ĐỘNG TỪ THỨC
Vào đời Trần, ở châu Ái, có một chàng trai tên là Từ Thức. Hai mươi tuổi, thi đỗ, được bổ làm tri huyện một vùng ven bể.
Từ Thức làm quan, nhưng chẳng ham việc lại ham thơ phú và hay đi thăm các danh lam thắng cảnh hầu khắp nơi trong cõi.
Ở trong vùng có một ngôi chùa cổ, vườn chùa trồng hoa mẫu đơn. Mỗi năm vào tháng giêng, hoa mẫu đơn nở hồng rực, cũng là kỳ hội chùa khách thập phương nơi nơi về xem hoa và lễ Phật. Bởi thế, hội chùa cũng có tên là “hội hoa mẫu đơn”.
Tháng giêng năm ấy, đương giữa hội hoa, Từ Thức đến vãn cảnh. Quan huyện ăn mặc như một chàng trai làng trảy hội, quan đi một mình, không lính hầu, không có ngựa có võng theo.
Chùa này vốn có lệ cấm ngặt vào vườn xem hoa và ai ngắt hoa hay làm gãy cây thì phải phạt vạ.
Có một cô gái đã trèo vào vườn hoa. Mải mê ngắm hoa, cô đến bên cây, nâng đóa mẫu đơn lên. Chẳng may hoa gãy cuống, rơi xuống đất.
Thế là cô gái bị bắt vạ. Cô không có một đồng kẽm trong thắt lưng, bọn tuần tráng trong làng trói hai tay cô gái vào gốc cây đại.
Từ Thức vào qua tam quan chùa nhìn thấy cô gái xiêm áo lụa là bị trói trong gốc cây, nước mắt chứa chan trên khuôn mặt hoa. Từ Thức nổi giận toan sai người đi bắt bọn côn đồ nào dám hành hạ dân lành – nhất là một cô gái đẹp nhường kia. Nhưng chợt nhớ quan huyện đi không cưỡi ngựa, không có cờ, bảng. Từ Thức dẹp cơn nóng, bước tới xin làng tha cho cô gái.
Tuần làng nói:
– Lệ phạt vạ đã được đặt ra từ đời trước, không dám thay đổi. Bao giờ có hai quan tiền nộp thì mới được tha.
Trong túi Từ Thức cũng không có một đồng một chữ. Từ Thức liền cởi tấm áo lương mới đương mặc ném cho bọn tuần canh.
Cô gái được cởi trói bước ra khỏi gốc cây đại.
Từ Thức hỏi:
– Nhà ở đâu?
Cô gái đáp:
– Thiếp quê ngoài châu Ái.
– Thế là đồng hương với tôi.
Nàng hẹn có dịp mời chàng đến chơi nhà để được tạ ơn. Nhưng lúc chia tay bối rối Từ Thức quên hỏi ở làng nào. Đến khi nhớ ra thì bóng hồng đã khuất vào cánh rừng bên kia suối.
Từ Thức làm quan huyện ấy được hơn một năm. Rồi vì tính ngang tàng, phóng khoáng, chàng thường không chịu sự đè nén của quan trên. Một lần, vì để bê trễ vụ thuế, Từ Thức bị quan tỉnh gọi lên quở trách.
Từ Thức than:
– Ta há vì lương bổng mấy hộc thóc mà phải chịu nước đời lép vế đến thế ru.
Rồi cởi ấn tin, treo lên cột công đường, Từ Thức bỏ đi.
Từ Thức về quê lạy bố mẹ xin được ở nhà làm ruộng.
Nhưng chẳng bao lâu, bước chân đã quen đây đó không chịu ở yên một chỗ, vả chăng chàng vẫn nhớ người đẹp châu Ái năm trước đã gặp trong cảnh éo le ở hội xem hoa.
Từ Thức cất công đi khắp châu Ái, nhưng bóng chim tăm cá, biết tìm đâu. Một hôm, Từ Thức ra một hòn núi nổi tiếng hùng vĩ trước cửa bể Thần Phù. Chẳng phải ngoa truyền, hòn núi nguy nga như tòa sen ngồi trên mặt nước. Từ Thức men sườn đá, đến một cửa động lớn.
Bước vào hang thấy trong là rừng quãng chỗ bỗng mù mịt, chỗ chói lòa sáng nắng. Không biết đi trong bờ đá đã bao lâu, áng chừng đã tới lưng núi. Trông lên thấy một tòa lâu đài tráng lệ bên kia dòng suối nước tuôn như thác bạc.
Từ Thức bước lên những bậc thềm đá. Một bà tiên váy áo lụa bạch như con hạc trắng bước ra. Bà tiên nói:
– Đợi người đã lâu lắm rồi. Đây là cửa vào trong động. Chàng có thấy cảnh trên tiên khác dưới trần gian không?
Từ Thức gật đầu. Thì bà tiên lại nói:
– Nhưng khoan hãy dạo xem phong cảnh. Mời chàng gặp cố nhân.
Lát sau, một cô tiên từ trong vách đá bước tới, mỉm cười cúi chào. Mặc dầu xiêm y cực kỳ diễm lệ, nhưng Từ Thức nhận ra ngay đấy là cô gái đã làm rơi đóa mẫu đơn ở chùa hội hoa năm trước.
Chàng mừng rỡ, thốt lên:
– Tôi đã tìm nàng khắp chốn mà không thấy. Chẳng ngờ gặp ở đây.
Bà tiên chúa động nói:
– Ở cõi tiên đã biết chuyện kỳ ngộ của hai người. Cho nên mới có run rủi hôm nay, âu cũng là duyên trời.
Thấm thoát, chẳng bao lâu, Từ Thức ở cõi tiên đã được ngoài ba năm. Từ Thức và Giáng Hương, vợ chồng ngao du khắp các núi và hang động, hết mùa mưa rào sang kỳ gió bấc thổi.
Một hôm, Từ Thức nói:
– Tôi xa cha mẹ đã lâu, nay muốn về thăm quê một chuyến.
Giáng Hương bùi ngùi:
– Đường trần với cõi tiên cách biệt lắm, chàng về biết có còn bao giờ gặp nhau.
Nhưng Từ Thức đêm ngày khắc khoải tình quê, Giáng Hương phải chiều lòng.
Một chiếc xe mây đã kề trước cửa động. Chàng hẹn với nàng rằng chàng về thăm cha mẹ, chàng thưa chuyện duyên trời tiền định bấy lâu để cha mẹ yên lòng, rồi chàng trở lại.
Xe mây trên trời hạ xuống bến sông đầu làng, nơi mà thuở nhỏ Từ Thức hàng ngày đi chăn trâu vẫn xuống tắm.
Có mấy người phường chài cởi trần vác lưới dưới sông lên. Từ Thức hỏi nhà cũ, hỏi tên bố mẹ, không một ai biết. Trong xóm, mấy cụ già nghe có người lạ đến hỏi chuyện ngày trước thì chống gậy ra. Từ Thức xưng tên mình, một cụ ngẫm nghĩ một lúc rồi nhớ dần ra:
– Thuở còn nhỏ, đã nghe kể có cụ tổ năm đời tên là Từ Thức, cụ làm tri huyện rồi từ quan về làng, một hôm đi chơi trên núi ngã vào hang ngoài cửa bể Thần Phủ, chết mất tích.
Bấy giờ Từ Thức mới thấm thía lời Giáng Hương. Đường trần với cõi tiên xa cách lắm.
Từ Thức trở lại nơi xe mây đậu nhưng chỉ thấy bãi cát chơ vơ, không cả vết bánh xe.
Từ Thức ra cửa Thần Phủ. Quả núi vẫn nguy nga như tòa sen ngồi trên mặt nước. Nhưng tìm bốn phía không thấy phía nào có cửa hang vào động.
Về sau, người đời vẫn kể chỗ ấy là động Từ Thức, nhưng chưa bao giờ tìm được cửa vào hang.