- 3 -
Sông La Ngà là phụ lưu của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ Di Linh. Khi đến bán bình nguyên Gia Rai, sông chảy ngoằn ngoèo, tạo nên những cái hồ bán nguyệt rất đẹp mắt từ những khúc đoạt giang. Đồng xanh bát ngát, trù phú. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những khu trù mật Vỏ Xu, Vỏ Đắt dành cho những gia đình từ Trung Phần vào đây lập nghiệp. Nơi đây còn hoang dã. Có rất nhiều thú để săn bắn như nai, min… Voi đôi khi còn đi từng đàn. Cá dưới sông suối còn dẫy đầy. Gần quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy), có Biển Lạc rộng khoảng 5km2, có rất nhiều loại cá …
Xuân rít một hơi dài điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ lỏng le, rồi búng tàn ra xa. Đòan xe bắt đầu đi về Tân Phong, qua Suối Cát. Đến ngã ba Ông Đồn, quẹo trái. Ngọn núi Chứa Chan cao chễm chệ nằm sát đường. Bụi đỏ tung mịt trời. Xe sau hông nhìn thấy xe trước. Gia Ray kia rồi. Hậu cứ của Trung Đoàn 52 trên đồi Phượng Vĩ. Hàng năm Sư Đòan hành quân về vùng nầy khoảng đầu năm, lúc mùa gặt sắp tới, để bảo vệ dân thu lúa, hông cho VC về lấy.
Đại đội đóng quân cuối xã Vỏ Xu, sát những cánh đồng lúa đang ngã màu vàng. Chừng hai hôm sau, gia đình binh sĩ lục đục kéo tới. Họ lại căn lều, làm thành những cái thum nho nhỏ trong những đám chuối. Xuân nhận thấy đó là điều vô cùng nguy hiểm, nhưng làm sao bây giờ. Tiền lương của họ hông đủ để san ra làm đôi cho gia đình, bắt buộc họ phải sống như vậy.
– Chà! Sao mà nhiều đồ ăn quá vậy? Lại có mấy con cá chép nướng to tổ bố nữa.
– Bữa nay 30 rồi. Tất niên mà thẩm quyền hổng nhớ sao?
Thức ăn để một dọc dài trên những tàu lá chuối. Một góc tư nước đá, ba kết lade con cọp lớn ngã nghiêng ở góc chuối. Mấy người vợ lính lên tiếng mời Phùng Xuân. Mọi người bắt đầu. Lai rai ba sợi, tán dóc qua lại. Tiếng nói, cười vang dội. Rồi đến độ ngà ngà, cụng ca cộp cộp. Anh em vui vẻ. Ở cuối đầu kia, các bà lâu lâu cũng thêm vài câu nói tiếu lâm làm buổi tiệc thêm hào hứng. Mận và chị Hiền cũng xúm xít cười nói huyên thiên với mấy bà vợ lính.
Các chàng lính nhà ta hơi mềm môi, bắt đầu gõ chén gõ đũa vô gà men, ca hát vang trời. Đám quỷ sứ đó bắt đầu nói trây.Và rồi thì là rượu nói“Má ơi! con muốn lấy anh thợ bào.Còm lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu.Má ơi! Con muốn lấy chồng.Con ơi! Mẹ cũng một lòng như con” thì mấy bà la lên rần rần. Hông hiểu mấy bà có có thích hông mà Phùng Xuân thấy mấy bả cũng phụ họa thêm. Tội nghiệp, họ bị chê như vậy mà họ cũng ráng lết ra tới ngoài nầy để vui vẻ cùng chồng ba ngày Tết.
Xuân cảm thấy trong mỗi bàn tiệc nhậu của đám đàn ông lúc nào cũng nói đến chuyện trây trúa. Và bao giờ họ cũng lấy đề tài là mấy bà. Những chuyện tiếu lâm luôn luôn chê các bà thậm tệ, coi họ như con cái lúc nào cũng ham hố cái đó của con đực. Trong lúc đó, họ hông bao giờ nghĩ là họ xấu xa hơn, đụng đâu là bốc hốt tới đó. Vậy mà mấy bả cũng vui vẻ phụ họa cùng cánh đàn ông.
Xuân ngồi xếp bằng dưới đất quá lâu. Chàng thấy ê hai chơn. Chàng duỗi dài chơn trái.Vô tình, chơn này xé rách một vài miếng lá chuối khô.Một chồng giấy báo cũ lộ ra.Phía trong chồng báo cũ là một mớ giấy tờ lộn xộn. Chàng đưa mắt liếc coi. Có những thiệp đám cưới.” Sao thiệp báo tin đám cưới Yvette có ở đây? Lại có đến hai ba cái?”
Phùng Xuân cầm lên một cái thiệp in rất trang nhã. Xuân lẩm nhẩm đọc.Đầu óc chàng quay cuồng.
– Ai có mớ nhựt trình cũ nầy đây?
– Dạ. Của em Trung Úy.
– Làm sao chị có được những thiệp báo tin đám cưới nầy?
– Dạ. Nhà em vựa ve chai. Chắc mấy người mua lẻ họ đem đến. Có gì hông, Trung Úy?
Xuân hông trả lời. Chàng ngồi im, ngồi im thật lâu, hổng biết đến bao lâu. Cho đến khi Chúc nhắc đến phiên Xuân phải uống. Chàng cầm ca lên, thò vào nón sắt múc cho thật đầy rồi đưa lên ực mạnh một hơi hết sạch.
– Hết tua chưa? Mau mau đến phiên tui.
– Sắp hết lade rồi còn đâu đến Trung Úy.
– Mới bây giờ mà hết mậy! Sanh! Lên bà Tư Thiệt kêu thằng Lưu Anh xách một kết nữa.
– Bữa nay tất niên nên đại đội nào cũng lấy lade. Bả hết sạch rồi. Còn có đế hông hè!
– Chơi đế luôn!
Chúc quay nhìn Xuân. Hông dè mới hơn năm nay thôi mà Xuân thay đổi nhanh chóng. Thời thầy giáo hiền lành đạo mạo ở Tây Ninh đã qua rồi? Nó liếc một lần nữa. Có gì vậy Xuân? Có gì cậu thay đổi dữ vậy? Đâu có lẽ là đời lính tráng làm cậu khoác một cái áo khác?
Sanh xách hai xị đế về. Chỉ quay một vòng là muốn hết. Riêng phần Xuân uống hơn nửa xị. Rồi lại thêm hai xị nữa. Nhóm người ăn uống lần lần bớt đi. Chỉ còn lại Xuân, Thiếu Úy Thanh, Chúc. Cuối cùng là đế pha xá xị hông đá, đầy một nón sắt. Thiếu Úy Thanh e dè hơn, uống cầm chừng. Ông Thượng sĩ Danh Sơn, lúc đầu thì tố dữ lắm, bây giờ lẳng lặng rút lui đâu mất tiêu.
– Thanh! Mầy uống ít. Tối nay coi chừng đại đội dùm tao. Trung đội Nghĩa trực đêm nay, dặn Nghĩa cẩn thận mấy toán tiền đồn.
– Bây giờ cũng sắp giao thừa rồi. Sau giao thừa thì hưu chiến đó, Trung Úy.
– Tin VC là bán lúa giống.Nó phản thùng. Nó đột kích thì mình chết mẹ hết.
Xuân cầm ca lên, tự động múc liền ba ca rồi nốc một hơi hết sạch, hông còn một giọt nào. Cuối cùng, mọi người còn nghe một tiếng ót trơn tru. Chàng lật ca ngược xuống, lắc lắc một vài cái. Nhưng sau đó, Xuân gục mặt xuống, ụa ụa.
– Mừng! Coi chừng ổng say quá rồi mầy.
– Chưa say đâu anh Thanh! Tui say tui biết mà.
Nhưng rồi Xuân quay mặt qua bên, ụa lên một cái. Một vòi rồng nước đục đồ ăn lẫn rượu bắn tràn qua sau. Sau đó, là thêm hai ba hơi rồi chàng gục đầu xuống. Hông có một tiếng nói. Cõi không vắng lặng. Đầu óc quay cuồng. Thời gian ở đâu? Không gian ở đâu?.. Đêm đã khuya. Xuân mơ màng nghe văng vẳng: Yvette!Yvette!
Hình như có tiếng trách móc thì thầm bên tai.
– Uống gì mà uống dữ vậy hôn hè? Cho chó ăn chè. Í ẹ! Chua lè chua lét! Tanh ói! Dơ quần dơ áo hết chơn hết chọi!
Một cái khăn ướt đắp lên mặt Xuân, xoa xoa nhiều lần. Mát rười rượi. Đôi bàn tay mềm mại lật nghiêng Xuân qua lại, cổi áo dính đầy đồ ăn và rượu. Và rồi, từ từ tháo đôi giày ra. Và rồi, cái quần dài…
– Chèng đét ơi! Sao mà cứng ngắc cứng ngơ như khúc củi đước vậy nè chời!
Đôi tay đó khừng khựng, mần mân, về vê, tưng tiu…
Rồi cơn mưa dông bất ngờ ập xuống tới ta tới tấp. Nước tuôn chảy dầm đề, đẩy khúc củi ra suối, ra sông. Khúc củi bắt đầu phiêu lưu, leo lách trôi theo dòng suối nhỏ, va vào đá, đập vào cây. Rồi lên thác xuống ghềnh tuôn ra dòng sông lớn, đổ ào ra biển khơi, bập bềnh theo sóng vỗ…
Mái tóc dài ngào ngạt mùi lúa thơm phủ trùm lên mặt Xuân.Và hai tay mềm dịu trở nên cứng rắn nắm tóc chàng cà nghịt, cà nghịt như muốn bứt ra từng sợi…Yvette!Yvette!
Đêm ba mươi Tết. Trời tối như bưng. Giao thừa đã qua. Gà gáy canh hai…
Phùng Xuân mở bừng mắt ra. Trời đã bửng sáng. Đầu óc còn quay mòng mòng. Chàng nằm im một lúc. Xong ráng chống hai tay ngồi dậy. Chàng ngó qua ngó lại.Im lặng. Cái gì đã xảy ra đêm hôm qua? Thiệp báo tin mừng của Yvette. Uống rượu. Uống thật nhiều la de. Rồi đế. Đế pha xá xị. Mữa. Mữa. Mữa tới mật xanh luôn. Say hông còn biết trời trăng… Bộ quần áo dính đầy đồ ói tanh nằm kia. Ai đã thay chúng? Ai đã làm gì mình đêm qua? Da thịt Xuân còn ướt rít trịt. Ai? Ai? Xuân vụt đứng dậy. Chàng ngó quanh quất. Vắng teo. Đại đội đi đâu? Lều võng còn kia mà!..
Mừng chợt hiện ra, nhìn chàng. Nó cười cười.
– Đêm qua thẩm quyền say quá. Uống dữ à nhen. Hết lade rồi đế.
– Tôi uống nhiều lắm hả? Ủa. Sao ở đây im lặng quá vậy?
– Anh em trong nhà dân chúng đang hô dô dô, vui vẻ ăn Tết. Bữa nay mùng một mà Trung Úy.
– Đêm qua hổng có gì hả? Thằng Lanh có trực máy hay bỏ đi đâu rồi. Thiếu Úy Thanh có cắt một trung đội ứng chiến hôn?
Chàng đứng lên, vươn vai, bẻ người qua lại cho tỉnh táo. Xong xuôi đâu đó, chàng đi một vòng xem lại nơi đóng quân Đám nầy tụm ba tụm bảy đang cười nói um sùm bên xị đế và mấy con khô cá khoai nướng. Họ mời Xuân. Chàng lắc đầu từ chối. Đêm hôm qua xỉn quá rồi. Đám kia chùm nhum bên sòng bài cát tê hay xập xám chướng. Chàng biết vui ba ngày Tết, nhưng có anh em ra giêng sạch túi. Cấm cản cũng hông được. Mấy đại đội khác đều như vậy. Mấy bà vợ nhiều khi cũng có máu đỏ đen như chồng. Qua mùng ba, hết Tết, hết hưu chiến. Tất cả phải trở lại như cũ. Đêm đêm phải di chuyển chỗ ngủ, hết binh, hết tố. Hông còn cù lủ, đồng hoa, suốt, ba tây, bù, chín nút gì ráo trọi…
Cái lều của cô Mận hổng còn ở góc bụi chuối gần sát bên Xuân. Đồ đạc được tem tém.Buối ăn trưa chỉ còn hai thầy trò.
– Ủa! Cô Mận đâu rồi? Mừng.
– Nó với mấy bà vợ lính về quê ăn Tết. Họ theo xe đò đi từ khuya.Nó nói đi sớm về đến Cần Thơ cho khỏe, với lại gởi lời chào Trung Úy. Ra giêng, họ kêu công gặt rồi.
Xuân ngưng đũa, cầm chén cơm nghĩ đến chuyện đêm qua. Cô Mận chớ hổng ai trồng khoai đất nầy. Cô gái miệt vườn nầy ghê thiệt! Hông hiểu cổ để ý mình từ lúc nào. Cũng em em như Loan, Khanh, Vân. Các cô nầy nhiều khi vượt ra ngoài lề lối.
Nhưng hông như Yvette, còn nhiều ràng buộc của gia đình. Mình hông trách gì được Yvette. Cuộc tình giờ đây như hông còn nữa. Nàng đã lấy chồng Pháp. Nàng về bên tận thành phố Arles xa xăm. Ở đó có vùng Camargue. Khoảng năm 1939-1941, những người lính thợ Việt Nam bị Pháp mang sang để trồng lúa và làm muối. Yvette ơi! Em hãy ở đó đi, để em còn nhớ mùi thơm hương lúa và vị muối mặn chát đắng của Việt Nam. Hương thơm của lúa vẫn còn mùi ViệtNam đó em. Yvette ơi! Xa em rồi. Xa em mãi mãi. Chắc hông bao giờ gặp lại. Đúng thế. Chắc chắn hông bao giờ gặp lại. Ngày qua ngày, hành quân rồi lại hành quân, có thể anh thua trong cuộc chiến nầy và yên ngủ trong lòng đất lạnh mà em hông bao giờ hay biết! Rồi có khi nào Mỵ Nương nhỏ giọt nước mắt trong chén ngọc khóc Trương Chi hông em!
– Trung Úy! Ông ăn đi chớ. Xong rồi khoảng xế chiều qua bên nhà bà Sáu kế bên.
– Để làm gì mậy?
– Ậy. Thẩm quyền qua bên đó rồi biết.
Đủ thức ăn bày lộn xộn trên bộ ván. Một tô lớn cà ri gà. Một thau gỏi cây chuối hột trộn thịt gà. Một tô bún. Một dĩa bánh tét cắt khoanh tròn. Con cá lóc nướng vàng ươm. Một tô thịt kho tàu… Nhiều quá làm Xuân choáng ngộp. Ngày Tết sao mà ăn loạn xà ngầu vậy nè? Hoá ra sẳn dịp Tết nhứt, bà Sáu nói đãi lính Sư Đoàn. Lính Sư Đoàn mà ngon vậy hả? Đi đến đâu là dân tình cảm mến. Mới đóng quân mấy hôm, đứa con gái bả-Út Lâm-đã quấn quít bên chàng Trung sĩ Hơn ở Trung Đội 2 của Thanh. Chàng nầy trắng trẻo, đẹp trai, ăn nói nhỏ nhẹ, dáng vẻ thư sinh. Bà Sáu khen nó. Nó hiền lắm. Chàng lính học trò hớp hồn Út Lâm. Cô bé 16 tuổi, đang học lớp đệ Tứ, mơ mộng làm người yêu anh chiến sĩ miền xa!
– Tụi bây làm sao chớ kỳ nầy tao hông đứng ra làm chủ hôn nữa đâu nghen.Uống rượu hoài mệt lắm.
Chàng tự trách mình đêm qua uống quá chén.Trách nhiệm của người sĩ quan với gần một trăm sinh mạng hông phải là chuyện nhỏ. Còn gia đình họ, con cái họ. Gia đình của chàng là những người lính thân yêu sống chết với chàng. Chàng nên biết điều đó. Nên hôm nay Phùng Xuân chỉ đưa ly nhép môi cho có lệ, lấy cớ đêm qua, chàng uống quá nhiều nên còn mệt. Hơn nữa, ngày mai, đến phiên đại đội Xuân phải đi tuần tiểu đến những cánh đồng xa gần sông La Ngà…
Đại đội đi ven theo rừng chuối. Rồi dừng lại trong khu rừng cây rậm rạp. Gió mơn man những ngọn lúa vàng uốn ỏng ẹo vút tận bờ sông. Gié lúa rung rinh, lúc lắc vân vê hạt lúa. Những đàn chim lững lờ bay lượn về cuối rặng núi xa.
Buổi ăn trưa đầu năm của lính cũng hông có gì hơn thường ngày. Xuân nhìn đồ ăn đồng đội và nhìn lại của chàng. Hôm nay cũng cá khô nướng và cơm gui-gô. Chỉ toàn là món ăn rẻ tiền và dễ làm. Đã có hai người lính Thượng gốc ở Lộc Ninh chết vì khô cá nốc. Hông ai biết đây là loại cá có mật rất độc. Họ ăn vô rồi nằm ngủ ly bì cho đến xế chiều. Trung sĩ Can gọi họ thức dậy, nhưng đã trễ. Hai binh sĩ nghèo nàn, hông vợ con, chết trên đường tới nhà thương. Mừng cũng đã nhiều lần khoe khi còn ở Phước Lợi: cá nốc tươi xào ăn rất ngon. Hông hiểu chàng có ăn chưa và Mừng cũng hông bao giờ nói. Đóng quân ở những nơi như thế nầy, lính tráng tìm cái ăn cái uống dễ hơn. Đôi khi, chàng thấy họ bắt được những con cá chép lớn, con cá lóc có râu dài…
Còn ở Xuân Lộc hông được. Dân chúng nghèo nàn lắm, toàn là dân làm rẫy. Mọi thứ đều phải ra chợ. Riêng chàng, chàng lại muốn trở về. Mỗi buổi sáng đến quán BaTiều hay ra chợ ngồi nhâm nhi ly cà phê đen, hút vài điếu, thả khói mơ màng nhìn người qua lại; và nếu có may, gặp được người bạn cùng khóa để biết được thằng nào còn sống hay chết. Hoặc đến thăm chị Kim Sa, vợ của Liêm.
Mua báo đọc để biết tin tức Sè Gòn giờ ra sao? Sè Gòn giờ ra sao? Chỉ cách nhau có 90km mà sống ở đây chàng hông biết bây giờ nó thay đổi như thế nào. Dân chúng ở tỉnh lẻ sống bình thản quá. Hình như đời sống ở thủ đô hông ảnh hưởng tới họ? Ngày qua ngày, tiếng đại bác ầm ì, tiếng máy bay lên xuống rền vang, tiếng súng ì xèo, tiếng xe nhà binh chạy rầm rầm trong bột cát đỏ mù mịt như là nhịp thở của cư dân Xuân Lộc…
Đội trực thăng rời khỏi phi trường đầy bụi đỏ vần vũ, chập chờn như đàn chim, đảo qua đảo lại, lượn lên lượn xuống trên những đồn điền cao su bát ngát: Suối Tre, Dầu Giây, Cẩm Mỹ, Cẩm Đường… Những ngôi nhà ngói đỏ hiện ra chen lẫn với hồ bơi nước trong xanh, sân tennis và sân bay nhỏ. Mỗi đồn điền là một vương quốc khép kín. Các chủ nhơn liên lạc cả hai bên để sống yên lành. Tây đã về từ lâu nhưng Tây vẫn có sâm banh, sữa bò, phô mai Roquefort, Camembert…, Cognac, Whisky, Rhum… ăn uống phè phỡn đều đều giữa đám phu cạo mũ nghèo nàn. Và hơn nữa, họ còn sản sinh ra những đứa con lai đẹp đẽ. Nổi tiếng nhứt là những cô gái ở đồn điền Suối Tre.
Phùng Xuân ngồi bên hông trống trải, nhìn xuống những đám rẫy chung quanh Xuân Lộc. Từng cụm khói đen, trắng lan tỏa lên, là đà trên những đám chồi xanh. Trực thăng dần bổng lên cao, chen trong mây trắng, trắng tơ bồng bềnh. Rồi những con chim sắt thình lình uốn vòng hướng thẳng về Bình Tuy. Mịt mù nước biển trong xanh xa tít, tít mù mù. Chỉ còn tiếng ù ù của hai cánh quạt. Có phải mình bay lên cõi tiên rồi hôn, bình bồng trong mây nước vời vợi?… Rồi sau đó, phi đội quay ngắt trở lại, lần lần xuống thấp, bay gần sát là là đầu ngọn cây rừng. Trảng trống vụt hiện ra. Đàn chim chơm chớp ầm ì trên những đám cỏ tranh, sát cánh rừng của Mật khu Mây Tào. Binh sĩ ào tuôn ra, chạy nhanh vô trong những chùm cây rậm…
Trở về Xuân Lộc, Tiểu Đoàn ứng trực hành quân trực thăng vận. Thằng 1, 2, 3 thay phiên nhau nhảy môt ngày thì nghỉ hai ngày. Mục tiêu thường là chung quanh thị xã, trong tầm đạn yểm trợ của pháo binh 105, 155. Đôi khi lục soát được vài cái máy may, đôi khi vài chục bao gạo, thuốc tây… Đó là kết quả của đám gian thương tuồn hàng cho VC. Đến gần xế chiều, cha con lục tục kéo ra quốc lộ, lên GMC trở về…
Xuân cầm quyễn sách bỏ túi: Le Don paisible ( Sông Don êm đềm) của Mikhail Cholokov lật tới lật lui. Chàng đọc hông biết bao nhiêu lần trong những ngày ứng trực nhàn nhã. Thanh đã vù cái ù cho đúng 24 giờ phép. Nghĩa, bà xã và hai người khác tối ngày lo điều binh khiển tướng dưới bụi chuối. Còn Chúc cứ ngày nào trên cái bàn ọp ẹp của nó cũng có bình trà với một vài cái ly cũ đóng đáy màu vàng khè, nhâm nhi trọn buổi. Gần xế chiều, thế nào cũng có một chút đế hay rượu nếp than của Bà Tư Thiệt. Hông nhiều, chỉ một hai chung nhỏ.
Lương sĩ quan có năm, sáu ngàn một tháng, đừng nói chi đến lính, hông đủ để mua Black& White, Jim Bean, Johnnie Walker nhản đỏ, nhản đen… hay Martell, Courvoirsier đâu.(So ra Martell $600 hay $700 thì cũng hông mắc lắm.Mà mấy ông thần nầy uống thứ rượu ngon uổng tiền. Khi mà mềm môi rồi thì đâu có phân biệt được rượu ngon hay dở. Tới nước đó, ba cái đế nước nhì nước ba lạt nhách lạt nhơ mà tụi nó cũng uống nghe tron trót. Đệ tử lưu linh thì một hai chai Martell thấm tháp gì ).
Lương lính đâu phải xài có một mình. Thằng nào độc thân hoặc gia đình khá giả, rủng rỉnh “địa” còn đỡ. Thằng nào có vợ con, một cảnh hai quê thì mỗi tháng phải“ chai hia”. Có nhiều thằng còn khổ hơn, lớp nuôi vợ, nuôi con, còn phải nuôi cha mẹ. Nên“đi lính” thì đâu phải lo cho lính. Phần đông vợ ở nhà phải lo kiếm ăn thêm. Thành thử, nhiều khi đại đội như là một gánh hát nho nhỏ. Vợ con lính lẻo tẻo đeo theo để có thể sống đủ với đồng lương ít ỏi mấy ngàn một tháng.
Thằng Dẫu, ô đô của Chúc, là dân miền Tây, nên làm mồi giỏi lắm. Một hai trái cóc, vài miếng khô cá sặc trộn với mấy cọng bạc hà là cũng đủ đưa cay với một hai chiêu. Hai thầy trò khề khà rất lâu rồi mới tới cơm nước. Khi nào có mồi ngon thì Xuân cũng tới, ngồi vào cái ghế thấp, cà sịt cà sọt đóng bằng gỗ thông. Chúc, giờ đây coi bụi đời hơn Xuân nhiều. Nó ở gần thằng Dẫu riết rồi giọng Bắc kỳ của nó cũng có nhiều chữ r. Đôi khi rượu vào, chàng cũng nghe một vài tiếng địt mẹ và Chúc văng tục đủ thứ chuyện trời mây đất nước. Thời hai đứa là học trò, sinh viên và thầy giáo đạo mạo đã qua rồi. Cuộc sống nhà binh biến đổi Xuân và Chúc. Khi đụng trận, hai đứa cũng đụ mẹ, địt mẹ, đéo bà ỏm tỏi với đám lính đơ dèm cùi bắp mới tò te. Nếu hông, tụi nó nằm ì ra đó thì chết cả đám. Xong rồi, thầy trò vui vẻ cả làng.
Ngôn ngữ nhà binh là vậy. Có thằng nào lại hông chửi thề. Thằng nào hiền lắm như cục bột, rồi nhiều lúc ra trận cũng trở thành thằng ba gai, ba trợn, chửi thề tùm lum. Mà đâu phải ở lính mình đâu. Lâu lâu Xuân nghe mấy thằng Mẽo tụi nó cũng “Damn, shit, f..k” như thường. Có phải hở đi lính là như vậy hôn?
Thời làm trung đội trưởng, Xuân cảm thấy mình gần gủi với đám binh sĩ thân thuộc hơn. Bây giờ lên làm đại đội trưởng, chàng thấy có vẻ gì hơi xa cách, và thân tình cũng mất đi một chút. Đông con cái quá chàng hổng ngó ngàng hết được.
Trung Úy Trần Công Điềm, khóa 19, đại đội trưởng đại đội 3, mướn một căn nhà gần nơi đóng quân. Thỉnh thoảng anh Điềm và chị Liên mời Xuân ăn cơm. Bữa cơm có tô canh củ cải trắng và tép chín đỏ ngọt ngào do chị nấu bao giờ cũng ấm cúng tình thân gia đình. Chị Liên làm cho cơ quan Mỹ ở Xuân Lộc. Người chị nhỏ, lanh lợi, giọng nói nhỏ nhẹ. Ngôi nhà gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ. Những đôi giày MAP da đen bóng lưỡng do ô đô đánh bằng Kiwi nằm ngay ngắn bên góc tường. Thật là một mái ấm gia đình lý tưởng cho người lính xa nhà. Anh Điềm ít nói, ít cười, đạo mạo, có vẻ như kiểm soát ông thượng sĩ thường vụ đại đội chặt chẽ. Còn Xuân, mỗi tháng chàng cũng biết số gạo dư ra của lính đào ngũ. (Thượng sĩ thường vụ Dương Thông nghĩ Xuân hông biết?).Nhưng mà làm gì với số dư đó? Chàng thích ngủ bờ ngủ bụi, lây lất cùng những binh sĩ thân yêu hơn là, để hông được nhìn ánh trăng xuyên qua lá sầu riêng, lá cà phê hay tiếng mưa rơi lộp độp trên poncho, để hông có đươc tiếng chào mời thân yêu khi đi ngang qua độ nhậu đang xôm tụ: Lỳ lam ( Nói lái: Làm ly ) thẩm quyền! Đó có phải là một sự thiệt thòi hôn?
– Dạ thưa Trung Úy có thư. Cái thư nầy tôi vừa lên Tiểu Đoàn lấy về.
Bao thư đã cũ lắm rồi. Nhiều dòng chữ ghi nguệch ngoạc tùm lum lên đó. Nó đã chuyền đi qua ấy trạm quân bưu, từ KBC 4027 đến KBC 4511. Chắc Yvette hông biết Xuân ở nơi đâu nên gởi về trường. Nàng hy vọng là lá thơ sẽ đến tay chàng trước ngày đám cưới. Màu mực trên bao thơ cũng phai mờ.
Trung sĩ Trương Xuân Thu, thư ký đại đội, cầm lá thư nhăn nhúm, hơi ái ngại đưa cho Xuân. Tên người gởi vẫn chưa nhòa nhẹt. Hông phải Yvette Đỗ mà là Đỗ thị Đ… Sao kỳ lạ? Bao nhiêu tháng rồi.Tưởng chừng như lá thư hông bao giờ tới.Xuân cầm lá thư trên tay xoay qua xoay lại nhiều lần. Anh tìm dấu vết gì của em quanh bao thư nầy, hả em? Hông vội vàng, chàng lấy lưỡi lê rọc nhè nhẹ, rồi từ từ rút những tờ giấy ra…
Em ơi. Yvette Đỗ ơi!! Còn đâu nữa ngày chợt mưa chợt nắng làm ướt áo dài trắng em? Còn đâu nữa buổi trưa hè bên bến đò Bình Quới? Còn đâu nữa những ngày lang thang trên đường Tự Do? Còn đâu nữa những lúc hai đứa ở lỳ suốt ngày trong rạp Eden, chỉ xem có một phim? Còn đâu nữa những ly kem mát rượi? Còn đâu nữa? La vie en Rose? Mà em say mê giọng cao vút của Edith Piaf? Còn đâu nữa? Ngày hẹn sẽ trở về Mỹ Tho: Sao lại chỉ có mình mình? Còn con mình nữa chứ mình? Ôi! Còn đâu nữa? Còn đâu nữa?… Em ơi! Bây giờ thì chỉ còn có: Bóng hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao! (Kiều)…
– Thưa Trung Úy. Có Thiếu Úy Kha mới về trình diện Trung Úy.
Xuân đang nằm trên võng, vụt ngồi dậy. Người thanh niên hơi lớn tuổi hơn Xuân đang ở trước mặt chàng. Đầu đội nón sắt mới tinh, có lưới ngụy trang; quần áo cáo cạnh ủi hồ thẳng nếp; hai bông mai vàng sáng giới; giây ba chạc một bên có gắn đèn pin màu cứt ngựa, một bên có địa bàn Lensatic bỏ trong bao; giây TAB đeo hơi lỏng, trễ tràng cây Colt 12 xề xệ hơi giống hình ảnh chàng cao bồi mỹ mà Xuân đã coi từ lúc bé (chỉ khác là khẩu Rouleau), Thiếu Úy Kha đứng nghiêm chào, trình diện rồi bỏ tay xuống. Xuân nhìn vào sự vụ lịnh: Ngô Kha. Có phải Ngô Kha của vụ biến động miền Trung hông mà chàng đã từng biết tên qua báo chí? Sao lại lưu lạc đến tận nơi nầy?
Ngô Kha cũng là một cây đánh tứ sắc. Hoằng, khạp, đôi, lúc nào cũng có đều đều trên tay nó. Nó tới hoài. Hai vợ chồng Chuẩn Úy Nghĩa bứt từ chến nầy đến chến khác. Anh chàng lại có món ớt xào kiểu huế cay điếc con ráy. Mỗi lần ăn cơm là vít ra một miếng dèo dẽo hòa vô nước mắm. Trong đại đội hông có người gốc Huế, nhưng lần hồi, Ngô Kha cũng sống vui vẻ với anh em.Cũng treo võng tèng tèng dưới poncho.
Vậy chớ còn đỡ hơn Chuẩn úy Nghĩa. Hai vợ chồng luôn luôn ăn chay nằm đất. Mà có nằm giường thì kiếm đâu ra. Còn nằm ghế bố xếp nhà binh nhỏ tí tẹo, hẹp té làm sao đủ cho hai người. Phải bỏ tiền túi ra mua ghế bố chớ. Thiếu úy Thanh ngạo: “ nè hai ông bà có ngủ ghế bố thì nhè nhẹ thôi nhen, mạnh quá gãy chơn hết à nghen! ”. Tới phiên vợ Thiếu Úy Thanh ra thăm chồng nhơn dịp bãi trường, ở mươi ngày, thì cũng phải hạ thổ. Bà vợ Chuẩn Úy Nghĩa ghẹo lại: “ Kỳ nầy bà thế nào cũng có bầu. Ra thăm chồng mà cứ ăn chay nằm đất, Trời Phật chứng giám cho bà có con trai! ”
Ở một thời gian, thấm đời nhà binh, nụ cười Ngô Kha hông còn có vẻ khinh khỉnh ngạo mạn nữa.Nhưng bộ dạng vẫn vậy: cà xàng cà xàng. Giọng huế của Ngô Kha cũng giống các bạn thời 60 làm báo Thế kỷ Hai Mươi như Linh Vũ, Trường Dzạ.
– Giọng nói khó nghe quá. Mới đầu tui cứ ư ư hả hả với ảnh hoài. Cái gì mà ngụy chưa tề, ốt dột? Tui hổng hiểu gì ráo!
– Chị Nghĩa.Chị hông biết chớ giọng huế là giọng cổ xưa, còn rặc ròi của tiếng Việt. Chớ giọng Bắc thì lai Tàu Quảng Đông và Nam như mình đây thì lai Miên, lai Thái… một ít rồi. Giọng cô gái huế trầm bổng nghe ví von lắm đó chị!
Chỉ có anh chàng Chúc Bắc kỳ là còn hầm hừ hậm hực như chó giành xương. Rượu vào lời ra.Nó nói phang ngang bữa củi, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” (Kiều).Nó cứ nói Ngô Kha là người đâm sau lưng chiến sĩ.Trong lúc ở ngoài đơn vị lo chống giữ VC thì hậu phương kết bè kết đảng, nay ủng hộ người nầy, mốt lo ủng hộ người khác tranh giành quyền lợi, địa vị cá nhân. Họ làm cho hậu phưong rối tung lên. Tranh đấu cái gì? Tranh đấu để tiêu diệt lẫn nhau thì đâu phải vì quyền lợi quốc gia, đâu phải để cho dân tộc được trường tồn. Đó là những nhóm người ích kỷ, chỉ thỏa mãn tham vọng cá nhân. Trí thức cái gì? Trí thức mà còn ngu muội, bị mấy thằng VC nó xí gạt. Rốt cuộc thì cũng tàn đời luôn.
– Thôi mầy ơi. Chắc nó cũng bị đì dữ lắm rồi mới ra tới đây đó.
– Mông sừ nầy chơi không được. Cho lủy đụng mấy trận để lủy biết thế nào là gian khổ của lính.
– Sao hôm nay đột nhiên mầy sổ tiếng tây bồi vậy? Thì cũng sắp sửa hành quân rồi đây. Chiều nay tao có lịnh lên Tiểu đoàn họp. Bây giờ, ba thằng con có đầy đủ hết rồi, nên lủy làm đại đội phó, đi theo kè bên tao. Dù sao nó cũng là từng là thầy giáo như tụi mình, còn cà ngơ cà ngáo trận mạc lắm, đẩy nó ra tận cùng thì rủi nó chết cũng tội nghiệp. Mầy cũng nên chuẩn bị đi. Chắc kỳ nầy lủi vô rừng lâu đó.
– Tớ cam đoan với cậu là lủy không ở với mình lâu đâu. Cái phe Phật giáo lúc rày mạnh thế lắm đó, khuynh đảo đủ thứ chuyện. Ít hôm rồi họ cũng móc xừ lủy về cho mà xem!
Vì là hành quân lớn, chuẩn bị rầm rầm rồ rộ, nên có thể kế hoạch hành quân bị lộ hay bị nội tuyến(?). Cũng may là ngày hôm đó, hông hiểu sao Trung đoàn 11 kỵ binh Hoa Kỳ (đóng quân ở Black Horse, Hàng Gòn) lại tiến lên trước, chớ nếu hông thì hổng hiểu Tiểu Đoàn 3/43 đang di chuyển bằng xe có còn nguyên vẹn hôn?
VC đã độn thổ phục kích trên một đoạn đường dài khoảng hơn một cây số từ cuối ấp Bảo Vinh đến Suối Cát. Vài M113 và M41 bị đốt cháy. Thiệt hại hai bên đều đáng kể. Sau nhiều giờ Cobra quần thảo, chiến trường tạm yên. Xuân còn nhìn thấy những chiến binh VC ngụy trang đầy rơm bị chết cháy đen, có khi xác hông còn nguyên vẹn, còn nằm rải rác hai bên đường, bên miệng hố, và những người lính Mỹ còn gục trên pháo tháp M41 và bên hông M113. Có lẽ nhìn thấy lần đầu nên Ngô Kha hơi nhăn mặt. Chiến tranh có tàn ác hôn? Tại sao những người lính Mỹ bỏ mạng nơi xứ người xa lạ và những binh sĩ VC bị bùa mê thuốc lú nằm bên nhau? Bạn cũng hên đó Ngô Kha! Nếu hông, Tiểu Đoàn đi đầu ngày hôm nay thì có thể bạn đã phơi xác dưới tay các đồng chí của bạn?
– Tụi mình chui vào rừng mấy hôm rồi?
– Hôm nay là bảy ngày.
– Vậy mà không thấy bóng dáng VC nào hết. Lội trong rừng ba ngày bị muỗi đốt, vắt cắn, khát nước.
– Cũng may cho mình. Có thể thằng 275 bị bể rồi khi đụng với Trung đoàn 11 kỵ binh Hoa Kỳ. Chắc nó rút đi xa, ngoài tầm pháo binh. Mầy đừng than. Còn tiếp tế dài dài, thêm nhiều đợt ba ngày nữa để lùng sục Mật Khu Mây Tào nầy. Tội nghiệp Ngô Kha. Chắc lầu đầu tiên nó lội rừng nên hông biết gì hết. Hôm trước có dặn phải đổi bông mai đen và đừng đeo ở hai bên cổ áo. Chỉ cần một bông mai đen gắn ở trước ngực là đủ rồi.
– Cậu có dặn ô đô chỉ cho nó cách mắc võng, căng poncho, quét sạch chung quanh chỗ ngủ để rắn rít không bò vô….
– Cái đó hông cần. Thằng tà lọt nầy lính cũ. Nó rành mấy vụ nầy. Dạo nầy, lính đào ngũ khá nhiều. Về 10 thằng thì đào ngũ hết 5, 6. Riết rồi, toàn thứ sút tay gãy cán, hổng đánh đấm gì được.
Thằng Ca, lính đơ dèm cùi bắp, hông trung đội nào chịu chứa. Nó là thằng ghiền mà hông hiểu sao phòng tuyển mộ lại nhận. Mỗi lần nó lên cơn là bày ống chích nhựa và kim cũ xì, dơ dáy ra. Nó lấy lon sữa bò rỉ sét, bỏ cục gì màu đen vô, đổ chút xíu nước, hơ đèn cầy, nấu cho sôi lên. Xong nó lấy ống chích hút vào độ 5cc. Rồi nó lấy ngón tay trỏ xoa xoa nơi cánh tay nổi u nần đầy gân xanh. Chỉ cần một tay thôi, nó cầm ống chích lanh lẹ bơm vào mạch máu.Thế là, a lê hấp, nó đứng dậy, vươn vai, lấy hai bàn tay chà chà cùng khắp mình mẫy ra vẻ sảng khoái. Bây giờ ai kêu nó làm cái gì nó cũng làm. Khổ hơn nữa là bà vợ lại cũng ghiền như nó. Mỗi ngày hai vợ chồng phải có đều hai cử như vậy, nếu hông, bọn họ ngồi cú rủ như hai con gà nuốt dây thun. Như thế thì làm sao mà đi đánh giặc được?
– Ngày hôm nay, tớ thấy nó “ngã bàn đèn” dọc đường. Ai đi qua cũng mặc kệ. Chừng xong rồi, nó ôm súng, vọt lên trước, tuôn bờ tuôn bụi ào ào, bất kể gai góc… Rủi đụng trận mà nó đang lên cơn như vậy thì chết cũng tội nghiệp.
– Tao biết làm sao bây giờ, hả Chúc? Mầy với tao thực ra còn biết Cộng Sản một chút ít qua sự tìm tòi riêng ở sách vở. Nhà trường thì chỉ có những giờ Công Dân Giáo Dục. Còn đám lính mình có hiểu rõ gì đâu? Khi mầy ở Thủ Đức, có giờ học về chánh trị. Có ai trình bày cho mày rõ ràng về sự nguy hiểm của chủ nghĩa Cọng Sản hôn?…
Chúc im lặng, lấy ra điếu thuốc quăn queo, ngửi ngửi. Trăng đã lên gần khỏi ngọn cây. Ánh sáng nhợt nhờ xuyên qua kẽ lá chập chờn rung theo cơn gió nhẹ. Nhiều cây cao nghều nghệu, thẳng tắp hình như những người khổng lồ vươn tay nắm lấy mặt trăng. Những cây thấp nằm lũng la lũng lẵng im lìm như ngủ say trong đêm ngà vắng lặng.
Đêm dần khuya. Hai đứa ngồi trên nón sắt gần bên nhau. Xuân thò tay vào túi, lấy bao thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ xẹp lép ra, để vào lòng bàn tay, phà một hơi dài cho ấm, đưa lên mũi, hít một hơi thật đầy lồng ngực. Mùi thuốc thơm nhè nhẹ len rần rần vào phổi làm cho chàng tỉnh người. Đêm khuya. Rừng âm u, bí hiểm say ngủ như chết. Thỉnh thoảng có tiếng tắc kè vang lên một hồi gần nơi đóng quân. Rồi, sau đó, từ xa xa, tiếng vượn hú đêm một hơi dài.
– Mình ở trong rừng sâu lâu quá. Gần hai tuần rồi. Thằng Nghĩa ngày hôm qua nó nói với tớ nó bắn máy bay ướt quần hết trơn.
– Nó có vợ đeo nó như đĩa mà còn vậy.
– Cậu đừng có cười. Khuya thức dậy, tớ đi đái xong rồi, mà nó còn không chịu xìu, cứ ngổng lên hoài.
– Thôi đi cha nội, ráng mà chịu. Ai lại hông như vậy… Thôi đi ngủ đi. Ngày mai, thằng Thanh đi đầu…
Đại đội đi khỏi nơi đóng quân khoảng ba tiếng. Có tiếng súng nổ dồn dập và tiếng hô xung phong vang rền. Xuân cùng hai người lính mang máy và Ni, Lang tuôn, vẹt cây đi nhanh lên trước, đến trung đội của Thanh. Tiếng súng vẫn còn nổ dòn và tiếng la hét vang dội kêu các người dưới hầm lên mau.
– Còn mấy người dưới hầm hông chịu lên Trung Úy.Hình tiếng đàn bà con gái hông hà. Lúc tụi tui chạm súng, họ có chống trả lại sơ sài, bắn vài ba phát đạn rồi rút xuống hầm.
– Anh có cho lục soát và bố trí chung quanh đây hết chưa? Để tui cho thằng Nghĩa lên phía bên trái phụ anh.
– Còn mấy người dưới hầm. Tôi nghe tiếng chí chóe, hình như tiếng con gái nhiều hơn. Kêu mỏi miệng rồi mà họ hông chịu lên. Hình như có một người bị thương.
– Dễ mà.Anh cho kêu ít lần nữa đi. Anh hăm hổng lên là ton lựu đạn xuống. Mà khoan, mình hăm vậy thôi chớ ton lựu đạn xuống là họ chết hết. Anh có lựu đạn khói hông? La hét cho dữ nó, rồi bắn ít phát bên ngoài. Hổng được rồi anh hãy cho tụi nó ton lựu đạn khói xuống.
Làn khói phủ trùm miệng hầm. Nhóm người dưới hầm lần lượt ngoi lên lóc nhóc như cá kèo trong bùn non. Ai nấy đều ho sặc sụa. Toàn là các cô gái trẻ bân, mặc đồ bà ba. Thanh cho gom cả đám lại, bắt để hai tay lên đầu. Mặt cô nào cô nấy xanh như tàu lá chuối. Một cô mạnh dạn la lên: còn một cô dưới hầm bị thương nặng ở chơn. Thanh nghĩ chắc có thể là cô du kích, chống cự lúc chạm súng đầu tiên.
Màn khói vừa tan. Cô gái cuối cùng lóc lách như cá rô, lên vừa khỏi miệng hầm. Một người lính nhanh tay bước tới tước lấy khẩu AK. Cô bộ đội áo quần sốc sết, đầu tóc rối nùi, hông bò nổi nữa, nằm bệt ngay ra đó. Hai người lính kéo cô ta lên. Dòng máu đỏ tươi rỉ ra ướt bắp đùi.Xuân cho y tá đại đội lên băng bó.
Các cô gái nhìn đồng đội của họ bị thương nằm im lìm. Họ tỏ vẻ lo sợ. Đám binh sĩ đột nhiên đi qua đi lại nhìn chầm chập vào bầy con gái. Đầu tiên, Xuân hông để ý, nhưng cuối cùng chàng nhận ra có một cô mặc áo bà ba đen đứng trên hàng đầu. Áo cô ta bị bung ra, tuột ba nút. Cái vú hơi lớn có núm hồng nhô ra nơi làn da ngực trắng ngà nõn nà. Hèn gì mà tụi nó…
– Tự nảy giờ anh hổng thấy gì hả anh Thanh?
– Hông. Tui đang lo cho cô gái bị thương.
– Đám lính của anh ngó chăm hẳm vô ngực cô gái bận bộ bà đen kia kìa.
Chắc cô gái hổng biết. Xuân bước tới, kêu cô ta bỏ hai tay xuống, gài ba nút áo lại.Và, chợt nhận ra, hai má cổ đỏ bừng bừng.
– Giống đực người khi nào thấy vú mớm cũng trở thành trẻ con đòi mân mê và bú vú mẹ. Hơn nữa lính mình ở trong rừng gần hơn mười ngày rồi Trung Úy.
– Cho nên tui sợ đám đực rựa mình làm ẩu. Mình ngừa vậy thôi, chớ mấy thằng cốt đột đó biết chỗ tụi nó quậy. Có khám mấy cô đó chưa?
– Có đứa nào dám khám đâu thẩm quyền?Chỉ có Trung sĩ Nhẫn làm bộ gan gan, tới sờ sờ sau lưng và bóp bóp bắp chuối mấy cái. Mấy cổ đã la oai oái rồi. Tui nghĩ đây là mấy đứa con gái cạo mũ ở vùng đồn điền Cẩm Mỹ, Cẩm Đường. Phải có nữ quân nhơn mới mò tới sú chiêng và xì líp mấy cổ coi có giấu gì trong đó hông, chớ có thằng đực rựa nào rớ tới được!
– Thôi, cho tụi nó lấy mấy cuộn vải xé ra trói mấy cổ rồi chút nữa giao cho Tiểu Đoàn. Có lịnh trên rồi. Tuôn mấy bao gạo đổ hết đi. Luôn thuốc tây nữa. Toàn là đồ của mấy gian thương Long Khánh bán cho họ hông đó, chớ ai đâu.
– Còn cô bị thương sao, thẩm quyền? Cô ta bị thương hơi nặng. Có tải thương được hông?
– Tôi báo lên Tiểu Đòan rồi. Chỗ nầy là rừng già. Cây cao to cồ. Trực thăng hông đáp được. Hông biết làm sao. Để lâu chắc hư chưn. Tiểu đoàn có cho trợ y lên chăm sóc thêm. Bây giờ cổ nằm im hổng rên nữa.
Ít lâu sau, hai người cố vấn Mỹ lên đến chỗ Xuân. Tiểu đoàn báo là họ sẽ cố gắng xin trực thăng tải thương. Khoảng một giờ sau, một chiếc trực thăng bay đến, nhưng bay vòng vòng hoài gần mười phút. Rừng già, nhiều cây cổ thụ quá rậm rạp. Họ đã thả mấy trái khói màu rồi mà trực thăng hông tìm ra được. Cuối cùng, họ bắn một trái sáng. Trực thăng bù cắt ( bù cắt hay bồ cắt: môt loại chim giống như ó, diều hâu… thường hay chớp chớp hai cánh bay một chỗ rất lâu trên đồng ruộng ở miền Nam khi săn mồi.) trên ngọn cây, thòng xuống một cái ghế ngồi. Người Mỹ ẳm cô gái đặt lên ghế, buộc dây cho chắc. Cô gái từ từ được rút lên cao. Các bạn của cô ta ngạc nhiên nhìn hai chàng mũi lõ mắt xanh. Họ có biết ơn và hiểu thế nào là lòng vị tha của những kẻ đang đối đầu với họ hôn?
Ngô Kha lên vừa đúng lúc y tá băng bó cô bộ đội. Nó ngạc nhiên đứng nhìn những cử chỉ lanh lẹ và sốt sắng của người lính cứu thương. Rồi, nó quay lại nhìn những cô gái đang ngồi xổm hai tay trói thúc ké. Nó đưa mắt nhìn Xuân như ngầm nói lên điều gì đó mà nó hông ngờ có thể xảy ra được. Khi người Mỹ ân cần bồng ẳm cô gái để lên ghế, Ngô Kha càng ngạc nhiên hơn nữa. Thang dây cuốn cô gái từ từ lên cao. Ngô Kha ngước nhìn theo. Gương mặt nó đăm chiêu. Xuân hổng biết có một sự thay đổi nào hông về cách nhìn của nó đối với người lính quốc gia và những người lính nước ngoài tham chiến ở Việt Nam hông?
Khi đại đội vừa giao xong các cô gái cho Tiểu đoàn thì trời bỗng nhiên tối sầm lại. Sấm chớp nổi lên. Cơn mưa lớn bất thình lình đổ ập xuống. Mỗi người trùm lên một cái poncho lầm lũi tuôn vẹt rừng cây đi âm thầm trong tiếng mưa rơi lộp độp. Chẳng ai nói với ai một lời. Mưa vẫn rơi. Màu nước đục trắng xóa xen trong lá cây. Tiếng mưa ào ào vang lên cùng tiếng gió lộng giống như tiếng thác đổ.
Thanh nhìn những người lính trùm poncho mang trên lưng ba lô nặng nề đi như những người gù. Trong những ba lô đó chứa đủ thứ vật dụng cho những cuộc hành quân dài ngày. Lại còn cái ruột tượng đựng gạo vắt ngang trên vai. Ô đô của chàng còn vất vả hơn với phần ăn hai người. Trong ba lô của Thanh chỉ có một cái poncho, một cái võng nylon, một bộ quần áo và một đôi vớ sạch để thay ngủ trong đêm (còn ban ngày bận lại bộ đồ dơ đi tiếp), một cuốn sổ nhỏ để ghi chép, một lọ thuốc muối, một bình Calamin thoa cho khô chơn, một bình nhỏ thuốc trừ muỗi và vắt. Đầu tiên, Thanh sợ những con vắt tí hon nầy. Chúng nhỏ hơn con đỉa, sống vật vờ trên cành lá. Chúng búng vào lỗ tai, chui vào quần áo len lỏi đến tận nách, háng mà mình hông biết. Cho đến khi cảm thấy ngứa, thò tay vào, đụng một cục nhầy nhớt bằng ngón cái, bốc đem ra mới biết là con vắt hút đầy máu. Vết cắn của con vắt cũng độc như con mòng, nhiều khi làm thành một lỗ sâu nhầy nhụa, phải chữa trị một thời gian dài mới hết.
Mưa càng ngày càng lớn. Những người lính mang trên lưng ba lô nặng nề và súng đạn cộc kệch. Họ di chuyển càng khó khăn và chậm lại. Đường trơn trợt. Thanh cố gắng đi gần lên đầu để dễ quan sát và hướng dẫn đi đúng hướng.
Tiếng súng nổ dòn vang lên. Hình như AK nhiều hơn. Xuân giựt mình chợt nghĩ chắc trung đội của Thanh đã lọt sâu vào căn cứ địch. Chắc do trời mưa mù mịt, lính mình trùm kín poncho hông quan sát được rõ ràng.
– Báo cho thằng 2 biết là có thằng 3 đang lên ở phía trái của nó. Anh Kha, anh đừng nằm xuống. Nằm xuống anh hổng thấy gì đâu, hơn nữa lính nó chê anh nhát. Anh cứ đứng như tui đây. Đạn đang đi hơi thấp mà. Anh nằm, đạn trúng đầu anh. Súng đạn ở chiến trận nó hông chừa ai đâu. Anh cứ từ từ theo tôi. Anh hổng né được đạn đâu, chỉ có đạn nó né anh thôi.
– Trung Úy!
– Gì đó anh Kha? Anh đừng nằm nữa. Tiếng đạn kêu chíu chíu là nó đi lên cao lắm đó. Còn chừng nào anh nghe nó sẹt sẹt là nó đi thấp trong rừng cây. Mà anh đừng sợ. Gần 30 lính chết mới có một sĩ quan chết. Từ đầu năm tới giờ mình chưa có người lính nào chết mà. Vậy là chưa tới phiên anh và tui đâu!
Xuân nói vậy chớ chàng thấy tay chơn Kha cũng rung bây bẩy làm tấm bản đồ cũng rung theo, môi lập cà lập cập và mặt xanh lét như tàu lá. Nó cố gắng đi càng sát Xuân càng tốt, làm như chàng là bùa hộ mệnh, có lá chắn cho Kha.
Garant M1, carbin M1, Thompson và trung liên nổ cũng dòn tan, nhưng hông bì được AK nổ chát chúa hơn. Lại thêm B40, B41 lấn át M79. Khói bay mù mịt hoà lẫn trong màn mưa đục ngầu. Thằng 2 bữa nay cũng lì đòn, càng ngày càng bắn rát và dữ dội. Nhiều tiếng lựu đạn M26 nổ đùng đùng. Thanh đang hò hét, thúc anh em hung lắm. Hổng hiểu có chuyện gì đây. Xuân lên bên Thanh. Chàng cho toán trinh sát của Ni, Lang tiến sát trung đội Thanh.
Đôi khi Xuân bực bội với trung đội vũ khí nặng. Cây đại liên 30 khó bề xoay trở. Một người mang nòng. Một người xách càng đi theo. Một nhóm kè kè các thùng đạn lề mề, lúp xúp bám đít. Lắm lúc hay kẹt đạn. Có bắn được gì nhiều để uy hiếp địch. Lại còn cối 60 ly. Nhiều khi hông làm được việc gì. Cũng lại một người vác nòng, một người ôm chân đế, môt nhóm đeo khoảng chục trái đạn. Trong rừng già nầy, đại liên 30 và cối 60 hông hữu dụng bằng trung liên gọn nhẹ. Hạ sĩ A trẻ, to con cốt sì tô coi toán đại liên và ông hạ sĩ già Hanh điếc ù ù cạc cạc coi toán cối 60. Họ làm cho Xuân bối rối. Rừng cây dày đặc. Súng cối bắn đi đâu? Ôi! Súng đạn cổ lổ sĩ thời đệ nhị thế chiến, trang bị cho người lính thân yêu của tôi, cũng như là trói tay họ trong cuộc chiến kỳ quái nầy!
Nhờ thằng 3, trung đội Thanh đã cố gắng tràn lên chiếm được hai hầm, lấy được xác của Ơ và dìu trung sĩ Hơn rồi rút về. Mưa nhiều quá.Trời chiều. Rừng già tối thui. Pháo binh bắt đầu TOT ( Time on Target ). Rừng cây rung động, đổ cành lá ào ào…
Đại đội lui về, bố trí lại, cho canh gác cẩn thận, nghỉ qua đêm. Thằng Ơ và trung sĩ Hơn nằm sát bên Xuân, chung quanh là những thân cây ngã. Mọi người có vẻ mệt mỏi sau cơn mưa tầm tã vì hông ăn được cơm chiều.Quần áo ai nấy cũng đều ướt nhèm nhẹp. Hông căn được lều. Hông mắc được võng. Hông củi lửa. Thằng Sanh chuyền cho Xuân một ít mì vụn nhưng chàng trả lại, đổi lấy bịt gạo xấy ta. Gạo xấy mỹ lạt nhách, ăn như bã mía. Hông có nước nên hông thể ăn mì vụn mặn. Xuân lấy tay nhón một nhúm gạo xấy dòn rụm bỏ vô miệng. Chàng đợi một lúc lâu cho gạo thấm nước miếng mềm đi rồi chắp chắp một vài cái và nuốt. Hổng có mùi. Chỉ có vị hơi đăng đắng nơi cổ họng khô nước. Mình như vầy thì hông hiểu mấy thằng lính của mình như thế nào? Chàng nhổm dậy, rón rén đi lần qua Nghĩa. Tụi lính thằng nào thằng nấy nằm xui cò gối đầu lên ba lô, miệng nhóm nhép. Chắc chúng cũng đang gậm gạo xấy. Đêm nay hông đèn đóm. Hông căng poncho. Hông võng. Mặc sức cho muỗi cắn, cho vắt búng.
Ngô Kha cầm bịch gạo. Nó hông biết làm gì, trở qua trở lại. Xuân thấy nó có vẻ thẩn thờ. Có sự chuyển biến trong đầu của nó? Từ hồi Kha về đại đội đến giờ, anh em tránh hông bao giờ tranh luận với nó về vụ biến động miền Trung, về cuộc chiến Quốc Cộng đang xảy ra, về lòng yêu nước. Xuân biết nếu có tranh luận xảy ra thì thế nào cũng mất lòng anh em với nhau. Người Việt hay tự ái, hay tranh hơn thua và ít khi chịu hòa đồng.
– Anh ăn đi. Đêm nay hông có củi lửa đâu. Nhai mấy nhúm cho đỡ đói. Đừng ăn nhiều quá. Mình hông có nước. Ráng qua đêm.
Trái sáng pháo binh thỉnh thoảng nổ bụp. Vùng sáng lung linh làm bóng cây rừng ngã nghiêng như bóng ma quỉ quái múa may nơi địa ngục. Rồi đột nhiên màn đêm trở lại.
Người lính chiến chết nơi trận địa thật dễ dàng. Thằng Ơ và vợ xin 48 giờ phép về Phước Lợi thăm gia đình. Chưa hết phép đã thấy hai vợ chồng lót tót lên.
– Ơ, sao mầy lên sớm vậy? Chưa hết phép mà.
– Dạ. Ông già vợ ổng hối đi. Ở đây tụi bây cũng đâu có làm gì. Đừng để trễ phép Trung Úy phạt. Con vợ tui nó khoái ở đây hơn, có chị em trong đại đội nó được nói chuyện suốt ngày. Hơn nữa, ở đây gần nhà thương.
Con Tím mang cái bụng chình ình mà hông chịu về dưới chờ ngày đẻ, cứ quấn quít bên thằng Ơ hoài. Tối ngày Tím xề qua xề lại với các bà vợ lính để mặc thằng Ơ lo đi chợ, cơm nước cho nó. Hôm sắp sửa hành quân, Thiếu Úy Thanh dặn thằng Ơ là phải ở nhà vì nó chưa hết hạn phép, nhưng nó cứ nằng nặc đòi đi.
Đêm đã khuya lắm rồi. Hồi lúc chiều, rừng bị động. Thú hoảng sợ, chắc chạy thẳng cẳng. Hông còn nghe tiếng nai tác, mễm chép… chỉ có nghe được tiếng cành gãy rớt nhè nhẹ trong đêm. Thằng Ơ nằm im lặng bên Xuân. Con Tím chắc chưa biết chồng chết. Cổ mà biết rồi thì hổng hiểu cổ khóc đến cỡ nào. Còn Hơn lâu lâu rên khe khẽ.
Phùng Xuân hông ngủ được. Suốt đêm chàng nhìn lên bầu trời đầy sao lẫn trong rừng lá cây. Có một tí xíu của chòm sao Cày. Thằng Ơ nằm im lặng, như một giấc ngủ sâu ngon. Nó và Phùng Xuân giờ đây ai sung sướng hơn ai? Đâu ai biết được vì hông có ai có kinh nghiệm về sự chết. Một người hông còn thở được là chết. Có như thế mà Xuân lẩm cẩm. Nhưng thằng Ơ còn nằm bên chàng. Ơ ơi, mầy có ngậm được gạo xấy hôn?
Bây giờ là mấy giờ rồi. Đêm sao dài quá. Những lá cây khô có ánh sáng như lân tinh chập chờn như những bóng ma trơi. Thỉnh thoảng có tiếng xù xì nho nhỏ. Xuân chắc là mấy người lính kêu đổi gác.
Sáng ngày hôm sau, trực thăng bỏ xuống một bao đựng xác. Thằng nào cũng giành để thằng Ơ vô trong bao. Hổng thằng nào chịu kéo khóa lại. Tụi nó đứng nhìn thằng Ơ một hồi lâu. Phùng Xuân hông hiểu tụi nó nghĩ gì? Mầy chết là mầy thoát nợ nghen mậy. Tụi tao còn phải lội rừng dài dài?
– Mau lên đi. Còn phải khiêng lên Trung Đoàn mới có bãi đáp. Vừa đi vừa về cũng mất cả buổi. Anh Thanh cho bốn đứa. Hai đứa khiêng xác thằng Ơ, còn hai đứa võng thằng Hơn. Mình ở đây chắc trọn ngày hôm nay. Phi cơ oanh tạc cũng nửa buổi…