← Quay lại trang sách

GIÁP HẢI

Vào đời nhà Lê, ở Kinh Bắc, có một người đàn bà nghèo, mở ngôi hàng nước ở ven đê kiếm miếng ăn sống qua ngày.

Một hôm, người khách tạt vào hàng uống nước, đến lúc đi bỏ quên cái túi trong có ba thoi vàng. Bà hàng cầm túi cài lên trên vách.

Hôm sau, người khách trở lại, hỏi:

– Bà hàng có thấy cái túi của tôi không?

Bà hàng đưa túi ra, khách mừng quá, lấy ra tạ ơn bà một thoi vàng.

Bà hàng lắc đầu:

– Tôi không dám nhận, tôi chẳng có công gì.

Khách chưa hề gặp đâu người trọng nghĩa khinh tài đến thế. Bèn nói:

– Tôi làm nghề địa lý. Phần mộ các cụ nhà ta ở đâu, tôi tìm đất tốt để cho.

– Tôi chẳng có chồng con, anh em nào, đất tốt cũng không nên danh phận gì ông ạ.

– Không, đất tốt thì rồi sau được phúc.

Người khách khẩn khoản nói. Bà hàng nể lời, đưa ông ra ngoài đồng, chỉ hai ngôi mộ bố mẹ.

Đến một hôm, trời mưa gió liên miên đã mấy ngày. Chặp tối, nghe tiếng người gọi ngoài cánh liếp. Bà hàng mở cửa, thấy một người đàn ông đóng khố, vai vác cái giậm. Người ấy rét run, lướt thướt, bước đi lập cập.

Bà hàng thương hại, bảo vào trong nhà. Bà hàng đốt lửa sưởi, lại thổi cơm cho ăn. Đêm rét mướt, mà trong lều chỉ có một ổ lá chuối khô. Không biết thế nào, bà hàng bảo người nhỡ độ đường ghé lưng nằm tạm ở đấy.

Rồi hai người thành vợ chồng.

Gà gáy sáng, bà hàng ngoảnh nhìn sang thì người đánh giậm đã chết từ bao giờ. Người đàn bà sợ quá, ngay lúc con mờ đất, cõng xác con người một đêm nên nghĩa ấy đem chôn dưới chân đê.

Rồi bà hàng có mang. Chửa hoang, bà phải im lặng chịu làng nước nhiếc móc đủ điều. Đến kỳ sinh nở, bà ở cữ được một con trai.

Bà chăm chút con trai nhất mực. Thằng bé được bốn tuổi, mội hôm lên đê chơi. Có người lái buôn ở dưới bến, trông thấy bé kháu khỉnh, người lái buôn mua cho bé cái kẹo.

Rồi ẵm bé xuống thuyền, dong buồm đi mất.

Bà hàng lên đê gọi con không thấy. Bà hàng bổ đi tìm khắp nơi, cũng không thấy ở đâu. Rồi bà hàng ra trước cửa, gặp ai đi qua cũng hỏi, cũng kể lể. Mỗi phiên chợ, bà ngồi khóc cho cái số phận cay cực, hẩm hiu của mình.

Người lái buôn họ Giáp nọ không có con, ông quý chú bé lắm. Ông đặt tên bé là Hải.

Năm sáu tuổi, Giáp Hải đi học, học đâu nhớ đấy, đến năm mười tám tuổi đi thi hương đỗ đầu khoa rồi lên kinh đô ăn học, đợi thi đình.

Một hôm, cậu học trò Giáp Hải đi qua bến Bồ Đề sang thành Thăng Long thấy một người đánh cá xách một con ba ba ra bờ nước mổ thịt. Giáp Hải động lòng thương con vật bé nhỏ bèn hỏi mua.

Đem ba ba về nhà trọ, Giáp Hải bỏ vào ngăn kéo. Ngày ngày, đến bữa ăn, Giáp Hải mở ngăn, nhấc mai ba ba đem ra, cho ăn một nắm cơm nhỏ.

Một hôm, Giáp Hải đi nghe bình văn về, vào buồng đã thấy mâm cơm dọn sẵn, niêu cơm như vừa bắc ở bếp ra mở vung, khói lên nghi ngút. Lấy làm lạ, Giáp Hải ngồi xuống ăn bữa cơm ngon miệng. Lại lấy con ba ba trong ngăn kéo ra đặt canh mâm, rồi nắm một nhúm cơm cho ba ba ăn.

Hôm sau, Giáp Hải đi nghe bình văn về sớm. Nhìn qua khe vách, thấy một người con gái đương lúi húi thổi niêu cơm trên hoả lò, Giáp Hải chạy vào cất cái vỏ ba ba trên mặt bàn vào ngăn kéo.

Người con gái quay lại, đã thấy Giáp Hải đứng giữa nhà.

Người con gái thẹn thùng nói:

– Thiếp là con vua Thủy. Đi dạo chơi chẳng may quá bước bị sa vào lưới. Được chàng cứu thoát nạn, thiếp xin trả ơn chàng.

Từ hôm ấy, người con gái ở cùng. Sớm sớm, Giáp Hải vẫn đi nghe bình văn, nhưng đầu óc dường như minh mẫn hơn trước nhiều.

Một hôm, người con gái nói:

– Thiếp vắng nhà đã lâu, cha mẹ lại không biết thiếp đi đâu, chắc mong nhớ lắm. Xin chàng về nhà cùng thiếp, cho cả nhà biết mặt chàng rể.

– Tôi là người trần, xuống thế nào được thủy cung?

– Không sao. Chàng nắm tay thiếp cùng đi.

Nói rồi, người con gái lấy cái vỏ ba ba trong ngăn kéo ra. Lập tức, nàng biến vào trong vỏ. Nghe lời nàng, Giáp Hải ôm ba ba đem ra bến Bồ Đề thả xuống. Mặt sông bỗng rẽ ra, Giáp Hải vịn mai ba ba, bước vào trong nước.

Vua Thủy thấy con gái về, mừng rỡ khôn xiết. Rồi mở đại tiệc thết đãi ân nhân đã cứu công chúa. Bây giờ thành người nhà, ở lại Thủy cung ngày đêm Giáp Hải chăm chỉ đọc sách.

Một hôm, vua Thủy bảo Giáp Hải:

– Sắp đến kỳ thi trên kinh đô.

Giáp Hải giã từ thủy cung. Người con gái vua Thủy đưa chàng lên tận cửa bến Bồ Đề, hẹn ngày tái ngộ.

Giáp Hải lên bờ, đi xem niêm yết ngoài công quán rồi về nhà trọ sửa soạn đi thi.

Giáp Hải thi đỗ trạng nguyên khoá ấy.

Người lái buôn họ Giáp, từ ngày mất tích đứa con, già yếu hẳn đi. Chẳng lúc nào khuây được thương nhớ, vài ba tháng lại lên kinh đô tìm kiếm nơi đô hội xem hoạ may có được run rủi thế nào chăng.

Hôm ấy, ông đi qua công quán Cửa Nam, ông vào xem thấy tên Giáp Hải được viết to trên đầu bảng.

Mừng quá. Đến hôm trở về làng lại nghe inh ỏi loa truyền, trống đánh, tù và rúc báo tin ngày mai quan trạng nguyên về làng vinh quy bái tổ thì niềm vui càng tột độ, đích xác Giáp Hải con ta rồi.

Cả làng linh đình, rầm rộ đón quan trạng. Lễ nghi vua ban cao trọng, vẻ vang rực rỡ bao nhiêu thì bà con xóm làng trong vùng phải khó nhọc nửa đêm chầu chực đi đón, cầm cờ, khiêng trống, lại kiệu, lại võng.

Giữa trưa, đám rước về tới đầu làng. Cả trăm nghìn người ra hai bên đường xem mặt quan trạng. Giáp Hải nằm trong võng, nghe ngoài rèm tiếng người nói:

– Quan trạng quê thật ở đâu không biết, chỉ là con nuôi ông lái họ Giáp làng ta thôi.

– Thế mà làm khó nhọc cả mấy làng!

Giáp Hải nghe câu nói, giật mình, mới để ý hình như mình chẳng một nét nào giống bố mẹ. Giáp Hải phân vân, nhưng cũng không dám nói, dám hỏi. Từ đấy, để ý dò la.

Rồi ít lâu sau Giáp Hải biết thêm: Giáp Hải là con một bà hàng nước ở ven đê, ông lái họ Giáp đã đem về nuôi cho ăn học từ thuở bé.

Giáp Hải được bổ về làm quan trấn Kinh Bắc.

Một ngày, Giáp Hải đi công cán qua đò ngang sang bên sông, thấy trên ven đê, một bà già lắm, còm cõi, rách rưới trong ngôi hàng nước. Giáp Hải ghé vào quán.

Hỏi thăm thì biết bà lão ở một mình, ngày trước bà lão cũng có con trai. Nhưng chẳng may thằng bé ngã xuống sông chết từ thuở bé.

Tuy không biết thế nào, nhưng ra về nghĩ cứ đắn đo. Rồi Giáp Hải cho người trở lại ven đê, nói với bà lão quán:

– Quan tôi thấy cố già cả, mà lại chẳng có nơi nương tựa, quan tôi muốn đưa người về ở trong dinh, chẳng hay cố có bằng lòng không?

Bà lão nói:

– Quan lớn có lòng thương như trời bể, già này còn mong gì hơn.

Ở trong dinh, một hôm bà lão trông thấy quan trạng ra hồ tắm. Chân người đi đất, bước ra bến đá. Bà lão bỗng ngồi sụp xuống, khóc òa. Mọi người tưởng bà lão phải cảm, xúm lại đỡ.

Bà lão nói:

– Con trai tôi ngày trước có một vết bớt đỏ trên ngón chân cái bên trái. Bây giờ tôi trông thấy quan lớn cũng có cái bớt đỏ ở ngón chân hệt như thế, tôi nhớ con tôi.

Giáp Hải bước tới. Cảm thấy khuôn mặt bà lão hao hao quan trạng. Bà lão cứ cúi xuống ôm bàn chân quan trạng. Hai mẹ con cùng khóc.

Ông lái buôn họ Giáp ở nhà trong bước ra đến trước mặt quan trạng. Ông thú thật rằng ngày trước ông đã bắt trộm đứa trẻ trên đê.

Giáp Hải trọng công lao ông, tuy không sinh ra, nhưng đã nuôi nấng Giáp Hải nên người. Giáp Hải phụng dưỡng cả bố mẹ nuôi và mẹ đẻ, xứng đáng đạo làm con. Cho đến khi bà lão hàng nước và vợ chồng ông lái họ Giáp đều qua đời.

Một ngày kia, quan trạng Giáp Hải đi công cán ra ngoài thành. Đến chặp tối, chỉ thấy quân quan dắt ngựa về không.

Những người lính kể rằng lúc về qua bến Bồ Đề, quan trạng xuống ngựa đi bộ, một lúc tự dưng mất dạng. Có người dưới thuyền nói trông thấy quan trạng xuống sông, sông nước rẽ đôi, quan trạng thong dong bước vào dòng nước.

Không biết thực hư thế nào.