← Quay lại trang sách

MỤ LƯỜNG

Ở cửa sông kia có một chú lái trẻ tuổi tháo vát. Chú lái có chiếc thuyền chở hàng, khi bán đi khi buôn về, nào mật ong, nào sừng hươu, lại vải lụa. Nhưng cũng chỉ là những thổ sản trong vùng, không phải đã là buôn bán tung hoành dọc ngang thoả chí. Chú lái đương sức bay nhảy. Chú ước ao có chuyến buôn xa, tiền rừng bạc bể trong thiên hạ đổ về như nước.

Nghe nói ngoài bể Bắc có bến lớn, thuyền bé bốn phương qua lại, chú lái bàn với vợ:

– Người ta bảo bên Hạ Châu cửa bể đông vui lắm. Ta thử đi một chuyến xem.

Rồi sửa sang thuyền, lại chịu khó đi cất hàng hiếm, những quế chi, hoa hồi, ngọc trai, gấm vóc… Rồi thuê mấy người khoẻ mạnh theo đỡ đần. Hôm đi phấn chấn lắm, vợ tiễn chồng ra tận đầu bến, chồng đứng khoát tay ra cửa sông vừa cười vừa nói:

– Bây giờ đương mùa nồm nam, thuyền ta dong lên Bắc, khi nào gió bấc thổi thì ra đón đoàn thuyền nhà về. Cũng chẳng bao xa đâu.

Vượt bể nửa tuần trăng thì tới cửa Hạ Châu. Quả nhiên, tiếng đồn chẳng sai. Thuyền bè ra vào phấp phới như bươm bướm, lại đậu liền kề nhau như nhà nhà ngồi mặt nước. Trên phố, la liệt cửa hàng, chú lái lên dạo chơi, xem ngắm, dò la mối hàng. Trông thấy phía trước một toà nhà to, bốn mặt mở ra cửa hàng. Một người qua đường thấy khách ngắm nghía ngôi nhà, liền hỏi:

– Chắc mới đến Hạ Châu?

– Vâng, tôi đem hàng đến.

Người kia vồn vã:

– Thế thì vào hiệu buôn nhất cỡ Hạ Châu, nhà ấy đấy, mối bán mối mua lúc nào cũng sẵn.

Vừa hay trong hiệu bước ra một bà xiêm áo diêm dúa, cùng một đám gia nhân bao quanh. Bà ấy vồn vã chú lái:

– Mời quí khách vào nghỉ chân.

Chú lái nghĩ: “Mới đặt chân lên bến đã gặp người tử tế, thế là điềm may”. Chú lái và đám người làm bước vào nhà, bà ấy mời ngồi rồi nói:

– Khách xa đến, hãy thong thả, nghỉ ngơi mấy hôm cũng được. Ngày mai ngày kia các ông cho tôi xuống thuyền xem hàng, bấy giờ ta hãy nói chuyện làm ăn.

Bà chủ nhà đưa khách đi thăm các phòng ốc từ dưới lên lầu. Rõ ràng màn the, vách quế thơm nức tỏa ra. Đến một phòng uy nghi tĩnh lặng, chủ nhân mở khoá cánh cửa. Nhìn vào thấy trên bàn thờ một tượng rùa vàng to bằng hòn đá tảng sáng ngời đặt trên một cái mâm ngọc long lanh.

Chủ nhân kể:

– Tượng thần Rùa Vàng của nhà chài đưa ngoài bể Đông vào, từ thời tổ tiên tôi để lại, truyền lại đấy là thần Tài cho của, giữ của. Nhờ bóng Rùa linh mà cửa hàng tôi hay gặp được quí nhân như các ông đây.

Tối ấy, bà chủ mở tiệc khoản đãi. Đủ sơn hào hải vị thật lạ miệng. Ăn uống đến khuya rồi cả chủ tớ được mời nghỉ ở phòng khách sang trọng.

Chú lái càng chắc mẩm đã gặp bạn buôn giàu có và thế lực. Cái mộng làm ăn lớn phương xa có lẽ đã bắt đầu ở ngay chuyến đi mở hàng này.

Chú lái không biết đấy là mụ Lường, cơ ngơi mụ ở Hạ Châu phát đạt chỉ bởi mánh khóe lường gạt. Ở đây chẳng lạ thủ đoạn của mụ, nhưng ai cũng câm như thóc không dám dây, bởi mụ có thể hãm hại chẳng khó gì những kẻ xấu chơi với mụ.

Cái người ngoài đường, mách chú lái vào cửa hàng chỉ là tay chân của mụ Lường thả ra đi dắt khách.

Sớm hôm sau, lại một bữa điểm tâm. Xong rồi chủ nhà bảo chú lái dẫn xuống thuyền cho xem hàng. Hàng chú lái mang đến không nhiều nhưng toàn những thứ đắt giá mà Hạ Châu chưa có mấy khi. Mụ Lường khấp khởi mừng thầm sắp được một món béo bở. Khách đưa xem hàng xong, đi dạo phố về chủ nhà lại mở cuộc chè chén.

Mụ bảo:

– Chỗ hàng này tôi sẽ lấy hết. Bắt mối làm ăn với nhau còn về lâu về dài, các ông đặt giá thế nào, tôi mua thế ấy, không phải mặc cả. Các ông bằng lòng thì ngày mai tôi cho người xuống dỡ rồi trả tiền bằng vàng ngay một lúc, thế có được không?

Chú lái càng mừng rơn, mọi cái đều quá cả ước mong. Tối ấy, tiệc nữa rồi cả bọn lại nghỉ lại.

Nửa đêm, gia nhân nhà mụ Lường đem tượng Rùa Vàng xuống nậy cửa khoang, bỏ tượng vào giữa những tấm lụa xếp trong vách thuyền.

Sáng ra, mọi người về, hẹn bà chủ chốc nữa xuống thuyền dỡ hàng.

Cả bọn đi được một quãng, ra đến bờ sông. Có tiếng gọi giật, quay lại thấy mụ Lường đương hớt hải chạy theo. Bà chủ không ăn mặc diêm dúa như mọi khi mà mụ xắn váy, chít lộn khăn, mặt đỏ tía tai, rõ ra mụ Lường đáo để.

Mụ hét to:

– Nhà tôi mất trộm ông Rùa Thần Tài! Các người phải quay lại ngay.

Mọi người vội trở lại. Lên lầu, trong bàn thờ chỉ còn trơ cái mâm ngọc. Mụ Lường mếu máo:

– Các người trả tôi Rùa Vàng!

Chú lái quả quyết:

– Tôi không lấy.

Rồi hỏi bọn gia nhân:

– Có đứa nào lấy trộm Rùa Vàng không?

Bọn người nhà quì xuống, khóc mà rằng không biết. Chú lái cũng nghĩ bọn này không thể ăn trộm. Họ đều ngay thẳng, tử tế, có người đã đi với chú lái nhiều chuyến.

Đầy tớ nhà mụ Lường đã kéo ra đông lắm, quây kín mọi người. Mới tối hôm qua, chúng nó chắp tay vái khi chú lái đi qua, bây giờ hùng hổ như con sói đớp được mồi, chúng nó đợi xông vào đấm đá, trói bọn chú lái. Mụ Lường nói:

– Phải khám mới biết được, không hỏi nữa.

Chú lái nói:

– Tôi mới đến, không vào nhà ai, chỉ ở nhà bà.

– Biết thế nào được, phải khám người, khám thuyền.

Chú lái hét lên:

– Thuyền tôi mới tới, chưa dỡ hàng.

– Từ hôm qua chỉ có bọn bay ở nhà tao, bọn bay trông thấy tượng ông Rùa Vàng.

Lũ người nhà mụ Lường xô xuống. Chú lái đứng ra cản lại.

– Phải có quan huyện tới đây phán xử mới được.

Lát sau, quan đến. Quan huyện già đã được mụ Lường đút lót mỗi chuyến làm ăn, quan cũng một giuộc. Quan phán ra vẻ công minh:

– Hai bên đặt lệ ký cược công bằng nhau rồi quan mới cho xuống thuyền khám.

Mụ Lường nói trước:

– Bẩm quan, nếu khám mà không thấy, tôi mất một trăm lạng vàng đền danh giá cho người này.

Quan truyền:

– Tội trộm cắp là tội to bằng tội giết người. Khám mà thấy thì thằng này phải mất thuyền hàng, cả bọn chúng mày suốt đời làm người ở nhà ấy.

Người nhà mụ Lường và lính quan kéo xuống thuyền. Các cửa khoang bị tháo, khiêng ra các buộc hàng. Chú lái đứng trông mà buốt ruột.

Nhưng cái đau ấy chưa phải ghê nhất. Bọn lính lục đến chỗ những tấm lụa, nhấc lên thấy cái tượng Rùa Vàng. Chú lái xanh mét mặt, như chết đứng.

Thế là mụ Lường được cả thuyền hàng, lại được nô lệ. Trong nhà mụ, người ở khi đông quá thường đem bán cho các chủ khác, nhiều lắm.

Rồi những người theo chú lái phải bán đưa đi đâu không biết. Từ hôm ấy chú lái ở lều ngoài vườn, cả ngày cắt cỏ, chăn ngựa, vừa đói vừa khát. Chú ngửa mặt lên trời, kêu:

– Trời ơi! Độc ác đến thế mà được làm người ư?

Một hôm, chú lái đi chăn đàn ngựa ra ven sông. Gặp một ông lão chít khăn nhiễu, râu bạc, tay chống gậy tầm xích, cốt cách như ông tiên. Ông lão cầm trên tay một quả bưởi đỏ.

Chú lái nói:

– Cháu khát nước quá, ông cho cháu một múi bưởi.

Ông lão nói:

– Bưởi này không ăn được.

– Thế để làm gì?

– Quả bưởi này để cứu người.

Chú lái chắp tay lạy ông lão:

– Ông ơi! Cháu là người sắp chết oan đây.

Chú lái kể đầu đuôi nỗi khổ của chú, lòng tham không đáy của mụ Lường, tội ác lão quan huyện. Nghe xong, ông lão nói:

– Con viết một lá thư cho vợ, mai mang ra đây cho ta.

Chú lái viết thư cho vợ kể từ ngày bước chân đi, đến khi gặp nạn. Hôm sau, đem đưa cho ông lão. Ông lão cầm con dao khía vỏ bưởi, nhét lá thư vào rồi lấy nhựa đa gắn lại. Ông lão lẩm nhẩm đọc tên bến quê chú lái, tên vợ chú lái rồi ném quả bưởi xuống dòng nước, nói to:

– Mau mau đi cho được việc!

Cuối năm, vợ chú lái ra bến ngóng thuyền chồng. Đã qua mùa gió bấc rồi mà chẳng thấy thuyền về. Không biết thế nào, chỉ khóc đợi và đến khi gió bấc thổi lại đứng trên bến trông ra.

Một hôm, xa xa thấy một chấm đỏ bập bềnh giữa sông nước. Chấm đỏ ấy trôi băng băng vào, sóng đánh hất quả bưởi lên tận chân nàng trên cát.

Nàng nhặt bưởi, thấy quả còn tươi, một vết nhựa dán hằn trắng. Nàng bóc ra thấy trong ruột bưởi một đệp mấy tờ giấy có chữ của chồng.

Nàng về sắm một thuyền chở lụa và ngọc trai đến mùa gió nồm dong buồm vượt bể đi Hạ Châu. Trong bọn chèo lái có một người thợ bạc chuyên nghề đúc.

Nửa tuần trăng, thuyền vào bến Hạ Châu. Chủ thuyền và bọn người nhà lên bến tìm mối hàng. Tay chân mụ Lường lại dắt ngay vào cửa hiệu. Mụ Lường mừng thầm thấy chủ thuyền cũng là nữ, mụ chào hỏi cuống quýt.

Rồi đi xem nhà, ngắm pho tượng thần Rùa Vàng, sau đến tiệc tùng linh đình và bọn khách ngủ lại. Rồi mụ Lường hẹn sáng hôm sau xuống thuyền xem hàng, y hệt bao nhiêu chuyến đã đánh lừa các người khác.

Nửa đêm, mụ Lường lại đã cho người đem tượng Rùa Vàng xuống nậy cánh song khoang thuyền, vùi vào giữa những thửa lụa.

Có một điều không ngờ là người thợ đúc vẫn nằm nấp ở khoang ngoài. Bọn giấu Rùa Vàng vừa đóng lại nẹp khoang, người thợ lần ra bưng pho tượng vào khoang bếp. Mọi đồ nghề than củi đã sắp sẵn, người thợ đánh lửa nung tượng chảy ra những thỏi vàng, xếp lại để dưới chân những cây lụa. Rồi người thợ đúc gỡ nẹp khoang, chui lên bến. Làm như trong thuyền vẫn không có người. Trời vừa rạng sáng.

Bọn khách ra về. Mụ Lường hớt hải chạy theo, kêu khóc:

– Quân ăn trộm! Ăn trộm, bắt lấy!

Bọn khách đứng lại. Mụ Lường la hét gia nhân:

– Chúng bay vào công đường mời quan huyện ra bắt trộm!

Luật lệ ở Hạ Châu xưa nay xử kiện giống mọi đám trộm cướp khác, như đã buộc tội sẵn chủ lái.

Bên mất của mà tìm thấy thì bên ăn trộm phải đền hết cơ nghiệp, bị làm đầy tớ suốt đời. Bằng như không thì người đặt điều vu oan mất hết của và cũng phải đi làm đầy tớ. Đấy là đặt ra làm vì thế.

Tuy lệ vẫn vậy, nhưng lão quan huyện già trước kia vụ nào cũng xử cho mụ Lường được. Lão ấy đã chết năm ngoái, ông quan này khác. Mụ Lường cũng chẳng lo lắng mảy may. Bởi thế nào cũng thấy pho tượng Rùa Vàng dưới thuyền, chứng cớ chắc chắn thế.

Cả buổi lục trong thuyền không thấy tượng Rùa. Xét kỹ lưỡng lần nữa, chỉ tìm được lót dưới buộc lụa mấy thỏi vàng thoi.

Mụ Lường thua kiện.

Cảnh khổ nhục bao nhiêu năm trước của những người bị cướp của điêu đứng thế nào thì bây giờ mụ Lường chịu cả. Mụ phải giải xuống ở chuồng trâu.

Vợ chú lái cho gọi hết kẻ ăn người ở trong nhà lại trước sân. Trông ngay thấy người chồng hom hem gầy yếu đứng lom khom đằng xa. Nàng chạy xuống.

Hai vợ chồng gặp nhau, nước mắt như mưa.

Vợ chồng bán hết gia tài mụ Lường. Được bao nhiêu chia đôi, một nửa mua gạo phát chẩn cho người đói trong vùng. Một nửa đưa xuống thuyền đem về quê.

Mụ Lường xấu hổ, nhảy xuống trầm mình chết ngoài bể. Hồn mụ nhập vào con cá he. Con cá he suốt ngày nhào lên lặn xuống chỗ nước lợ cửa sông cửa bể. Người đời bảo đấy là hồn mụ Lường tiếc của, đi tìm của.