← Quay lại trang sách

ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH

Trên sông Cái, có người lái buôn tên là Vạn Lịch. Bác lái Vạn Lịch giàu nhất vùng, thuyền bác quanh năm xuôi ngược từ các ngọn nguồn ra cửa bể.

Bác Vạn Lịch buôn bán lớn nhưng phải cái xấu tính. Bác đi thiên sơn vạn thủy, vợ bác là Mai Thị chỉ ở nhà thế mà đã bao phen khổ cực, bị xỉ vả, đánh đập chỉ vì bác Vạn Lịch hay nghi kị vợ không chung thủy.

Hôm ấy, bác Vạn Lịch nằm trong thuyền, Mai Thị ngồi ngoài đầu khoang đương têm trầu. Trời lạnh, trong thuyền lúc nào cũng phải trữ trầu cau để ăn cho ấm người.

Có một người đánh giậm từ dưới sông lên đi qua. Gió thổi hun hút mà người ấy đóng khố, cởi trần, vai vác cái giậm bước run lẩy bẩy. Rét quá, Mai Thị động lòng thương, cầm âu trầu bước ra, bảo:

– Trời rét thế này, cầm khẩu trầu mà ăn cho ấm bụng.

Bác Vạn Lịch ở trong nhìn ra, thấy vợ đưa trầu cho người đánh giậm. Cơn lôi đình nổi đùng đùng. Bác gọi vợ vào, nắm tóc đánh một trận bò lê kéo càng rồi nhặt xống áo của vợ vứt lên bãi, ném theo cho một thoi vàng rồi đuổi đi.

Vợ khóc lóc, van xin thế nào, người chồng cả ghen cũng không cho ở lại. Đành phải nuốt nước mắt ra đi.

Một hôm, Mai Thị gặp lại người đánh giậm ngoài bãi sông. Mai Thị kể mọi sự tình. Nguời đánh giậm nói:

– Để tôi đến giãi bày nỗi oan cho chị.

Mai Thị can:

– Anh mà đến bây giờ thì người ta giết anh.

– Nhưng không thể cứ lang thang mưa gió thế này, hay là chị hãy về lều tôi.

Mai Thị nghĩ có lẽ số trời đã định, thế là hai người thành vợ thành chồng.

Cuộc sống vợ chồng Mai Thị nghèo khó, nhưng thuận hoà, người chồng thật tốt bụng và quá đỗi hiền lành. Một hôm, có đàn gà vào bới bếp. Chồng tìm cái que để đuổi gà, thấy trong bọc xống áo vợ có thoi vàng liền cầm ra ném gà. Chẳng ngờ vung mạnh quá tay, thoi vàng văng xuống sông.

Người vợ vừa vào đến cửa, kêu lên:

– Anh vứt hết của cải đi rồi, thoi vàng mà không biết à?

Người chồng cười:

– Tưởng thoi vàng thế nào chứ thoi vàng thế ấy thì chỗ tôi đánh giậm đầu mom đằng kia nhiều vô khối.

Hôm sau, chồng đưa vợ ra chỗ mom sông. Vợ chồng lội xuống mò. Dưới đáy nước có một đồng vàng thực, thoi vàng nào cũng khắc hai chữ Vạn Lịch.

Từ ngày vợ bỏ đi, bác Vạn Lịch đau buồn khôn nguôi. Lại luôn mấy chuyến buôn bị lỗ. Bác Vạn Lịch chán đời không cắm thuyền ở vùng vạn ấy nữa. Bác bán nhà, bán thuyền chỉ giữ lại một chiếc ngược sông đi lên tìm ở ngọn nước khác.

Chẳng may, đến đây gặp bão, thuyền bị đắm. Bao nhiêu của cải chìm xuống sông nốt. Chỉ mỗi mình bác Vạn Lịch sống sót ngoi ngóp được vào bờ.

Không ngờ Mai Thị và chồng lại mò đúng chỗ thuyền đắm ấy mà Mai Thị nhìn cái túi, cái giỏ đã nhận ra. Vợ chồng đội thúng vàng về. Người vợ đem bán lấy tiền, làm nhà cửa tử tế. Chẳng biết bác Vạn Lịch còn sống hay đã chết, người vợ lập bàn thờ, tuần rằm mùng một, cúng người đã cho của. 

Có nhà ở khang trang rồi, nhưng đi ra đi vào tối ngày quanh quẩn chỉ có hai vợ chồng. Người chồng nói:

– Chẳng có ai đến chơi, buồn ghê!

Người vợ bật cười:

– Anh hiền như đất thế thì chỉ có chơi được với phỗng.

Người chồng hỏi lại vợ “thế hả” rồi đi tìm phỗng. Anh vào trong làng, đến một ngôi đền, thấy pho tượng ngồi trên bệ. Hỏi tượng gì, người làng bảo tượng phỗng đấy, anh reo lên: “A! Bác Phỗng đây rồi. Mời bác về nhà tôi chơi”. Nhưng pho tượng vẫn ngồi yên, chẳng đụng đậy. Người chồng đến tận nơi, chèo kéo, dỗ dành. Tượng vẫn lẳng lặng như không biết. Sốt ruột, bèn lôi tượng đứng lên. Thì pho tượng đổ kềnh ra. Tức mình, liền bỏ đi.

Về nhà, kể lại chuyện với vợ. Vợ cười ngặt nghẽo: “Thế là ông Phỗng cũng chẳng buồn chơi với anh!”.

Ngôi đền ấy là nơi phát tích. Thuở hàn vi, có thời nhà vua đã tu ở đấy. Khi được lên ngôi, nhà vua vẫn nhớ thuở long đong, đã tu sửa chùa và năm nào cũng cho người đem đồ lễ và tiền bạc về hương khói nhà chùa.

Bỗng dưng, nhà vua bị đau liệt một bên người, uống thuốc không khỏi. Nằm mộng, thấy Bụt hiện về bảo:

– Có động ở chùa phát tích.

Cho người về thăm chùa, thấy pho tượng Phỗng đổ nằm dưới đất. Các quan làm lễ tạ rồi sai trai tráng trong làng ra cúng nâng tượng. Lạ thay, cả chục người ghé vai vào khiêng mà pho tượng vẫn nằm trơ trơ.

Nhà vua lo lắm, càng ốm nặng. Bèn yết bảng khắp nơi cầu trong thiên hạ đâu có người tài dựng được pho tượng Phỗng lên.

Mai Thị đi chợ, thấy người xúm xít xem bảng cầu người tài. Mai Thị nhớ mang máng đã nghe chồng kể có lần vào chùa chơi với Phỗng làm đổ pho tượng, Mai Thị về hỏi chồng. Chồng nói:

– Ừ, tôi kéo Phỗng đứng dậy, để đưa về nhà chơi cho vui, như mình bảo đấy, nhưng Phỗng đã lăn đùng ra, không chịu đi.

– Thế bây giờ có nhấc được Phỗng dậy không?

– Chắc là dễ như bỡn, nhấc đứng lên còn được cơ mà.

Vợ chồng vào chùa. Quan quân và cả làng ra, nhà chùa vẫn đang cúng. Anh đánh giậm cúi xuống nâng pho tượng lên bệ như cũ nhẹ nhàng chẳng khác đặt hòn đất đầu rau ông vua bếp.

Trong kinh đô, nhà vua tự nhiên ngồi dậy được, thế là khỏi bệnh.

Nhà vua mời người đánh giậm vào triều, thiết tiệc cả hai vợ chồng rồi hỏi:

– Nhà ngươi có công to, nay muốn được thưởng gì?

Người đánh giậm nói:

– Thưởng gì cho vợ chồng tôi cũng được.

Nhà vua phán:

– Ngươi đã cả đời ở nơi sông nước, nay cho làm quan tuần ty trông nom thu thuế thuyền bè ra vào cửa sông.

Người đánh giậm lạy tạ rồi đi nhận chức.

Một hôm bà tuần ty ra ngồi ngoài trạm thu thuế, đếm thuyền vào bến. Một người nhà thuyền bước vào, người ấy trông lên, mặt bỗng tái mét. Đấy là bác Vạn Lịch. Từ ngày thuyền đắm, mất hết của. Bây giờ rách rưới, ốm yếu, ngày ngày đánh cá, chèo thuyền thuê nuôi thân.

Mai Thị cũng đã nhận ra người chồng cũ. Mai Thị nói:

– Cái ngày xưa anh nhẫn tâm đuổi tôi đi bơ vơ…

Người chồng cũ chưa nghe hết câu nói đã lặng người, quay ra. Đến một cây gạo ven sông, treo cổ lên, tự vẫn.

Mai Thị nghĩ cũng thương con người biết hối lỗi, nhưng đã quá giận thân mà làm liều. Vợ chồng Mai Thị xin nhà vua cho được phát chẩn một năm đói kém. Vàng trong nhà đúc thành tiền, khắc hai chữ Vạn Lịch, đem chia cho người nghèo.

Từ đấy mới có câu hát mang nhiều ý nghĩa:

Đồng tiền Vạn Lịch, thích bốn chữ vàng…