VUA HEO
Có một đứa trẻ không biết ở đâu lạc đến rồi quanh quẩn ở lại trong làng. Ai cũng gọi nó là thằng Heo rồi thành tên. Bởi vì quanh năm Heo làm quần quật cả ngày, Heo đóng cái khố đơn, cởi trần, mình Heo như vùi trong cát, trong bùn. Heo chăm làm, nhà nào cũng gọi việc.
Một ngày kia, Heo được vào làm cho nhà quan phủ. Heo nhanh nhẹn, tháo vát, người quản gia cắt cho việc Heo hầu quan. Bữa ấy, quan phủ cưỡi ngựa đi coi đê về. Heo múc một thau nước mưa ngoài vại vào rửa chân cho quan. Quan ngồi trên ghế, Heo quì xuống té nước cọ chân.
Quan bảo Heo:
– Ba cái nốt ruồi đỏ ở sau bàn chân tao là quí tướng. Nhẹ tay kỳ, đừng nhỡ cào xước ra thì cả họ nhà mày phải đóng gông ngồi trong ngục đấy.
Heo nghĩ bụng: “Ông chỉ có ba nốt ruồi đỏ chứ gì”. Rồi Heo nói:
– Bẩm quan, ba nốt ruồi của quan chưa lấy gì làm nhiều. Tôi có chín nốt ruồi đỏ đằng sau lưng đây này.
Quan cầm cái gáo nước đổ vào lưng Heo, bụi cát lở ra, quả nhiên nhìn thấy chín cái nốt ruồi đỏ mọc một chuỗi dọc sống lưng Heo. Quan phủ giật mình: “Thằng này có đến chín nốt ruồi đỏ, ngày sau nó làm vua chắc? Thằng lợn này mà làm vua thì bằng con chó lên nằm giường, thiên hạ đi bằng tay chứ không được đi bằng chân nữa, phải giết nó mới được”.
Quan phủ đưa cho đầy tớ gái một gói thuốc bột:
– Mày rắc cái bột này vào bát cơm thằng Heo. Không được bép xép với ai, không được nói cho thằng Heo biết.
Người tớ hầu gái cầm gói bột, đoán là thuốc chết. Nghĩ thương Heo quá. Đã nghe nói ở nhà này từ năm trước, ai mà bị quan ghét, quan cho ăn thuốc độc. Nhiều người đã chết như thế. Gái mà không rắc thuốc vào bát cơm của Heo thì Gái cũng phải chết. Thế là Gái rắc thuốc vào bát cơm rồi đến bữa, gọi Heo về ăn.
Heo vào nhà bếp, người tớ Gái đã ra ngoài chuồng lợn, nhưng trong bụng vẫn thương Heo quá, Gái gõ vào cái máng cho lợn, Gái nói to một câu lạ tai:
– Heo ăn thì heo chết, heo không ăn thì heo cũng chết.
Cô gái lảm nhảm kể đi kể lại câu nói ngô nghê ấy. Heo nghe thấy, không hiểu cô gái bảo con heo trong chuồng như thế là ý nghĩa thế nào. Heo đã cầm bát cơm lên, nhưng chưa ăn, Heo ra hỏi Gái:
– Cái gì mà cứ hò hát như người điên thế?
Cô gái kéo Heo ra sau vườn, nói:
– Trong bát cơm có thuốc độc. Anh trốn ngay đi, không có thì quan giết đấy.
Heo nói:
– Tôi xin đội ơn người đã cứu tôi. Tôi đi bây giờ đây, nhưng sau này có khi còn gặp lại ân nhân, bấy giờ làm thế nào mà nhận được nhau?
Cô gái nói:
– Em búi tóc lên đỉnh đầu từ hôm nay cho đến khi nào gặp lại nhau.
Rồi Gái búi tóc lên giữa đỉnh đầu, như phong tục trong vùng ai có chồng thì búi tóc như thế.
Heo ra khỏi nhà quan phủ, chạy liền mấy ngày đường, Heo đi thật xa. Heo vào làng, đến ở cho một nhà trọc phú. Ông nhà giàu cho Heo trông coi một lũ con đương tuổi nghịch ngợm. Suốt ngày, Heo phải bò quanh sân làm trò chơi, làm con ngựa cho chúng nó cưỡi.
Có những đứa tai ác ngồi trên lưng Heo giả vờ làm bố nó cưỡi ngựa đi việc quan, có đứa lôi tai Heo làm dây cương, có đứa cầm cái roi mây, hét cho ngựa chạy nhong nhong, rồi quật roi vào đít Heo.
Lũ trẻ đứng quanh thích quá, reo ầm lên. Heo tức, ngoái tay lên, gạt một cái. Thằng bé ngã lăn xuống, va đầu vào cái chân cột đá, chết ngay đơ.
Lũ trẻ kêu lên. Heo nhảy ra cổng rồi chạy một mạch không biết ngày đêm là thế nào nữa. Qua mấy cánh rừng, thấy một ngôi chùa chon von trên núi. Heo lên chùa xin sư ông cho Heo xuống tóc đi tu. Nhà sư nhìn Heo một lát rồi nhận Heo làm tiểu.
Chú tiểu Heo ngày ngày quét sân, sớm chiều thỉnh chuông lau bụi các tượng phật trên chùa và nhà hậu. Sư ông cẩn thận bảo chú tiểu:
– Con phải chùi cho kỹ vào các kẽ tay, các khe nếp áo thì tượng mới sạch được.
Nhưng lau mỗi pho tượng kỹ lưỡng ngóc ngách như thế thì lâu quá, có hôm đến bữa vẫn chưa xong, Heo phải bỏ ăn. Bực mình, Heo nghiến răng quát khẽ: “Nhấc tay lên cho ông lau! Nhanh lên, ông đói lắm rồi”. Tự dưng, pho tượng gỗ chìa thẳng tay cho Heo chùi được mọi chỗ, từ khuỷu tay đến kẽ tay. Lau đến pho tượng ngồi khoanh chân, Heo gí tay vào trán phật: “Duỗi chân ra, duỗi ngay ra không có thì ăn cái tát này”. Pho tượng lập tức giơ hai chân. Heo chỉ đưa thẳng một lượt khăn lau, pho tượng đã bóng nhoáng.
Chập tối, sư ông lên chùa tụng kinh, ngắm thấy tượng Phật Bà ngồi duỗi hai chân, sư ông giật mình. Sư ông gọi các sư, các tiểu trong chùa hỏi ai lên chùa nghịch ngợm làm cho các tượng phật dị dạng thế này.
Heo bước ra vái sư ông rồi cúi đầu:
– Bạch thầy, lúc nãy lau tượng con quên bảo Phật Bà ngồi khoanh chân lại.
Sư ông càng kinh ngạc hơn, nghĩ bụng: “Ta nghe nói chỉ có Ngọc Hoàng mới khấn xin, trò chuyện được với Phật, nhưng cũng chưa được mắt thấy bao giờ. Vậy mà thằng bé này lại sai được cả Phật. Tinh tướng này thì mả nhà nó phát làm Ngọc Hoàng đến nơi. Ta phải mau mau đi báo quan kẻo nhỡ thế nào thì nhà chùa mang vạ”.
Nhà chùa sai sư bác lên báo quan phủ.
Heo đã trốn đi ngay trong đêm. Heo đi thật xa, đến một phố bến ven sông.
Heo vào làm thằng ở cho một nhà buôn có cửa hiệu và vườn cây quanh nhà. Heo quảy nước tưới vườn. Mỗi hôm tưới xong, Heo ngồi nghỉ bên gốc cau.
Heo nhìn lên cây cau, những tàu lá xanh ngắt, cây cau đương bói đã ra hoa, sang giêng chắc là nảy buồng. Heo ngắm ba cây cau rồi nói:
– Ba cây đứng hàng ngang thế không được. Cây nào cao nhất là bố thì đứng giữa. Cây mẹ ở bên phải. Cây con đứng bên trái. Phải thứ tự, trên dưới thế.
Heo vừa nói xong, ba cây cau đã chuyển động đổi chỗ như Heo vừa ra lệnh. Cây cha cao vổng lên. Cây mẹ lùn xuống. Cây con thì thấp ngang đầu người.
Chủ nhà ở dưới thuyền lên đi qua vườn thấy ngờ ngợ lạ mắt. Rồi nhận ra ba cây cau so le khác mọi khi. Chủ gọi Heo làm vườn ra hỏi. Heo cười nói:
– Thưa ông, tôi bảo mấy cây cau phải đứng như thế cho ra lễ phép hàng lối có trên có dưới đấy ạ.
Ông chủ quát:
– Thằng này là con ma, mày là con ma láo lếu à! Ba cây cau của tao đương bói sắp ra quả mà mày nghịch lung tung thế thì cây điếc, cây chột hết. Muốn sống thì làm lại ngay, không tao đánh chết quẳng xuống sông.
Heo thưa:
– Bẩm ông, một lời đã nói ra thì không nói lại được.
Ông chủ vớ cái gậy đánh Heo. Heo nhảy lên rồi chạy ra ngõ.
Heo đi liền mấy ngày đến một vùng khác. Tới khuya, mỏi chân lại buồn ngủ, thấy một ngôi đền, Heo tạt vào. Từ trong đền ra tam quan đã đông người ngủ nhờ quá. Hôm sau ngày phiên, lái buôn các nơi về chợ vào trọ trong đền. Heo ngồi một lúc, càng mỏi. Nhưng nhìn quanh không còn chỗ nào chen để nằm xuống được. Chỉ có trên bệ cao nơi tượng thờ Long thần áp tường còn trống. Heo trèo lên bệ, nhấc tượng Long thần bỏ xuống xó nhà, thế là Heo chui vào nơi để tượng được chỗ nằm tử tế.
Heo ngủ một giấc ngon, đến lúc nghe gà gáy, chồm dậy, đi ngay. Sáng hôm sau, bọn lái buôn trở dậy lục tục ra chợ. Ông từ vào quét dọn. Ông nhìn lên bệ, không thấy tượng Long thần. Có vết bùn khô, dấu người nằm. Ông từ lẩm bẩm: “Ai mà dám báng bổ thánh thần đến thế, liều nằm lên bệ thờ, lại đem tượng ngài đi đâu rồi?” Mấy người quanh đấy cũng lên tìm, thấy tượng Long thần dựng đứng chỗ xó luồn.
Nhưng lạ lùng sao, ông từ bê cả hai tay cũng không nhấc được pho tượng gỗ lên bệ. Mấy người xúm lại bê cũng không nổi. Ông từ thắp hương, xin quẻ mấy lần rồi đem hai đòn kiệu buộc lại, bốn người đến khiêng, tượng cũng không nhúc nhích.
Một người buông cái đòn gánh khiêng xuống, mặt đỏ phừng, mắt ốp đồng trợn ngược, quát lớn:
– Bọn mặt thịt kia không được hỗn. Vua đặt ta ở đâu thì ta phải ở đấy. Bao giờ vua cho lên bệ ta mới được lên.
Rồi người ấy gầm lên một tiếng, mặt lại trắng bệch. Hỏi vừa nói gì đấy, bảo không biết. Ai nấy mới bàng hoàng đoán đêm có vua đã vi hành qua đây.
Tin đồn có vua vi hành khắp nơi, một truyền mười, truyền trăm, truyền mãi, kể không biết bao sự lạ, người ta nô nức đi đón, đi tìm… Vua ở trên trời xuống, vua sắp ra…
Khắp nơi lần theo các câu chuyện lạ lùng. Bấy giờ đương loạn lạc, trộm cướp nổi lên, ai cũng khao khát được thấy bình yên. Không biết đâu thực đâu hư, bao nhiêu những chuyện ly kỳ. Nào có hôm vua thi nốt ruồi đỏ với quan phủ, vua có một trăm nốt son trên lưng, quan phủ chỉ có một cái ở ngón chân. Vua ngủ trong chùa, các tượng phật phải hầu hạ, vua vào đền phạt Long thần, bắt Long thần xuống đứng xó cửa.
Lại càng đồn thổi mãi.
Thế rồi tìm được Vua thật. Có nhiều người nói đã gặp vua, sư ông chùa nọ quả quyết, đã biết Vua, đã ở chùa với Vua.
Một buổi sáng, đằng xa xa thấy một người cởi trần, đóng khố, mình lấm như vùi, quảy một gánh củi ở rừng ra.
Sư ông mừng rỡ reo lên:
– Vua kia kìa, Vua kia rồi…
Mọi người xúm lại. Heo cũng đã nhận ra sư ông năm trước. Nhưng Heo điềm nhiên nói:
– Tôi không phải Vua.
Mọi người cứ dìu Heo xuống hồ, kỳ cọ đến trôi hết đất cát trên người, càng kinh ngạc thấy chín cái nốt ruồi đỏ như chín vết son khuyên tròn dọc sống lưng. Mọi người chắp tay cúi rạp rồi tung hô: “Vạn tuế, thánh thượng vạn vạn tuế…” Bốn phía hò hét vang động chạy tới.
Ai nấy đều một lời van nài: “Đương cơn nạn nước, xin thánh quân ra tay cứu vớt bách tính thoát khỏi lầm than”.
Vua Heo phải theo lời.
Người bốn phương kéo cờ đưa quân về. Những đám giặc cỏ, nghe tin vua Heo, bọn thì tan chạy, bọn về hàng phục. Vua Heo cưỡi voi vào kinh đô, tiếng quân reo, tiếng ngựa hí vang trời.
Đại quân đi qua một vùng, đóng quân lại. Nửa đêm, vua Heo được báo:
– Có người xin vào bái yết.
Rồi dẫn vào một người đàn bà. Thoạt đầu, vua Heo không biết là ai, nhưng trông lên búi tóc trên đỉnh đầu người ấy thì nhớ ngay. Những chuyện khi gian truân ai cũng nhớ đời.
Bèn bước ra, cầm tay, hỏi:
– Có phải nàng đấy không?
Người đàn bà cúi mặt khóc.
Vào kinh đô, vua Heo lập nàng làm hoàng hậu.