← Quay lại trang sách

HỒ BA BỂ (Chuyện cổ dân tộc Tày)

Xã Nam Mẫu ở cheo leo, khuất nẻo, mịt mù giữa hai dãy núi cao giáp giới Cao Bằng. Người qua vùng này phải lặn lội ròng rã cả phiên chợ chưa ra khỏi. Những làng xóm quanh co, nghèo xơ xác, quanh năm chỉ trông vào hạt ngô trên nương mà cũng không đủ ăn. Lại nữa, nơi hiểm hóc ấy là chỗ tụ bạ của những toán cướp đường. Hầu như bọn này quanh năm trộm cướp hoành hành khắp Cao Bằng xuống Thái Nguyên rồi trở về đây trú ngụ.

Chỉ bởi đất thủ hiểm này yên tĩnh lại hiểm trở quân quan triều đình không lọt vào được.

Đã thành lệ, mỗi năm, bắt đầu mùa hạ, khi những trận mưa rào như trút, người các làng xuống đồng vỡ đất bừa ruộng thì bọn cướp ở trong rừng ra, hội lại làm lễ cúng kỳ yên.

Cả vùng Nam Mẫu nghèo đói, bếp núc chẳng mấy khi ấm lửa. Các ông vua bếp, ông thần đất hàng năm lên thiên đình tâu với Ngọc toàn mắt thấy tai nghe những chuyện khổ sở, chẳng còn trông chờ vào đâu, nhà nào cũng chỉ muốn bỏ nương, bỏ núi, bỏ suối đi tìm đất mới.

Thế mà lại có bọn người ở đâu đến, của ăn, của vứt đi không hết, lại còn bày vẽ cầu cúng mong gặp vận may. Các vua đầu bếp lên trời trình với Ngọc Hoàng toàn những chuyện khác lạ không như mọi nhà trong xóm. Chủ nhà không ở yên, thoắt đến thoắt đi, cuối rừng đầu suối không biết mặt thần đất, bếp núc thì bừa bãi, đôi khi kéo bọn về, ăn uống túi bụi ít ngày rồi lại đi, đi đâu không biết.

Ngọc Hoàng đã cho các thần xuống tận nơi xem ra sao.

Từ sáng sớm, trên các bãi cỏ ven đồi, những tảng thịt trâu ninh trong bếp đã được quẳng ra giữa những tàu lá chuối. Người ta vác đến những ống vầu đựng rượu. Vừa sáng, ai cũng đã lại say là đà.

Một bà già ở dưới suối lên, tay chống gậy, áo chàm bạc, váy ướt lướt thướt như ngã xuống nước. Bà lão đi tới đám ăn uống giữa bãi, vật vờ không ra người hay con ma.

Bà lão cúi đầu, chắp tay:

– Các quan cho miếng cơm. Tôi đói lắm.

Có người mắt đỏ phừng, quắc mắt hỏi:

– Đói hả?

– Bẩm vâng.

Một tiếng cười ha hả:

– Đói thì bà già chết đi thôi!

Rồi cả bọn cười râm ran. Bà lão cứ van xin, mọi người cứ ào ào ăn uống, chẳng ai để mắt đến nữa.

Mấy người gác quanh đồi chạy đến cầm gậy hất bà lão đi. Bà lão lủi thủi ra bờ suối ngồi tựa tảng đá. Suốt buổi trưa, trong đồi vẫn chè chén ồn ào, bà lão đói quá, gục mặt xuống.

Đã xế chiếu, bà lão ăn mày lẩn thẩn đi vào trong xóm. Các nhà vắng, như bỏ hoang. Chưa ai ở rừng, ở nương về. Bà lão ngần ngừ chẳng biết nên vào nhà nào, mà cũng không biết nhà nào có người, có cái ăn. Nghĩ thế, bà lão lại ngồi xuống bên lối đi.

Có hai người vào trong xóm, không biết đi chợ hay ở trên nương về. Một bác đã có tuổi và một cô gái, dáng chừng hai mẹ con.

Trông thấy bà lão ăn mày ngồi ủ rũ, người mẹ đứng lại, ngoái tay sau lưng, nói:

– Bà có ăn sắn nướng thì về nhà với mẹ con tôi.

Rồi bác ta nhấc cái gậy, dắt bà lão đứng dậy.

Bà lão ăn mày hỏi:

– Có phải mẹ con nhà góa đấy không?

– Thưa phải.

Bà lão ăn mày đi theo.

Mẹ con nhà ấy đi nương mót được mấy củ sắn già. Bếp được khơi to lấy lửa sưởi và nướng sắn. Mẹ con lùi sắn, trò chuyện với bà lão, thân như ruột thịt.

Những củ sắn trựa, rắn như gỗ. Người mẹ bẻ cho bà lão những khúc sắn đã chín nục. Bà lão đói, hai hàm răng móm, nhai trệu trạo.

Bên kia suối, trên bãi cỏ, những bó đuốc cháy đùng đùng, sáng khắp. Vẫn la liệt những tàu lá chuối bày thịt trâu thui và vò rượu nghiêng ngả. Đám này đứng lên, đám khác đã tới. Hàng trăm con người nhộn nhịp lại đánh chén suốt đêm. Chốc chốc, tiếng hét, tiếng hú rùng rợn.

Xung quanh thung lũng bao bọc rừng và núi đá, trời đã xuống sương lành lạnh. Bác góa bảo bà lão ăn mày ngủ cạnh đống lửa sưởi cho đủ ấm cả đêm. Hai mẹ con vào nằm trong chân vách lều.

Bà lão ăn mày ngủ ngay, tiếng ngáy rờn rờn. Trời dần khuya, những tiếng cười sặc sụa ở đám rượu nghe xa xa như ở đâu. Bấy giờ đã sang canh. Đàn vạc đi ăn khuya ngoài suối bay qua, tiếng kêu rời rạc. Bác chủ nhà thức giấc như mỗi đêm. Thường mọi khi lúc ấy lửa bếp đã vạc, hơi ấm chỉ còn phảng phất trong đống tro tỏa ra.

Nhưng quái sao, bếp vẫn sáng rực, sáng hơn cả lúc chặp tối lửa đương đượm. Bác nhỏm lên, nhìn sang.

Cảnh tượng kỳ quái đến khủng khiếp. Một con thuồng luồng rừng rực ngoằn nghèo nằm giữa bếp. Đầu gối lên hòn đá tảng trên bếp, đuôi thuồng luồng đỏ chói vắt lên vách lều, thò cả ra ngoài mái.

Bác cúi xuống, lay con gái. Người con gái đã ngồi lên từ lúc nào, hai tay bíu gối mẹ, run cầm cập. Kinh hãi quá. Cũng không dám kêu cứu. Thuồng luồng mà thức dậy, thuồng luồng nuốt chửng hai mẹ con.

Nhưng thuồng luồng thần lửa vẫn ngáy rờn rợn, hệt tiếng ngáy bà lão ăn mày lúc chặp tối. Hai mẹ con chúi đầu ôm nhau, cũng không dám mở mắt, hai mắt nhắm tịt.

Đến một lúc nghe tiếng đàn vạc đi ăn đêm bay về qua. Thế là trời sắp sáng. Hai mẹ con ngẩng lên, mở choàng mắt. Nhìn sang bếp, không thấy thuồng luồng lửa đâu. Mà bà lão ăn mày đã ngồi dậy, ngồi chắp tay, miệng bà lão rì rầm như khấn khứa.

Hai mẹ con nhìn nhau. Có phải đêm qua chiêm bao, thực hư thế nào? Chưa kịp biết ra sao, bã lão đã cầm gậy bước tới trước mặt.

Bà lão ăn mày nói một câu mà hai mẹ con bác không hiểu.

– Chúng nó đi giết người cướp của, chúng nó lại cầu trời đất che chở. Trời nào cứu quân ác, quân ác phải chết đi cho trên thế gian được bình yên.

Bà lão ăn mày lấy trong túi áo ra một vốc hạt thóc. Bà lão bảo mẹ con ngồi cắn trắt, tách hạt gạo và vỏ trấu ra. Được một đống trấu và một nắm những hạt gạo.

Bà lão ăn mày nói:

– Hạt gạo và vỏ trấu là của quí, mẹ con giữ cẩn thận, rồi có việc cần đến. Cứ nhớ hôm nào mưa to gió lớn nước lên không đi đâu được thì mỗi hôm nhấm một hạt gạo sẽ no mười ngày. Còn vỏ trấu này đem thả xuống nước, vỏ trấu cứu ta.

Bà lão ăn mày chống gậy ra cửa lều. Trông theo, mất hút ngay bóng. Không biết người biến mất hay mây mù sáng sớm buông chùm trắng cả núi.

Nghe bên kia suối, tiếng trâu rống, tiếng rìu xả thịt cộp cộp, khói thui thịt, nướng thịt lại bốc lên trong ngọn lửa đỏ, lại sắp một ngày tơi bời ăn uống.

Hai mẹ con cứ nửa tin nửa ngờ sự lạ lùng đột ngột vừa đến. Nhưng cúi xuống, sờ thì thấy vốc vỏ trấu thật, hạt gạo thật. Mẹ con kể cho mấy nhà láng giềng câu chuyện kỳ quái. Ai cũng bảo đấy là nằm mê, vớ vẩn. Đến lúc cho xem đống hạt gạo và vỏ trấu, mọi người cũng cười cợt, chẳng tin, lại bảo mẹ con nhà này sắp hoá lẩn thẩn.

Đám cúng đám cỗ lại linh đình, huyên náo trên đồi như loạn rừng. Suốt đêm, trời mù mịt, đen thẫm tựa mặt đất. Sáng rồi mà vẫn tối như đêm. Bọn kẻ cướp say rượu ngủ lăn trên bãi, ngáy như sấm. Không ai biết cả vòm trời đen kịt đương ập xuống. Những tiếng chuyển động rầm rập, như cây đổ, tiếng đá lăn, tiếng nước réo khủng khiếp.

Một người trên bãi cỏ chợt mở mắt, chồm dậy, kêu to:

– Lũ ống! Lũ ống!

Những cột nước trắng xoá quét khắp thung lũng. Trong nháy mắt, trên đồi trôi ngổn ngang tất cà đàn tràng trống mõ, cả những con trâu đã mổ nằm trên giá thờ, lềnh bềnh mấy trăm con người ngoi ngóp khắp mặt nước.

Một con thuồng luồng đỏ như lửa vươn dài cả trăm trượng nhào vào giữa làn nước. Thuồng luồng lồng lộn dướn lên, lặn xuống, những vùng nước nổi sóng xoáy tròn lông lốc, đất đá lở ầm ầm. Trên làn nước cuồn cuộn lúc nãy còn nhấp nhô cọc lều, con trâu bơi hếch mũi, người chìm nghỉm, người bơi, chốc lát đã tan đâu hết, chỉ còn bọt nước nổi lều bều.

Sóng nước lan ra đuổi theo những con lũ ập tới sắp cuốn chìm nốt các xóm làng Nam Mẫu xuống vực. Tất cả lật đật chạy vào ven núi. Mẹ con bác goá nhìn ra vẫn thấy con thuồng luồng đỏ ngòm bay lên lượn xuống trong nước.

Hai mẹ con chắp tay, cúi đầu vái.

Thuồng luồng đảo một vòng rồi lặn mất.

Chỉ còn nước mênh mông.

Mẹ con lấy hai hạt gạo ra, mới ngậm ở đầu lưỡi đã ngửi thấy mùi cơm thơm. Lại thả nắm vỏ trấu xuống mặt nước. Mỗi mảnh vỏ trấu nở thành một cái thuyền độc mộc. Trông trước mặt, những người trong xóm bị ngập nước đã trèo lên cây, những đứa trẻ leo không được, đứa ngã xuống, đứa khóc thét.

Hai mẹ con bác goá đứng trên hai chiếc thuyền độc mộc, lao sào đẩy thuyền đi, kéo theo cả chục chiếc thuyền bơi đến từng lưng cây buộc thuyền lại. Thế là cả xóm không ai chết đuối, có người còn lôi được con trâu buộc vào đuôi thuyền.

Mỗi người được mẹ con bác goá đưa cho nhấm một hạt gạo. Thế mà ai cũng cảm như được ăn no.

Hôm sau, nước lũ ống đã rút sạch, để lại một vùng bùn đỏ ối. Những hang hốc và cả trong rừng sâu nơi bọn cướp trú ngụ chỉ thấy cát ngập, không một dấu vết con người.

Nơi thuồng luồng quần lên dìm chết hết bọn cướp bị hõm xuống thành những hồ nước, chỗ thuồng luồng lướt trên bùn cái đuôi kéo dài một vệt hoá ra con sông. Sau này, nơi ấy được gọi là sông Năng và hồ Ba Bể – bởi con hồ cách từng quãng núi đá như ba bể nước. Các bãi bồi quanh hồ và dọc sông đất tốt trồng đậu trồng ngô, ngô ở Ba Bể thơm và dẻo chẳng đâu bằng. Cá trắm suối Pé Vài chắc thịt được tiếng cá ngon nhất vùng. Các xóm xã Nam Mẫu trở nên sung túc, giàu có. Các nhà ở đấy ngày nay đều là con cháu đã bao nhiêu đời sinh cơ lập nghiệp nơi ấy, từ ngày con nước lũ ống nghìn năm trước.

Hồ Ba Bể thắng cảnh Việt Bắc bây giờ, ai đến cũng ngạc nhiên trông thấy mặt hồ man mác giữa những rặng núi cao. Thuyền độc mộc chở khách bên huyện Chợ Rã sang huyện Chợ Đồn, qua giữa lòng hồ trông thấy gò Giả Mải (gò Bà Goá). Người già nói nghe kể ngày xưa nhà mẹ con bác gái góa ở đấy.