìm hai nhà sư hay là đi đâu. Không xong rồi. Phải gọi lão này vào, nghe ngóng đã. Lão sãi vào quán kêu rét quá, rét quá.

Mụ quán đoán lão đi chẳng có việc gì, lão đi kiếm cái ăn, cái uống. Lão đói. Mụ rót ra bát rượu, bảo lão uống cho ấm bụng, rồi nói:

– Tôi có đứa cháu bẩm sinh đau yếu, phải cho cháu đi hầu phật ở chùa bên Bắc từ thuở nhỏ, mong được tai qua nạn khỏi, thế mà chẳng may hôm qua về chơi nhà thì cháu phải cái cảm gió, cháu chết. Tôi già cả chẳng biết làm thế nào bây giờ. Thật cơ khổ!

Ông sãi xưa nay hầu hạ chùa chiền, thạo mọi việc xốc vác chân tay thổ mộc. Ông bảo:

– Nào khó gì, biện cho bữa rượu thì xong ngay. Mượn cái thuổng, chập tối tôi ra, tôi đem chôn cho.

– Phúc đức quá, nhờ ông.

Sâm sẩm tối, ông sãi đến. Mụ quán đã bó chiếu, để một cái xác ngoài đầu nhà. Ông lão sờ tay vào cái đầu trọc lạnh như hòn đá, đúng là người chết, ông vác lên vai rồi xách thuổng bước ra. Đến lúc trở về, thấy mụ quán ngoài bậc cửa, mụ rầu rĩ nói:

– Ông ơi! Cháu nó chết trẻ, thiêng lắm, hồn nó còn vướng víu thương nhớ cửa nhà, khó đi được ngay. Ông vừa chôn nó thì nó lại lộn về nằm ngay trên giường ở trong kia kìa. Tôi phải bỏ lại, nhờ ông.

Ông lão đụng vào bó chiếu lại mò thấy cái đầu lạnh toát như cái xác lúc nãy.

Ông sãi lẩm bẩm:

– Nửa đêm rồi, nhọc quá. Tôi đói lắm.

Mụ quán năn nỉ:

– Tôi đã soạn mâm rượu trong kia. Ông uống tạm một bát, đến lúc về thì tôi xin chu tất cả bữa chén, với năm quan tiền.

Ông lão uống bát rượu rồi khênh cái xác bó chiếu đi. Lần này, đi xa, ông đào hố thật sâu rồi nện kỹ đất. Ông vừa làm vừa nói: “Đố mày ngóc lên được nữa đấy.”

Xong xuôi, ông sãi bụng đói cồn cào vừa đi về vừa tưởng đến mâm rượu bà lão đã sắp sẵn ở quán. Chắc là no say rồi thì trời vừa sáng.

Nhưng cái mụ quán keo kiệt vắt cổ chày ra nước này đã định bụng khoảnh tính, mụ nghĩ: nốc hai bát hết nửa vò rượu của tao, mày đi chôn người hai lần, thế là đủ công rồi. Lại còn mè nheo thế nào nữa!

Mụ quán quyết đuổi lão sãi.

Mụ ra ngoài ngã ba, chỗ bờ sông rẽ vào. Mụ trùm vuông vải lanh trắng lên đầu rồi ngồi xuống. Trong bóng đêm, mụ giả làm con ma vừa bị chôn đã lại về đến đấy. Lão sãi tất phải khiếp vía, lão chạy thẳng không dám vào quán để phải đi chôn lần nữa.

Quả là lão sãi càng đói lử lả, bước xiêu vẹo. Mắt nhập nhèm quáng gà, lão đi mò mò. Bỗng thấy cái bóng trắng lù lù bên bờ sông. Lão đứng sững. Lão cũng đủ tỉnh, lão nghĩ ngay đến con ma vừa chôn chắc lại chui lên, lộn về đến đây. Ối giời ôi, lại mày, lại mày…

– Con ma báo ác kia, ông đã khốn khổ cả đêm vì mày. Mày có thương bà mày thì mày cũng phải biết cái công ông khó nhọc bao nhiêu vì mày chứ. Ma ơi! Mày không đủ sức làm hại ông được. Lần này thì ông tống mày ra bể Đông với thần Hà Bá, mày không còn đường nào về được đây nữa đâu!

Ông sãi phăm phăm đi tới, giơ chân đạp phốc một cái cả cái bóng trắng mờ mờ tung xuống sông. Một tiếng hú khủng khiếp xé tai dội lên.

Ông sãi lảm nhảm nói: “Ma kêu! Ma kêu!”, rồi ông đi qua gốc đề vào quán. Trong nhà tối om, gọi mãi chẳng thấy có người thưa.