← Quay lại trang sách

CHƯA ĐỖ ÔNG NGHÈ ĐÃ ĐE HÀNG TỔNG

Thầy đồ Ngọa nhà nghèo nhưng học giỏi nức tiếng. Cả trên thiên đình, Ngọc Hoàng cũng biết tài và mừng thay. Ngọc Hoàng cho ông Nam Tào mở sổ hạ giới ra chấm khuyên nốt son tròn đánh dấu… năm ấy… năm ấy… thầy đồ Ngọa đỗ tiến sĩ… năm ấy làm quan thượng thư…

Chẳng bao lâu cả làng quê thầy đồ Ngọa, các thần thành hoàng làng, thần đền, thần bến rồi thần đất, vua bếp, ông hà bá dưới sông cũng biết tin vui lớn ấy của thầy đồ Ngọa. Bước đường võng lọng, ngựa xe, ơn vua lộc nước sênh sang của nhà thầy đồ hay chữ đương đợi cả ngoài ngõ. Thế mới hay trên trời hay dương gian chẳng gì kín đáo được, mà đâu cũng có tiếng đồn thổi, thật là dứng mạch vách tai [1].

Hàng ngày, thầy đồ Ngọa đi nghe bình văn thường sang đò qua cửa đền thờ thần Cửa Sông. Thần Cửa Sông có ý tứ cung kính, lễ phép với người sắp có danh tiếng. Thầy đồ đi ngoài cổng đền, thần ngồi trên ngai ở hậu cung che bức màn điều, ở trong thần đã đứng dậy, chắp tay cho đến lúc thầy đồ đi khỏi cái bia hạ mã.

Nửa đêm, ông từ giữ đền được thần báo mộng:

– Ngày mai có quí nhân đến đền ta, ông từ phải quét tước sạch sẽ rồi lên đèn, thắp nhang. Quí nhân qua đò, ông từ nhớ ra bảo người chèo đò trải chiếu hoa để quí nhân ngồi.

Hôm sau, ông từ làm cẩn thận mọi việc như lời thần dặn. Suốt ngày chẳng thấy ai đến. Mãi buổi chiều mới có thấy đồ Ngoạ gầy leo khoeo, cái áo dài nâu vắt vai, chiếc khăn lượt tụt xuống quàng cổ. Thầy đồ bước liêu xiêu, không biết ông thầy đồ đương đói hay thầy đồ đã làm chén rượu ở đâu bây giờ từ dưới đò lên vào cửa đền nghỉ chân. Một lát, đứng dậy đi. Ông từ cũng không để ý. Ông còn đương ngóng quí nhân, như lời thần đã bảo. Nhưng mà đến đêm cũng chẳng thấy ma nào đi qua.

Một lần khác, thần đền lại báo mộng dặn ông từ quét dọn và đèn nhang tử tế, lại bảo nhớ ra dặn người lái đò trải chiếu hoa… Nhưng rồi cả ngày chẳng thấy ai, lại chỉ có mỗi thầy đồ Ngoạ kiết xác bước lững thững vào đền đọc đôi câu đối ở gian thờ rồi lủi thủi đi ra.

Đến lần nữa, nửa đêm thần Cửa Sông lại báo mộng cho ông từ biết ngày mai có quí nhân vào đền, nhớ cẩn thận… lễ phép… mời nước… Giữa trưa, lại cái thầy đồ áo rách tả tơi mọi hôm.

Lần này, ông từ mời thầy đồ lại rồi thì thào kể cho thầy đồ nghe ông đã ba lần nằm mộng như thế.

Ông từ nói:

– Thần Cửa Sông thiêng lắm. Ai đi lễ cũng cầu được ước thấy, thuyền bè qua lại lên cúng nhiều lắm. Đã ba lần thần báo mộng vậy, chắc sau này nhà thầy đỗ làm quan to.

Thầy đồ Ngoạ sướng quá, về cả đêm không chợp mắt. Thầy đồ bấm đốt tay, chỉ còn một năm nữa đến kỳ thi. Ôi chao, vinh hoa phú quí đã tới nơi rồi đây. Thầy tưởng tượng đến ngày thi đỗ, vinh qui về làng, tiếng loa truyền khắp vùng từ gà gáy. Hàng tổng nô nức đi đón quan trạng. Rồi cờ điều lọng vàng, rồi tàn quạt, điếu ống lính cắp theo, lính dẹp đường để “võng anh đi trước, võng nàng đi sau”.

Nhưng thầy đồ chợt nhận ra cái con mẹ hĩm nhà mình xấu xí quá. Nái xề cạo đầu trọc già mõ, lại mặt rỗ huê, quanh năm hết chạy chợ về nhà lại váy đụp, cởi trần phơi nắng bắt cua ngoài bờ rộc. Thế thì cái tướng mẹ hĩm không thể làm vợ quan trạng, làm bà tiến sĩ…

Thầy đồ Ngoạ quyết bỏ vợ. Thầy vác gậy đánh vợ, đuổi đi. Xóm giềng lấy làm lạ, xưa nay vợ thầy đồ tần tảo, nuôi con khôn lớn, nuôi chồng ăn học. Thầy đồ chẳng tiện khoe câu chuyện “quí nhân” thần Cửa Sông, nhưng thầy cứ lầm bầm đuổi đánh vợ ngày một tàn tệ hơn, đến độ vợ phải bỏ đi thật. Mọi người khinh bỉ thầy đồ bội bạc.

Hôm ấy, có người đến đòi nợ. Quanh năm, nhà thầy đồ vẫn nợ đìa ra, như mọi khi thì vợ chồng nói khó, khất hẹn tử tế. Nhưng hôm ấy thầy đồ vểnh ria lên đuổi chủ nợ, hầm hầm quát:

– Liệu hồn, nợ nần đòi vừa vừa chứ. Mai kia tao làm quan rồi, tao đến cắm đất, cắm vườn nhà các người đấy2.

Không hiểu thế nào, người chủ nợ cuống cuồng chạy ra. Thầy đồ Ngoạ còn đứng chửi theo. Rồi gặp ai, thầy đồ cũng sinh sự, cũng doạ, lại cãi nhau, chửi bới cả đôi bên hàng xóm. Rồi lúc nào cũng đe nẹt “chúng mày sắp biết tay ông”.

Chẳng ai ưa cái nhà thầy đồ kiết tự dưng lên mặt.

Rồi còn quá thể nữa, hôm có việc làng. Thầy đồ chỉ là dân bạch đinh như trai làng chẳng có chỗ, có phần ở đình. Nhưng nghe tiếng trống đình, thầy chợt như nhớ: ô hay, không thấy đứa nào vào mời tao. Thầy đã ngỡ ta đã to, ta đã ngồi mâm nhất ngoài đình, thầy đồ đi luôn ra đình.

Thầy đồ Ngoạ tới chỗ phản đá chỗ các cụ lão làng. Một cụ hỏi:

– Anh đồ lên đây có việc gì?

Đồ Ngoạ đáp trống không:

– Chỗ ngồi của mỗ ở trên này.

Một cụ nói:

– Trong đình chưa có chỗ anh đồ ngồi.

Đồ Ngoạ trợn mắt:

– Mỗ còn ngồi cao hơn các bố già kia!

Các cụ lắc đầu, lè lưỡi vì câu nói hỗn. Ông thành hoàng làng ngồi trên ngai ở hậu cung nghe tiếng, tức lắm.

Những cái trái khoáy của thầy đồ Ngoạ rồi thì tất cả các thần trong làng đã biết. Thần đất, vua bếp, cả ông Hà Bá dưới sông, các thần đã trình lên thiên đình, xuống thủy cung. Rằng thầy khoá Ngoạ lộng hành, chưa thi đỗ, chưa chức tước gì mà đã coi trời bằng vung.

Ngọc Hoàng phán:

– Người có chữ, có đức thì làm quan. Còn cái đứa hư thế thì xoá đi.

Rồi lệnh cho quan Nam Tào mở sổ gạch chỗ khuyên đỏ chấm đỗ tiến sĩ của thầy đồ Ngọa.

Một hôm, thầy đồ Ngọa ở dưới đò lên, tạt vào chơi đền. Trông thấy ông đồ, ông từ bối rối, giật mình. Đêm qua ông từ không được thần báo mộng có quí nhân vào đền như mọi khi. Nhưng ông từ vẫn lễ phép trải chiếu mời thầy đồ ngồi, rồi lên đèn, thắp nhang.

Nửa đêm, thần báo mộng:

– Từ nay, tên thầy đồ ấy vào đền không phải đón rước nữa.

– Thưa, tại sao?

– Thiên đình xoá sổ thi đỗ làm quan của nó rồi.

– Thưa, tại sao?

– Tại nó hư quá.

Thầy đồ Ngoạ đi thi, cho đến năm bảy mươi tuổi, không nhớ thi bao nhiêu khoá, chẳng đỗ khoá nào. Sa sút mãi, bán cả nhà, cả vườn, chỉ có một thân một mình, phải ra nằm cửa đình. Ngày ngày đi xin ăn. Cũng còn đôi chút sĩ diện, thầy đồ lẻn lút đi ăn mày ở các chợ bên kia sông.

Câu người đời truyền khẩu mỉa mai: “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng” là bởi cái tích thầy đồ Ngoạ này.

Chú thích:

[1] Dứng: cắm dứng làm vách, trát dứng (Từ điển chính tả của Hoàng Tuyền Linh – Vũ Xuân Lương). Viết là “Đan dứng làm vách” đúng hơn. Câu tục ngữ “dứng mạch vách tai”, chữ “dứng” ở đây không có nghĩa.