
Trăng Suông
Tổng số chương: 17
Chiếc xe đò Á Đông chạy vùn vụt trên đường Sài Gòn-Mỹ Tho. Phùng Xuân ngồi ghế bìa. Gió thổi phần phật. Chàng đang sung sướng nhìn ra đồng ruộng Tân An mênh mông cò bay thẳng cánh. Đã là tháng bảy rồi. Đồng lúa xanh xanh mút mắt. Cuối chân trời, những đàn cò trắng bay thong thả và những đám chim lá rụng rập rờn lên xuống. Có những đoạn đường xe đò chạy song song với đường xe lửa. Đột nhiên Xuân nhớ lại những chuyến xe lửa thú vị. Ngồi chỗ bậc thang lên xuống ở những toa hàng hóa, chàng mặc tình ngắm nhìn đồng ruộng, ca hát và suy nghĩ vẩn vơ mà hông bị quấy rầy… Nhưng bây giờ, xe lửa hổng còn chạy nữa. Năm ngoái (1958) là lần cuối cùng Xuân về Mỹ Tho bằng loại xe chạy cà xịch cà xịch tuôn mù mịt khói đó…
Cách đây hai ba tuần vừa có kết quả kỳ thi TúTài I, Xuân đã nhảy tưng tưng. Sau khi loang quanh ở SàiGòn thăm bè bạn cho đến hôm nay, Xuân mới xin phép Má về quê chơi trong vòng một tháng.
Xuân xuống xe ở Ngã Ba Tháp, rồi băng qua đường, đi xuống hồ Trúc Bạch. Nhà bà cô thứ Tám ẩn hiện sau lùm cây bên trái. Ông dượng, Sáu P…, người con út của ông Hội Đồng M…, sau khi phung phí hết tài sản vào những canh ỏ ( hình như là một loại bài làm những miếng gỗ nhỏ như là bài đô mi nô. Chỉ thấy lúc còn nhỏ. Hông sưu tầm được. ) thâu đêm suốt sáng, chỉ còn giữ lại được mười mẫu vườn dừa hương hỏa ở Châu Thới (cầu Ông Hổ). Thời chiến tranh- khoảng năm 1946-1954-, vùng Ba Châu còn là khu tự trị của Việt Minh. Sau khi làm giáo làng một thời gian, ông chán nản. Ông bỏ làng lên tỉnh, làm thư ký Tòa Án. Rồi bây giờ, quen nếp sống sáng xách xe đi chiều đạp xe về, ông ở lỳ lại tỉnh, bỏ mặc bà vợ bươn chải coi vườn tược ở làng.
Xuân bước vào nhà. Ông dượng đang ngật ngù ngồi trên ghế đẩu. Xị rượu đế với trái cốc còn độ nửa và mấy trái ớt hiểm để trên bàn. Ngày nào cũng vậy, chỉ cần bao nhiêu đó là ông có thể nhịn ăn cơm suốt ngày.
– Chào dượng
– Sao mậy? Học hành ra sao rồi?
– Dạ, con đậu Tú Tài I rồi. Có kết quả hôm tháng rồi.
– Giờ đi đâu đây?
– Dạ, con dìa quê chơi
– Bao lâu?
– Dạ, một tháng
– Đã hé!
Nói xong, ông tiếp tục gật gù bên ly rượu đế. Chàng đi xuống nhà dưới rộng thênh thang. Bà cô đang lui cui bên đống rau lang.
– Ngọc Thiền đâu rồi hả cô?
– Nó ở trong kia kìa, hổng biết đang làm gì ở trỏng.
Vừa lúc đó, Ngọc Thiền đi tới, mừng rỡ:
– Anh Ba. Anh vừa mới dìa hả? Thi đậu hông?
– Đậu rồi. Dìa quê chơi một tháng đây. Cha! Lúc rày Sáo Sậu coi bộ trổ mã rồi nghe.
Cô em gái, con thứ sáu của bà cô, tên thân mật Sáo Sậu, vội cười bẽn lẽn đỏ hồng đôi má. Ngọc Thiền, năm nay 15 tuổi, là con gái duy nhứt trong gia đình toàn anh trai nên được cưng chiều. Ngọc Thiền có đôi mắt u buồn, xa vời vợi. Chàng quay mặt đi chỗ khác.
– Thôi anh đi nghen.
– Đi đâu?
– Xuống cầu Cá Lóc, coi Khanh và Vân còn ở đó hông rồi dìa Lương Quới chơi.
– Chà! Coi bộ anh mết cô nào đây. Nói em nghe đi!
Xuân mỉm cười, nheo mắt nhìn Ngọc Thiền, bước ra khỏi nhà. Ánh nắng hơi nghiêng về chiều. Chàng đi dọc theo bờ hồ Trúc Bạch, băng qua mấy con đường vắng vẻ rồi hướng về cầu Cá Lóc. Ngôi nhà to lớn hoang tàn bên trái vẫn còn đó, nhắc chàng nhớ lại một thời học sinh ngắn ngủi ở Bến Tre và mối tình ngây thơ đẹp đẽ…
– Ê, Xuân. Mầy thấy con Điệp hông? Nó ngó mầy dữ lắm đó!
– Thiệt hôn? Mầy nổi tiếng xạo, đó Trường.
– Sao mầy biết tao xạo?
– Thì tin lời mầy đó. Hôm kia, mới vừa tan trường, tao thót lên xe dông theo nó. Qua khỏi cầu Cá Lóc, tao rề rề theo. Ban đầu, chắc nó tưởng bạn cùng trường tan học dìa. Tới Rạch Chanh, nó thấy lạ, nó quay đầu lại, nhìn thấy tao, nó đạp xe nước rút. Tao đeo theo, nhưng đường lổm chổm đá hông cặp song song với nó được. Vừa lên dốc cầu Gò Đoàn, tao dọt lên. “ Điệp ơi, Xuân có cái nầy”. Bất ngờ, nó xẹt qua trái. Tao lủi vào lề, may nhờ bụi lứt, nếu hông té xuống sình nhào vô đám ô rô. Nó hổng thèm ngó lại, quẹo trái vào đường bờ dừa, chạy miết. Mầy gạt tao hả? Đồ thằng quỉ sứ!
Bên trái dưới dốc cầu Gò Đoàn, dọc theo đường bờ dừa có những hàng cây điệp ( phượng vĩ ) đang nở rộ bông đỏ ngất cả bầu trời chiều….. Bông Điệp!!!……Và sau đó là những lá thư ngây ngô qua lại. Hồng Điệp rồi cũng hông còn qua mùa hè. Những dòng chữ, những hình ảnh trong “Lưu Bút Ngày Xanh” rồi cũng trôi vào không gian tít mù xa…
– Anh Ba. Anh dìa rồi hả?
– Thì dìa tới đây rồi, còn hỏi dìa rồi hả.Hai con nhỏ nầy!
– Em tưởng vậy mà?
– Em tưởng sao Khanh?
– Em sợ anh hông dìa.
– Bây giờ anh ở đây nè! Bộ nhớ anh sao?
– Đúng đó, anh Ba. Chị Sáu em hổm rày nhắc anh hoài. Anh thi đậu hôn?
– Con nhỏ Vân nầy lãng xẹt. Tao nhắc hồi nào mậy? Có mầy nhắc thì có.
– Anh thi đậu rồi. Khanh biết rồi mà! Thôi hai chị em đừng cãi nữa. Còn mấy người kia đâu hết rồi?
– Vậy hả anh Ba? Vui quá hé! Tụi nó hẻ? Chưa kịp hết lớp hè là lo dông trước rồi. Anh Tân, con Bích dọt lúc trưa. Còn Thủy, Ái, mới vừa ra khỏi nhà chừng chút xíu thì anh dìa.
– Còn hai em? Sao chần chờ ở đây?
– Chỉ đợi anh đó, anh Ba. Cứ lo miết vụ anh đi thi. Hồi sáng chỉ nói bữa nay thế nào anh cũng dìa. Em hối chỉ lo dọn đồ đạc. Chỉ nói thủng thỉnh mà!
– Con nhỏ Vân nầy! Mầy lợi xạo nữa rồi.
Xuân trìu mến nhìn Khanh. Nàng đỏ má và đôi mắt long lanh. Các cô gái miệt vườn kẹp tóc dài, làn da trắng, thon thả trong bộ áo bà ba, ăn nói thật ngây thơ, hồn nhiên.
– Có gì cho anh ăn hông?
– Tụi em hết tép kho rồi. Chỉ còn gạo thôi!
Chàng biết nhóm học trò miệt vườn lên tỉnh học nầy. Mỗi tuần họ về nhà cụ bị tép rang kho nước cốt dừa với dừa cứng cạy, mắm ruốc xào hoặc thịt ba rọi kho khô… Buổi sáng, thức dậy nấu nồi cơm, ăn cho sáng, trưa, chiều với chừng ấy thức ăn trong suốt tuần. Rau ráng thì mua ở chợ, nhưng ít khi có món canh…
Sau năm 1954, khi Việt Minh( dân miền Nam vẫn còn gọi là Việt Minh ) tập kết về miền Bắc, miền Nam trở nên thật yên bình. Nhà nhà lo vun đắp lại mảnh vườn bị tàn phá và bắt đầu cho con cái đi học. Giống như các bạn cùng trang lứa, hông được học hành đến nơi đến chốn trong thời chiến tranh, nên Khanh và Vân đã 18 và 17 tuổi mà mới học đến lớp đệ lục và đệ ngũ. Những năm đó, hông hiểu sao, làng Lương Quới chỉ có trường bậc Tiểu Học. Những làng lớn hơn, nằm dọc theo tỉnh lộ nối liền Bến Tre và quận Ba Tri như Mỹ Lồng (Mỹ Thạnh)…, đôi khi có đến lớp đệ thất, lục, ngũ. Ở Châu Thới cũng có một trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp tư, nên học sinh vùng Ba Châu ít khi lên tỉnh học. Phần nhiều do giáo sư ở chiến khu về dạy. Họ hông giỏi, nên cha mẹ thường cố gắng cho con cái lên tỉnh.
Bốn năm gia đình hoặc đông hơn mướn một miếng đất rồi cất một căn nhà dài dọc theo bờ dừa để cho con cái có chỗ ở đi học, thường ở khu Lò Gạch. Chung quanh nhà chỉ đóng ván sơ sài. Đám con trai ngủ trên bộ ván ngựa dài ở phần trước, giăng mỗi đứa một cái mùng vào ban đêm. Phần sau, kê hai ba cái giường dành cho đám con gái. Phần bên hông là bếp nấu ăn và một cái bàn. Sau căn nhà là sàn nước. Cuối góc phải nhà là cái buồng tắm vừng sơ sịa bằng lá chầm. Đám con trai có bao giờ tắm trong buồng tắm đâu. Tụi nó dùng gàu đan bằng lá dừa nước, múc nước từ trong lu hoặc nước dưới mương dừa- khi nước lớn- xối ào ào…
– Hay là hai em đãi anh một bữa chè nghen! Được hôn anh Ba? Nhưng em phải đi mua thêm đường, dừa, bột khoai. Chị Sáu ở nhà nấu đậu xanh cho nhừ, chờ em dìa, nhen.
– Ờ hé!! Ngon à nghen, Vân. Chè đó ở thành phố họ gọi là chè thưng, có phải hôn? Mà anh phải đi tắm cái đã.
– Nước đang lớn đó anh Ba. Nếu anh sợ tắm nước mương dừa thì anh tắm nước trong lu đã lóng phèn sẳn. Chị Sáu biểu em lóng nước để cho anh dìa tắm đó!
– Mầy nghen mậy. Con nhỏ lí lắc, xí xọn! Đi đi mầy….
Xuân quay lại nhìn Khanh. Cô nàng bẽn lẽn bỏ đi một nước vào trong buồng. Xuân, Khanh, Vân quen nhau từ lúc nhỏ. Tụi nó thường cút bắt từ bờ dừa nầy sang bờ dừa khác trong những đêm trăng rằm vào những ngày mùa hè, dưới gốc xoài, ổi, mận, sa bô chê. Đám con nít trầm nghịch trong xẻo mương dừa từ lúc nước nhửng lớn cho đến nước ròng. Môi đứa nào đứa đó đen thâm sì. Bờ môi bám đầy bùn non như có râu. Chúng nó nắn tu na với đủ thứ con nhưng mà nhiều nhứt là con trâu.Xong rồi đi bắt kiến dương ở những gốc ô môi đem về gắn vào bốn chân trâu. Trâu đất, kiến dương đi nghễng nga nghễng ngãng. Cả bọn xúm xa xúm xít. Có hôm Xuân dụ Khanh bắt ổ ong dúi ( loại ong nhỏ thường đóng ổ trong hang bọng chung quanh nhà, hông cắn, chích nhưng hay bu kín người ). Cô nàng ngây thơ nên bị ong bu đầy tóc. Mật ong dúi thơm nồng ngọt ngào. Rồi vào những cơn mưa dầm tháng tám, lũ nhóc dầm mưa chơi rồng rắn cho đến tạnh ráo. Ai nấy môi tím ngắt lạnh run cầm cập. Hồi đó cả bọn đều tắm truồng…
Cho đến một hôm, tự nhiên bọn con gái bận nguyên bộ đồ bà ba nhảy ùm xuống sông. Đám con trai thấy mắc cỡ nên cũng mặc quần xà lỏn. Nhưng mà bây giờ, tụi nó có vẻ dè chừng hơn thành ra hổng còn hứng thú nữa. Lúc trước hả? Tạt nước, nhào vô, xáp lá cà, ôm nhau vật đả đời mà có gì đâu? Bây giờ Xuân a lát sô đến con nhỏ nào, tụi nó đều né…
Một buổi trưa hè. Nước nhửng lớn. Cả bọn đang hò hét, móc bùn táng nhau ở đầu con rạch nhỏ. Đột nhiên đám nhỏ la lên ….
– Anh Ba! Anh Ba! Ma da! Ma da! Con Khanh bị ma da níu!
Xuân bơi sải đến, nắm chùm tóc Khanh vật vờ trên mặt nước. Khanh quíu tay ôm chặt vào người thằng con trai. Hai đứa chìm nghỉm, đụng đáy rạch. Xuân đạp mạnh một cái, trồi lên. Nó may mắn quơ tay nắm được bụi dây chại, kéo hai đứa vào bờ và lủi vào đám mái dầm. Xuân thở khì khò, còn Khanh cà ngáp. Hông hiểu cô nàng đã uống bao nhiêu ngụm nước mà còn nằm im thin thít. Mặt xanh như tàu lá chuối. Hàng nút bóp của áo bà ba trắng ngã phèn cũ kỹ bị bung toành hoành từ trên xuống tới dưới gần bụng. Ngực trần trắng nuột lộ ra chập chờn! Đôi vú như hai cái mộng dừa non nhu nhú nhỏ cứng ngắc căng tròn tròn nhòn nhọn, có hai núm hồng hồng. Mái tóc dài cùng vạt áo lượn lờ trong đợt nước chập chùng… Nó cảm thấy hơi ấm từ người Khanh hòa vào ngực nó. Một luồng hơi nóng rừng rực chạy cùng khắp người. Nó ngạc nhiên, hơi ngơ ngơ ngác ngác. Lần đầu tiên, nó nhìn thấy hai cái vú của người con gái… Nó đắm đuối nhìn vào đôi má bầu bĩnh sũng nước… Tự nhiên nó cúi đầu xuống. Khanh mở mắt trân trân nhìn nó. Nó nhanh chóng hun lên má cô ta một cái. Khanh hứ nhẹ một cái cóc, đẩy Xuân ra rồi lật đật cài nút áo lại…
Và bây giờ Xuân hun một cái nữa, nhưng lần nầy lâu hơn như uống một hơi nước dừa xiêm ngọt mát rượi.
– Hồi trước, nhờ ma da kéo, em hụt chưn nên anh mới hun được em có chút xíu. Bây giờ hun lâu lâu hơn.
– Xí! Coi chừng Vân nó sắp dìa rồi đó anh!
Phùng Xuân chưa chịu buông Khanh ra, còn muốn tận hưởng mùi dầu dừa bông chúa ( Ylang Ylang ) ngay ngáy ủ trong mái tóc óng ả dài thậm thượt. Và mùi sả, bông bưởi hay bông chúa thoang thoảng lan ra khắp trong người Khanh.
Con gái miệt vườn thường nấu nước sả, bông bưởi, để tắm hoặc sang hơn tụi nó mua một xâu bông lài bỏ vào ấm nước sôi, xong rồi cất đó, khi nào tắm pha vào nước lạnh. Bông lài thì ở chợ BếnTre ngày nào hổng có. Mỹ Lồng có mấy mẫu trồng bông lài bán cho những người ướp trà ở BếnTre. Bông lài thường hái vào buổi chiều, lúc còn búp và để sáng hôm sau thì nở ra thơm ngát. Hoặc hông kiếm được bông, tụi nó liều bỏ tiền mua một cục xà bông Cô Ba. Sau năm 1954, có được cục xà bông Cô Ba của hãng xà bông Trương Văn Bền là nhứt. Bọn con trai ít khi tắm được xà bông Cô Ba. Tụi nó chỉ được tắm với cục xà bông đá nhỏ, cắt từ khúc xà bông lớn dài độ gang rưởi tay. Ở thành thị dân dùng xà bông để giặt quần áo. Còn ở quê hả? Toàn xài nước tro bếp lóng trong diệm hoặc lu bể để ở bên hông nhà… Xong xả lại bằng nước lóng phèn, có ngâm thêm vài miếng giấy lơ ( Lơ có thể từ tiếng bleu của Pháp ) cho màu xanh dương để vải có màu trắng đẹp.
– Em trông anh nhiều dữ lắm hả?
– Mấy hôm rày em ngủ chập chờn, nhớ anh nhiều. Hổng hiểu có chuyện gì hôn mà Tía nhắn dìa gấp. Em còn nấn ná chờ anh.
– Thì mơi dìa cũng được mà. Mấy khi mình có được như vầy, hở em? …
– Coi chừng Vân đó anh à! Con nhỏ quỉ đó hả, nó thóc mách lắm. Sợ nó mét tía má là bị đòn tét đít luôn!!…
– Xí! Nhát như thỏ đế!
Trăng đầu tháng hông còn ở phía tây. Ánh sao mờ nhạt xuyên qua những tàu lá dừa lắc lư theo cơn gió nhẹ. Khanh nằm gối đầu lên ngực Xuân. Nàng đã dâng hiến trọn vẹn cho người tình. Tóc Khanh xõa dài chập chờn như dòng suối đang chảy. Và hơi thở cô gái đều đặn trong niềm hoan lạc vừa qua. Xuân nếm được mật ngọt trái cấm đầu đời của thằng con trai mới lớn lên, lâng lâng như người say rượu, bồng bềnh như ở giữa dòng sông mông mênh… Ở cuối góc nhà, có tiếng vạt giường kêu răng rắc, cót két… Vân đang trở mình?
Sáng hôm sau, ba người đạp xe về Lương Quới. Qua khỏi cầu Gò Đàng là vùng đất giồng. Tỉnh lộ nối liền Bến Tre-Ba Tri ( Tỉnh Lộ 885), chạy qua nhiều vùng nỗng đất cát kêu là giồng: như Giồng Khương (LươngQuới), Giồng Trôm, Giồng Tre (Cái Bông)… Đám ruộng bên trái xanh rờn. Vài cây thốt nốt lẻ loi vươn lên trong nắng sớm. Nhiều đám dúi xanh um tùm ở khuất tận ngõ vào xóm. Có thể Lê Thương đã từng ở nơi đây để viết ca khúc Hòn Vọng Phu chớ không phải phía bên kia cầu Chẹt Sậy về phía Mỹ Lồng, vì vùng đất giồng bên đây đầy vẻ thơ mộng, có đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Vùng đất vườn bên kia âm u nhiều muỗi mòng.
Cầu Chẹt Sậy- hay cầu Kinh- bắc ngang qua con kinh Chẹt Sậy (Giao Hòa) nối liền sông Bến Tre và sông Ba Lai với những nhịp sắt yếu ớt. Cầu bị phá nhiều lần trong thời chiến tranh chống Pháp. Việt Minh lợi dụng lúc nước ròng xuống về đêm thả bè dừa làm sập cầu. Những lần như thế, người ta phải dùng bắc để qua lại. Hồi nhỏ, Xuân sợ đi bộ ngang qua cầu vì cầu cao trông có vẻ lêu khêu, chênh vênh, mà ván lót ngang quá mỏng và thưa. Nó bước từng bước một, nhìn dòng nước kinh chảy xiết. Cầu yếu lắm. Hành khách phải xuống xe đò, đi bộ qua cầu. Còn đi xe ngựa, cũng phải xuống đi bộ vì dốc cầu cao, ngựa hông kéo lên nổi.
Ba đứa xuống xe đạp, lửng thửng bước qua cầu. Ánh nắng ban mai rọi xuống dòng nước chảy cuồn cuộn ở ngã ba kinh chập chờn bàng bạc. Những đám lục bình hông trôi được, xoay tròn như bông vụ nơi búng nước. Màu đỏ của lò gạch nơi ngã ba sông hừng hực trong nắng ban mai. Gió thổi mạnh. Gió của tháng bảy: gió nồm hướng tây nam bung hai mái tóc huyền. Từng sợi, từng sợi tóc lượn lờ như những tơ nhện mờ ảo trong nắng sớm. Bốn ống quần đen của Khanh và Vân kêu phành phạch. Bữa nay hai đứa hông mặc áo dài trắng, chớ hông thì bốn tà áo thi nhau tung tăng trong gió. Hai cô nàng phải lấy nón lá xuống, úp ngang trên ngực. Khanh bước đi vẻ chậm chạp, nhìn dòng nước đục ngầu tuôn ra ngã ba kinh….. Xuân và Vân thả xe xuống dốc cầu trước, đúng đợi Khanh.
– Anh Ba. Mình có ghé Mỹ Lồng hông?
– Hông. Chắc mấy thằng bạn của anh giờ nầy hổng có ở nhà đâu. Tụi nó dông đi chơi hết rồi. Có con Tuyết em thằng Thông là có ở nhà. Còn Trường phải phụ ba nó sửa xe đạp. Tiệm ba nó có nhiều xe đạp cho mướn lắm: xe người lớn và xe con nít. Nên nó phải sửa hoài. Còn thằng Đáng ở tuốt trong Phong Nẩm lận. Ờ quên, tự nãy giờ nói chuyện mấy thằng bạn của anh mà quên hỏi thăm anh Năm Lân của em.
– Anh Năm em hả? Hè nầy ảnh hổng có dìa.
– Sao vậy?
– Ảnh mắc dự lớp bổ túc cho giáo viên. Hơn nữa, ảnh dạy bên Mõ Cày rồi cưới vợ ở bển, nên ở luôn bên vợ, ít khi về thăm Tía Má lắm.
Năm Lân học sau Xuân. Đậu bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp, Năm Lân thi vào Giáo viên cộng đồng, học một năm ra làm giáo viên cấp Tiểu Học, về dạy ở Mõ Cày.
Khanh chầm chậm bước xuống dốc cầu, nghĩ ngợi mông lung đến hạnh phúc đầu tiên đêm hôm qua… Cảm giác nhiều lần ái ân còn ngần ngật.“ Hổng hiểu Tía kêu về nhà gấp gáp có chuyện gì. Bình thường Tía đâu có làm như vậy?”
Mỹ Lồng – tên tục của làng Mỹ Thạnh- nằm kế bên dòng sông Bến Tre, là vùng gò cát pha đất màu đo đỏ, có những vườn lài cung cấp bông cho những nhà ướp trà ở Bến Tre và đôi khi ở Sài Gòn. Nhà lồng chợ rộng và đẹp đẽ, nằm sát bờ sông. Hai bên là hai dãy phố gạch. Buôn bán nhộn nhịp.
Vào khoảng năm 1947- 48, cả đoàn ghe thoát khỏi vùng Tây ruồng bố ở Lương Phú, bên kia bờ sông Bến Tre… Chợ Sữa là một địa danh mù mờ trong trí nhớ của Xuân, ở đâu bên Tân Hưng hay Châu Hưng gì đó, bên bờ sông Hàm Luông? Phải bơi ghe qua mấy vàm sông rộng mênh mông. Ở đó, buổi sáng người đông nườm nượp. Lần đầu tiên, nó ăn tô hủ tiếu thơm ngào ngạt, có mấy lát thịt, hai ba miếng gan và một khúc phèo sừng sựt, beo béo.
– Lấy tín phiếu hay lấy tiền ngoài, chú Năm?
– Tiền gì cũng được, chị Bảy. Mà chị có tiền ngoài hôn? Tiền ngoài thì ba đồng, còn tín phiếu thì năm đồng. Đừng cho mấy ổng thấy.
Và đoàn ghe của nhóm người chạy trốn, trong đó có ghe gia đình Xuân, đã tấp vào Mỹ Lồng.
– Con ăn cà rem hông?
– Cà rem là gì hở má?
– Cái thằng nầy! Cà rem là cà rem chớ cái gì mà phải hỏi. Con lấy cây ba cắc, có đậu xanh.
– Í! Trời ơi! Sao nó bốc khói dữ quá vầy nè má?
– Con đừng có thổi. Con thổi nó tan hết bây giờ.
– Má ơi, ngon quá má. Khi dề Lương Quới, má mua cho con ít cây, gói trong lá chuối, để dành ăn nghen má.
– Anh Ba! Làm gì đứng thừ người vậy?
– À! Nhớ chuyện cây cà rem và tô hủ tiếu.
Bọn họ đạp xe ra khỏi Mỹ Lồng là đến Mã Đá, rồi tới ngã ba Lương Hòa. Trước mặt, hai bên đường, những cánh đồng lúa xanh có sao chơm chớp trong nắng trưa. Vùng Đồng Gò, Đìa Đôi, Trường Gà- chạy dài đến cầu Đúc Lương Quới. Hàng me tơ hai bên đường đang trổ bông…
– Khanh! Em còn nhớ hông?
– Nhớ chuyện gì anh?
– À! Cái vụ thằng Rong nó hái me cho tụi em mà hổng có đứa nào dám tới lấy hết đó mà! Anh nhớ thằng Rong hôm đó nó mặc cái quần sọt rộng rinh.
– Ờ hé! Đồ quỉ anh à! Cứ nhắc chuyện đó hoài. Em nhớ chớ sao hông. Con Lan rắn mắc. Nó tới lấy, bụm hai tay nhìn lên để hứng me. Bất ngờ nó quay chạy ra còn la lớn: “ Tụi bây ơi, tới chỗ anh Rong lấy me. Ảnh có chùm chùm vậy đó! ”Tụi em ùa tới. Cả đám ngước lên bụm tay. Đứa nào đứa nấy đỏ mặt ù té chạy…
– Tụi em thấy gì, sợ mà bỏ chạy ghê vậy?
Khanh lấy tay đấm thùm thụp lên lưng Xuân… Đồ quỉ!… Hai tiếng: Đồ quỉ vang vang trong buổi trưa vắng lặng…
Lúa xanh ngầy ngật trong ban trưa nổ đầy sao nắng. Từng đàn cò trắng lập lờn trên đám ruộng. Hai bên đường những đàn chim áo dà nâu tím, chim sắc ( cùng một loại với áo dà nhưng màu xám pha sọc đen ) tíu tít trong những bụi bông cỏ. Con bù cắt ( Chim săn mồi bay đứng một chỗ rất lâu ) lẻ loi trong nắng chói chang, chăm hẳm tìm mồi. Và con đường chạy dài tới Cầu Đúc Lương Quới ngun ngút, đượm ảo nước từ xa xa ngút ngoắt. Nắng nổ đom đóm. Cánh đồng ruộng xanh với đám công cấy vang tiếng hò hông còn nữa. Ôi! Cả khung trời kỷ niệm xa lắc xa lơ nay còn đâu?
Khi tụi nó còn học ở trường Trung học Tư Thục Mỹ Lồng, trưa nào cũng tụm năm tụm bảy dưới những gốc cây me. Mùa me đơm lá non, xanh màu đọt chuối, cả con đường trở nên dịu mát. Bầu trời cũng dường như bớt oi ả. Lá me non chua lè nếu mình nhai ngốn ngáo trong miệng; nhưng vị chua trở nên ngọt ngào hơn với nồi canh chua lươn, bắp chuối, lá me; hay canh chua cá chốt, lá me… Bông me nho nhỏ, trăng trắng, tim tím ở đầu, phủ nhút nhít đầy cây, ít khi trông thấy được lá, biến hàng me dọc đường như những giỏ bông treo lơ lửng trời xanh. Bông me ăn cũng chua chua, chan chát. Tháng mười một là mùa me non, có nhiều gió chướng ( gió mùa Đông Bắc ). Me non dễ bắt với cơm nguội và tép rang nước dừa: béo, chua, mặn. Nhưng mùa nầy rủ bọn con gái hơi khó vì khi trở về, gió bấc thổi mạnh, bật tung hai vạt áo dài ra sau và quần đen làm lồ lộ… Tụi nó hông chịu đi, chỉ ới:“ Đem về cho tụi tui ăn ví ”. Thế là xong.
Tháng hai, tháng ba rủ là tụi nó đi liền: Mùa me dốt và chín. Hơn nữa hông còn gió chướng, nhưng nắng nổ đom đóm. Me dốt chua chua ngòn ngọt xôm xốp. Nếu nhai luôn nguyên hột có thêm vị chan chát đăng đắng. Vừa để me dốt vào miệng là nước miếng trào ra. Nhai từ từ, sẽ thưởng thức được hương vị tuyệt vời của me dốt trộn lẫn trong nước miếng. Ăn riết rồi phát ngây, ê răng hồi nào hổng biết. Mà phải me dốt thực sự chớ còn dôn dốt thì hông bằng, vì me dôn dốt còn chua nhiều và khó lột vỏ. Me chín thì ăn hông đã miệng vì cơm chín mềm mụp, chua lét lại còn phải lừa bỏ hột. Ít khi tìm được me đậu phọng có cơm chín ngọt…
Chợ Lương Quới- hồi xưa còn gọi là chợ Bàu Sấu- là một ngôi chợ nhỏ, nằm sát đường Bến Tre-Ba Tri. Nhà lồng cao, chỉ có mái che còn hai bên trống hoang hoác. Một vài ba cái sạp nhỏ xíu nằm rải rác.
Ông già mù ở cái sạp cuối nhà lồng. Mắt ổng mở trao tráo. Tròng mắt hơi đo đỏ, hông đen. Vậy mà ổng hông thấy đường. Ổng mặc một cái áo rách bươm, rệu rã, coi bộ xơ rơ xác rác, hông đủ che thân mình mà còn làm lộ rõ cái quần xà lỏn sười lai cũ kỹ. Tóc tai bùm sùm vì lâu ngày hông hớt. Ngày hai bữa, Xuân đem cơm cho ổng trong cái diệm nhỏ. Sáng sớm ổng lẩn đi đâu mất vì chợ nhóm từ gà gáy. Chợ tan lúc mặt trời vừa ngang tầm là có ổng. Hể ổng cần đái ỉa là kêu: Xuân ơi. Khi nào nước lớn ngoài đầu cống bên mặt chợ, nó dẫn ổng đi tắm.
Hổng hiểu ổng từ đâu tới. Một buổi chiều, nó đi bắn chim về thì ổng đã có ở nhà lồng chợ rồi. Mấy ngày đầu tiên, nó thấy ông già mù ăn toàn là xôi. Vì ổng có mình ên, nên nó chạy vào xin với Má cho ổng ngày hai bữa cơm. Mà cơm thì cũng hổng có gì ngoài cá kho, cá chiên, mắm kho, tép rang nước dừa đựng trong cái diệm nhỏ… Thỉnh thoảng mới có một bữa cơm với thịt ba rọi kho dừa cứng cạy.
Bọn Xuân thường ngày chơi tạc giấy, đánh trỏng, đánh cờ chó, bắn bi ở nhà lồng chợ. Còn bọn con gái thì nhảy cò cò, đánh đũa. Đôi lúc cả bọn chơi cút bắt hay rồng rắn, hay bắt con quít tàu, chuồn chuồn buộc miếng giấy nhỏ thả lên làm máy bay. Trong đám có Tuyết, con của anh Mười Điển. Nó gọi Xuân bằng chú mà bằng tuổi Xuân, hay nhõng nhẽo với chú dàng trời đất. Sau nầy nó mới biết anh Mười Điển, to lớn dềnh dàng, bà con họ đâu xa lắm. Ba Má Xuân gặp ảnh ở Chợ Sữa trong lúc chạy Tây ruồng…. Rồi còn có con Mận- con anh Tư Chúc- cháu nội của bác Năm Học, cùng tuổi nó, lúc nào cũng kêu Xuân bằng chú Ba ngọt ngào. Lại còn con Lan, con anh Hai Nhung, mắc bịnh Cam Tích, có cái bụng chong bóc, nổi gân xanh lè. Rồi còn thằng Si ghẻ, mình mẫy nó lúc nào cũng đầy ghẻ hòm. Xuân thấy má nó lấy trái mù u, nướng trên ngọn đèn cháy sèo sèo cho chảy dầu ra, xong lấy dầu trét lên mấy mụt ghẻ. Mỗi lần bả làm như thế là nó khóc ré, té đái chết điếng vì bả phải tắm nó rồi gở mấy cái mày ghẻ đầy mủ xanh nhầy nhụa trên khắp mình nó.
Anh em Xuân tối ngày chơi ngoài nhà lồng chợ. Có thằng Bon Nhỏ mới 14 tuổi mà đã lấy vợ 16 tuổi. Một hai năm về trước, khi gặp nó, còn thấy hai lỗ mũi có hai cục cứt mũi xanh lè chảy dài lòng thòng lểnh thểnh. Ba nó –ông Chín Kiến- chỉ có thằng con trai một, nên cần con dâu về nhà lo phụ công việc. Cái thằng ghê thiệt! Bọn Xuân nói mầy còn chút xíu, biết cái gì mà lấy vợ. Mầy có dám cổi truồng đi về nhà hông? Nó cổi thiệt, trùm quần lên đầu để hai sợi lưng quần tòn teng, đi ngỗng nga ngỗng nghễn. Cu nó còn nằm nóp và mới có vài sợi lông măng lơ thơ. Chắc thế nào về nhà vợ cũng nhằn cho một trận! Ấy vậy mà năm sau nó có đứa con trai kháu khỉnh. Nó giúp Xuân rất nhiều việc: dẫn ông già mù đi đái ỉa khi hông có Xuân, đội diệm mạch nha lên đầu lúc anh em nó đi bán. Mà bán mạch nha khi nào cũng lỗ vì mỗi đứa chấm mút một ít hoặc đôi khi sút tay rớt bể diệm. Bà Ba Đầm- má Xuân – làm mạch nha rất ngon. Nó hông ngọt nhiều, có vị ngòn ngọt, thơm, dèo dẽo. Mạch nha làm từ mộng lúa và nếp. Mà tụi thằng Xuân đi bán mạch nha có đi một đứa đâu; đi cả đàn cả lũ: anh em Xuân, thằng Bon Nhỏ, thằng Sết, con Bi, con Mận… Khi bán, thằng Xuân vít mạch nha bằng chiếc đũa, quệt vào bánh phồng nướng hoặc lá chuối, thế nào nó cũng chừa lại một ít; thế là cả bọn thay phiên nhau chấm mút chùn chụt. Ôi! sao nó ngon làm sảo làm sao! Nhà thằng Xuân có khi nào có đường ngon đâu. Đường thùng thì dùng ướp mắm lóc, mắm sặc đem bán ngoài chợ. Bà Ba thỉnh thoảng mới mua một vài cục đường tán, hoặc vài miếng đường thẻ. Đường cát vàng hoặc đường cát mỡ gà thì bà Ba Đầm dùng để làm mứt. Bả cất rất kỹ hai loại đường nầy. Đứa nào lớ quớ thì ăn bánh tét nhưn mây ngay. Xuân có nghe loáng thoáng Bà Ba Đầm nhắc đến đường phèn, đường phổi gì đó. Bả nói ngọt và ngon như kẹo vậy, nhưng có bao giờ nó nhìn thấy…
Ở cái thời chiến tranh trước năm 1954, dân khu chợ là dân hàng hai, cũng giống như ban hội tề. Ban ngày theo “Tây”, ban đêm theo Việt Minh. Đồn đóng sau dãy nhà bên hông chợ, trên nền đất của ông Quan Năm. Về những năm gần đình chiến sau nầy, đồn dời về ngay ngã ba Lương Quới, đối diện với nhà chú Hai Đấu cho mướn xe đạp. Lính trong đồn mà có rục rịch gì là dân xóm trong biết liền. Trái lại lâu lâu, dân xóm ngoài cũng có người bị Việt Minh giết, thả trôi sông. Thằng chỏng có nhiều khi nằm chình ình bên rạch trước đồn ông Quan Năm.
Thường thường, đêm nào mà sắp sửa có đánh đồn- nói là đánh chớ ít khi nào Việt Minh đánh bứt đồn Lương Quới, chỉ là du kích về chọc phá chơi- thì tối đêm hôm đó nhà Xuân biết trước. Má lo gom góp một ít đồ và gói đầu máy may hiệu Brother vào bọc vải rồi âm thầm dắt đàn con chạy tuốt vào xóm trong cho đến một hai hôm sau mới về. Có lần du kích về ban ngày. Xuân thấy họ đi ngờ ngờ trong xóm. Anh Hai Thẹo cho nó đeo thử cây mút “Ăng-Lê”(?) làm nó khoái chí tử. Và Xuân cũng thấy anh Năm Nhiên đứng giữa ngã ba đường, bên cây me còng, ôm cây FM, cười hể hả với những người qua lại. Người ta nói ảnh là bộ đội của Ông Cống(?)(Đồng Văn Cống)
Bà Ba Đầm được Bà Nội thằng Phùng Xuân giao cho căn nhà ngoài chợ Lương Quới. Thời chiến tranh bả bán sạch trơn mấy mẫu vườn bên ngoại Xuân chia cho, lo nuôi đàn con để ông chồng rảnh rang đi kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, Ông Ba hông trở về. Bà Ba Đầm với hai bàn tay trắng, buôn gánh bán bưng đủ thứ: bán mắm, bán bánh bông lan, bánh men nước dừa, mạch nha… để nuôi đàn con năm đứa. Xuân cũng hông hiểu từ đâu mà lâu lâu Bà Ba có được một thùng bơ nước lỏng le, một thùng sữa bột hoặc một thùng dầu bông cải. Những ngày đó là những ngày huy hoàng: cơm chiên bơ ăn với nước mắm… Hông hơn một năm, bà cô sáu từ bưng trở về, lấy căn nhà ngoài chợ. Mẹ con lại đùm túm dọn về ở một mẫu đất ruộng ngoài giồng. Từ đó thằng Xuân xa hẳn ông già mù …
Sau Hiệp định Geneve 1954, ở làng Lương Quới, một số người theo kháng chiến chống Pháp tập kết ra Bắc, một số hông tập kết ở lại sinh sống yên ổn: như chú Sáu Đâu, Mười Tương… May mà thằng Xuân hông đi theo anh Tám Khước, con bác Tư Bơ đi tập kết vì bà nội hổng cho đi, lấy lý do thằng Phùng Xuân là cháu lớn nhứt của tao. Ngay cả những gia đình có con, có chồng tập kết đều làm ăn bình thường như thằng Khởi con anh Mười Điển; chồng chị Sáu Biên; chồng chị Ba Kha… Làng xã chẳng thấy ai thắc mắc gì về họ. Họ hông bị bắt bớ, tra hỏi, hay bị làm khó dễ trong mọi việc. Nói nào ngay, tất cả đều có dây mơ rễ má với nhau cả: hông bà con xa thì cũng họ hàng gần, hay sui gia. Thì bây giờ tất cả đều chí thú làm ăn có gì đâu???
Dân làng Lương Quới sống thật an lành sau năm 1954. Thỉnh thoảng có gánh hát đến đóng tại chợ, đôi khi lâu nửa tháng. Mỗi buổi chiều tiếng trống thì thùng vang lên làm ai cũng náo nức. Tuồng gì đêm nay? Hay hôn chị Ba? Đám đàn bà, con gái, trẻ con thì có vẻ mê hơn. Đàn ông, thanh niên ít bàn tán: một lớp lo giỗ quảy, tiệc tùng, nhậu nhẹt. Cánh đàn ông sồn sồn lo tán mấy bà lỡ thời sau kháng chiến trở về…
Vào mùa hè, có đội chiếu bóng hông biết từ đâu về, căng màn giữa chợ, bắc loa kêu gọi ầm trời. Hai phim thường chiếu là: Ánh Sáng Miền Nam và Chúng Tôi Muốn Sống. Và sau đó là các phim về vệ sinh của gia đình bác Tám: phải rửa tay trước khi ăn… ; phải đào lỗ chôn khi đi ỉa ngoài đồng, trong rẫy bắp… ; vi trùng sốt rét chui vào trong người như thế nào: qua con muỗi nên phải lắp cống rảnh … Chỉ có dân xóm chợ thường hay coi chiếu bóng, còn dân vườn ở xóm trong ít khi coi, vì lúc nào cũng có bao nhiêu đó thôi, hông có gì mới lạ. Những dịp chiếu bóng, gánh hát bội, đoàn hát cải lương đến là con nít đều khoái: chạy nhảy vui chơi, năm mười, rồng rắn.
Đặc biệt là gánh Sơn Đông Mại Võ. Họ vừa bán các thứ thuốc cao đơn hườn tán, cảm mạo thương hàn, thuốc trị đau nhức răng, thuốc sán lải…… Mỗi lần bán một thứ thuốc là một tràng trống tùng tùng nổi lên. Sau đó một người đi vòng vòng giơ cao món thuốc mời mọi người mua. Bán xong thuốc là màn biểu diễn võ thuật. Thường là những màn nội công như chém bể gạch, để mũi dao ấn vào bụng… Đôi khi có những con khỉ giúp vui, làm những trò lạ mắt khiến đám con nít đúng bên ngoài liên tục gọi: Mai! Mai! Dân làng nghèo bị bịnh thường uống ba thứ lá cỏ cây. Cùng lắm mới đến chỗ bán thuốc Tây. Người bán thuốc là “dược sĩ kiêm bác sĩ”. Bịnh gì đây? Nhức đầu nóng lạnh hả? Aspirine. Ỉa chảy hả? Elexir. Vân vân và vân vân. Có tiền chút đỉnh thì bổ thuốc bắc. Nay gặp các loại thuốc nầy thì họ bu lại coi, “trước mau vui sau làm nghĩa”chớ họ đâu biết thuốc sán lải của đám Sơn Đông Mại Võ nầy còn thua thuốc sổ bằng lá muồng đầy dẫy trong vườn nhà họ.
Gánh hát cải lương, đoàn hát bội là gây ồn ào nhứt. Họ ăn dầm nằm dề ở chợ làng đôi khi cả tháng, hát những tuồng tích như Cánh Buồm Đen, Phàn Lê Huê giải giá Thọ Châu…. Những dịp đó, khu chợ như ngày hội. Khoảng ba, bốn giờ chiều, trống bắt đầu nổi lên, con nít chạy nhảy, la hét. Trước khu chợ, những sạp bày bán đủ thứ: khô mực nướng, bắp nướng…
Sau khi họ rút đi, dân làng mất một ít cô con gái mê cải lương. Những năm đó, ngoài gánh hát bội, cải lương, chớp bóng, dân làng hông có gì để giải trí vui chơi. Gặp dịp có đám giỗ, đám cưới họ tụ họp đờn, ca vọng cổ kéo dài hai ba ngày thâu đêm suốt sáng. Ngoài ra còn cúng đình cũng sập sình sập sọe mất mấy ngày. Thằng Xuân biết cả làng chỉ có một người- Chú Bảy Nghiêm- có máy hát hình ống loa hiệu con chó, lâu lâu phải lên dây thiều bằng tay, dĩa to bằng cái rổ quảo, hát các tuồng cải lương, giọng nghe chan chát. Đâu có ai có được cái radio để nghe tin tức và ca nhạc. Và Xuân tin rằng chẳng ai biết mặt mũi cái máy thâu thanh nó như thế nào!
– Sao bây về trễ dậy?
– Dạ, nhà trường cho lớp chị Sáu ở lại làm cái gì đó. Con cũng hông biết nữa, Tía.
Vân liếc mắt ngó Khanh thầm nói: chị phải cám ơn em nha.
– Còn thằng Xuân, mầy cũng mới dìa hả.
– Dạ, con mới dìa chú. Chú thím mạnh giỏi hả?
– Tụi bây cơm nước gì chưa?
– Chưa, Tía. Chị Sáu chỉ hối đi sớm nếu hông nắng lên. Nóng lắm Tía à.
– Bà ơi! Coi còn cái gì hôn, cho tụi nó ăn ba hột.
Bà Sáu Xe dọn bữa cơm ra với cá bống dừa kho tiêu mằm mặm, ngòn ngọt và béo, tô rau cải trời luộc và tộ nước dừa xiêm tươi. Chở Khanh từ sáng đến giờ, Xuân đói bụng, thêm nước dừa váng cháo chua chua thay canh nên nó ăn rất ngon… Cơm nước vừa xong. Khanh và Vân đem chén, tô ra rửa ngoài mương và úp lên xống chén làm bằng sống dừa.
– Con Khanh vào đây tao biểu.
– Dạ, Tía
– Mầy với Má mầy lo chuẩn bị ngày mai đám hỏi.
– Đám hỏi ai vậy hả Tía?
– Đám hỏi mầy chớ ai nữa, mà còn hỏi. Tao đã hứa với gia đình Tư Thép bên ấp bốn. Hổm rày còn đợi bây. Để chút, tao đi báo cho họ. Ngày mai họ đem trầu cau qua.
– Tía! Sao Tía hổng hỏi con chút nào hết dzậy. Con còn đang đi học mà Tía. Con chưa muốn lấy chồng.
– Học hành gì nữa con ơi. Mầy lớn chồng ngồng rồi. Mười tám tuổi rồi chớ còn nhỏ nhen gì nữa. Tao cho bây đi học là chưa có ai hỏi. Bây giờ có người hỏi thì tao gả. Gái vườn mà bước qua hai mươi là ế đó con. Coi! Chưa gì hết mà bây bí xị, mặt mày xanh như tàu lá và khóc mếu máo dzậy.
– Tía. Cho chị Sáu học hết năm tới, chỉ đi thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp, rồi làm cô giáo như anh Năm dậy Tía.
– Tía! Con năn nỉ Tía. Như Vân nói, Tía cho con học thêm một năm nữa đi Tía! Nghen Tía! Con mới mười tám tuổi mà.
Nói vậy chớ thực ra, Khanh có biết tuổi mình là bao nhiêu đâu? Ở nhà quê, sanh ra trong thời chiến tranh, làng xã thường bị đốt đi đốt lại tới ba bốn lần. Sổ bộ bị thất lạc. Cha mẹ hông nhớ ngày sinh chính thức của con cái. Họ chỉ nhớ đại khái là, ờ con nhỏ nầy hình như nó tuổi con Gà, thằng kia tuổi con Rồng, hoặc là tui sinh con Khanh ra năm Ba thằng Nhữ đi vào đâu trong Khu Chín? Ngày tháng thì họ mù tịt. Hỏi bà Nội hay bà Ngoại thì may ra họ cũng nhớ là hình như mày sanh ra lúc rằm tháng mười hay là, tao nhớ hình như lúc đó là con nước rong tháng chín. Rồi sau năm 1954, lúc cho con cái đi học. Tụi nó cần khai sinh thì mới ra làng gặp hương Bộ. Như hương Bộ Đời ở làng Lương Quới. Ổng hỏi thì biết đâu mà lần: năm con Gà lớn hay con Gà nhỏ…. Ở cái thời quỷnh tẹt và cái thời Bảo Đại còn làm trùm, ai có biết con Gà nào và con Rồng nào! Ổng nhẩm tính trên bàn tay rồi ghi vào sổ. Tới khi đi học, ra làng xin giấy khai sinh, tá hỏa tam tinh mới biết mình sinh ngày, tháng, năm nào! Đôi khi còn có cái tréo cẳng ngỗng. Tên Mai nhiều khi biến thành tên Mơi, vì trong làng kiêng cử tên Mai!
Khanh vẫn còn khóc thút thít.
– Tao đã hứa với người ta rồi. Thôi nín đi con. Lo phụ với má mầy chuẩn bị đám hỏi.
Khanh hông dám nhìn Xuân, hông dám cải lại ông Sáu Xe, nhưng nước mắt ràn rụa. Phùng Xuân đứng kế bên, hông nói được lời nào. Trong lòng chàng đang rối rắm, tự hỏi có nên nói một vài tiếng với ông chú nầy hôn.
Thực ra gia đình Phùng Xuân hông có bà con họ hàng gì với chú thím Sáu Xe, chỉ là quen biết nhau trong làng. Còn chuyện yêu thương giữa chàng và Khanh là chuyện thầm kín giữa hai đứa từ bao lâu nay, hông có ai biết được. Nếu chuyện lộ ra, có thể Khanh bị đòn. Ông Sáu Xe có khắt khe trong việc tiếp xúc giữa trai và gái? Và hôn nhân con cái thường do cha mẹ Khanh định đoạt? Cũng có chuyện yêu thương lăng nhăng trong lúc còn đi học, nhưng phải dấu diếm, vì mắc cỡ, vì sợ người ta nói vô nói ra. Bọn Khanh, Vân lên tỉnh học thì tình cảm trai gái hơi mới mẻ hơn chút xíu. Một số ít cũng cặp bồ, cũng tình tứ theo kiểu “tự lực văn đoàn”. Nhưng ở tỉnh lẻ khó có thể hẹn hò ra một nơi vắng vẻ nào đó. Và chuyện quan hệ xác thịt nếu có xảy ra thì bùng nổ một cách mãnh liệt; lỡ có bầu bì với nhau thì rủ nhau bỏ trốn. Xuân có nên nói ra hông và nếu nói thiệt, liệu ổng có gả Khanh cho chàng hông? Ổng có e ngại về gia đình mình hông?
Gia đình Xuân có tiếng chớ hông có miếng. Ông nội chàng là Hội Đồng trong làng. Một chức việc phải mua mới có thì có gì là danh tiếng. Phùng Xuân hông hiểu sao người ta lại trọng vọng gia đình chàng. Đó là hồi nẫm kìa! Hồi thời năm 1940-1950… Bà nội cho các chú, các cô lên Sài Gòn học. Các cô học trường Áo Tím. Nhưng mà nghe đâu các cô học hông nhiều, chỉ đến première année hay deuxième année gì đó rồi về quê lấy chồng.
Còn ông Bảy Mi theo Cao Đẳng Sư Phạm (École normale supérieure). Học được nửa chừng, gặp lúc phong trào Nguyễn An Ninh, cả trường bãi khóa. Ông Bảy Mi bỏ học, theo kháng chiến chống Pháp khoảng năm 1946.
Từ đó gia đình dọn về Lương Quới, cất một căn nhà lá phía bên kia đường đối diện nhà Bà Nội. Hai vợ chồng nhờ tiền của Nội, sắm một chiếc ghe bầu. Hồi đó ghe bầu còn vô được rạch bên hông nhà, vào đậu ở cái búng to rộng rình trước chùa. Họ mua trái cây như chuối, chanh, mận từ làng đem lên Sài Gòn. Rồi bổ hàng bí rợ đem về bán cho chợ làng. Đâu có ai ăn bí rợ dữ vậy? Bí rợ chất đầy cả nhà. Thầy cò mi làm sao có được mánh lới như con buôn? Họ bị lỗ vốn rồi bỏ nghề.
Đêm đêm thằng Xuân có dịp nằm cạnh bà cô Năm, bên ngọn đèn chong leo lét, nghe cái giọng ê a đọc đủ loại truyện Tàu của bà cô chưa học hết lớp ba trường làng. Nhà Nội có đủ loại truyện: Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Thuyết Đường, Tây Du, Tam Quốc, Đông Chu Liệt Quốc… do các cô, chú mua từ Sài Gòn.
Xuân còn nhớ ngày chàng đi học. Buổi sáng hôm đó chàng khóc sướt mướt, dùng dằng hông chịu đi. Bà Bảy Mi phải đứng đợi từng chặp. Đi học thì còn thời giờ nữa đâu để mà đào trùng câu cá bống dừa, còn thời giờ đâu nữa để mà tối ngày móc bùn nắn tu na, chim cò!
Ngôi trường làng Lương Quới sao mà nó bự vậy! Trường lợp ngói, cất trên thềm cao. Bà Bảy Mi (Bà Bảy Mi và bà Ba Đầm cũng là một người. Ở quê miền Nam, người ta gọi tên người tùy theo quen bên nội hay ngoại) nói với ông Hiệu Trưởng: “Cho tôi gởi con anh Bảy đi học”. Đứng nói chuyện một lát với vài người chung quanh rồi bà Bảy Mi bỏ ra về. Xuân chạy theo, nhưng ông Hiệu Trưởng nắm tay Xuân dắt vào lớp và nói với thầy giáo: “Cháu bà Hội Đồng, con anh Bảy Mi”. À ra, danh giá thời xưa còn lại là cháu bà Hội Đồng Nhượng và con ông Bảy Cò Mi. Chớ bây giờ sau bao năm chiến tranh, các con ly tán. Nhà bà Nội bị Tây đốt cháy mấy ngày sau mới tắt, ruộng vườn tan hoang thì còn gì nữa? Gia đình Phùng Xuân bây giờ hông có một miếng đất để cặm dùi. Bà Bảy Mi phải đi buôn gánh bán bưng, đôi khi phải may quần áo dối cho chợ, nuôi đàn con năm đứa nhỏ nheo nhóc thì có gì là danh giá nữa?
Xuân đành đứng yên lặng nhìn người mình thương mà chẳng nói được một lời nào. Khanh lấy tay quẹt nước mắt ràn rụa, nghẹn ngào; thỉnh thoảng hỉ mũi một cái và nấc lên một tiếng như nấc cụt…
Nằm trên bộ ngựa gõ rộng, Xuân lăn qua lộn lại hông biết bao nhiêu lần. Trăng đã lặn. Đêm chắc khuya lắm. Tiếng vạc sành sạt sạt sát bên hè. Tiếng dế nhủi nhin nhít hòa với tiếng dế chó che che nghe rõ mồm một. Có tiếng mũi hin hít. Hình như Khanh đang khóc. Làm sao bây giờ? Làm sao thoát khỏi tình trạng nầy? Tiếng muỗi vo ve bên lỗ tai làm cho chàng hông ngủ được. Đêm nay ngủ hông mùng cũng hông mềm, chỉ có chiếc chiếu lác mỏng. Chàng bị muỗi chích lia chia nên quơ tay đập lia lịa. Xuân liền cuốn mình trong chiếu, mong muỗi hông thể cắn được, nhưng chiếu quá thưa, muỗi vẫn đưa vòi được qua kẽ chiếu. Quá mệt mỏi, Xuân ngồi dậy nhìn đống un. Lửa đã tắt từ lâu. Xuân khều khều thử, may còn chút than miểng gáo nằm dưới đáy. Xuân bươi nhẹ ra, xé một miếng xơ dừa bỏ vào. Than bắt đầu ngún. Xuân thêm xơ dừa, than phừng lên. Xuân vội vàng bỏ thêm vỏ dừa vào. Khói bùng lên tràn ngập căn nhà.
Xuân ngồi im lặng nhìn khói trắng bao phủ quanh mình, nghĩ ngợi mông lung. Rồi mối tình của Khanh và chàng cũng tan mau như những làn khói nầy? Cảm giác nhiều lần ái ân ngất ngất đêm qua làm chàng đau khổ và hối tiếc thời gian qua mau. Khói tan rồi còn lại đống than đỏ rực và vài ngọn lửa nhỏ. Muỗi vo ve trở lại. Ngồi đây hoài suốt đêm đuổi muỗi? Ngồi đây hoài than thở cho mối tình tan vỡ? Phải chi thời gian dừng lại ở đêm hôm qua? Làm gì để kéo níu trở lại? Chỉ là hối tiếc thôi sao? Ôi thời gian! Thời gian quái ác! Sao hông dừng lại ở đêm hôm qua cho mình tận hưởng trọn vẹn ân ái mặn nồng? Thời gian vẫn trôi và có tiếng gà gáy canh hai xa xa từ bên nhà hàng xóm. Chàng gục đầu vào hai gối nhìn đống than từ từ lụn mà quên đàn muỗi vo ve bu quanh hai mang tai.
Khanh vùi đầu vô cái gối mỏng còn lộm cộm hột vì dồn bằng bông cây gòn. Từ đầu hôm đến giờ Khanh hông ngủ được, khóc rấm ra rấm rứt tức tưởi. Sao mình hông lấy được anh Xuân? Con người mà mình yêu thương từ đó đến giờ. Liệu mình chống lại được lịnh của Tía hông? Tía Má chắc từ mình quá? Bỏ nhà trốn đi theo ảnh? Mà mình với ảnh đã có…với nhau rồi mà! Làng xóm họ đàm tiếu hai ông bà già, hai ổng bả chịu sao nổi? Trời ơi! Sao khổ quá vậy nè trời?…
Xuân uể oải đứng dậy. Cầm một miếng than nhỏ, bỏ vào miếng vỏ dừa, chàng dời đống un đến gần võng. Võng đong đưa kẽo kẹt trong đám khói. Xuân thiếp đi và ngủ quên được một lát rồi chàng giựt mình thức dậy. Ngoài vườn vừa có tiếng dừa khô rụng đánh bịch và tiếp theo là tiếng tàu dừa rơi nghe xào một cái. Đống un đã tắt ngúm. Xuân bước lại bộ ván, xoa xoa hai bàn chân phủi bụi rồi nằm gối đầu lên trái dừa điếc. Sơ dừa làm chàng nhột nhạt nơi cổ. Và muỗi lại vo ve bên tai. Xuân quơ đại cái áo thun dơ hồi lúc chiều chưa kịp giặt, còn nồng nặc mùi mồ hôi, trùm kín mít lên đầu và thiếp đi cho đến khi chàng thức dậy vì tiếng nói của chú Sáu Xe và tiếng động dao động thớt ở dưới nhà sau.
– Bây lựa hai con vịt nấu cháo, hai con gà giò nấu cà ri phụ má mầy. Ra bắt sớm đi con, để chút nữa hừng đông là tụi nó đi mất, khó bắt lắm. Còn con Vân lo đi mua bún, rồi về chuẩn bị nấu nước nôi pha trà đãi khách. Để Tía lột dừa rồi nạo cho.
– Bộ họ qua sớm hả Tía?
– Ờ! Họ qua sớm. Nghe đâu về rồi phải đưa ông Tư Thép đi nhà thương. Ổng bị bịnh gần cả tháng nay rồi.
– Ổng bị bịnh gì dzậy Tía?
– Bịnh gì cả nhà cũng hổng biết. Cứ nóng lạnh lên xuống hà rằm. Ăn vô ói ra. Chút nữa, thằng chồng bây qua, rồi bây hỏi nó.
– Ảnh tên gì Tía?
– Thằng Ba Đẹn.
Xuân ngồi trên bộ ngựa, nhìn thấy Khanh xụ mặt qua ánh đèn dầu leo lét. Xuân thấy tội nghiệp cho Khanh, tới bây giờ mà chưa biết tên tuổi và mặt mũi người chồng sắp cưới của mình. Chàng liếc nhìn Khanh. Hình như có hai dòng nước tuôn ra từ đôi mắt nàng.
– Xuân! Mầy uống với tao một chén trà cho tỉnh người, mậy. Trà con Khỉ đó mầy!
Chàng biết trà xanh con Khỉ ướp bông lài Mỹ Lồng. Trà nầy thường bán ở con đường giữa chợ Bến Tre. Nước màu xanh trong chén trà bốc hơi. Xuân nhấm một hớp. Mùi bông lài ngào ngạt. Vị trà chan chát, đăng đắng. Nước trà nóng trôi đến bao tử. Hơi ấm lan dần trong cơ thể. Xuân cảm thấy lâng lâng.
Ngồi nhìn ánh đèn chập chờn, chàng nghĩ ngợi mông lung. Mới năm nào, ba đứa Antoine-( con anh Hai Huynh, lớn hơn Xuân đến ba tuổi mà kêu Xuân bằng chú; quen nhau nhiều chỉ kêu tên thôi. Sau nầy, có bằng trữ dược viên, mở nhà thuốc Tây ở Mỹ Lồng), Hai (con chú Bảy Nghiêm. Nhà bên hông vườn Bà Nội)- và Xuân cứ mỗi buổi trưa hè mùa bãi trường hay ngồi uống trà xanh con Khỉ ở nhà Antoine. Hết bình trà nầy đến bình khác, ba đứa nói đủ thứ chuyện: chuyện làng xóm, chuyện học hành, truyện Tàu, chuyện văn chương Việt Nam……
– Anh Ba ngồi uống trà với Tía em. Bây giờ em còn phải đi chợ mua bún
– Cho anh đi với.
– Đợi em đi bó đuốc.
– Để anh bó cho. Ba cây được hông?
– Nhiều lắm. Hai cây đủ rồi. Anh bẽ hai ngọn tàu lá dừa rồi bó thành hai cây dài là mình đủ đi đến ngoải.
Xuân mồi lửa rồi giành cầm đuốc. Chàng quơ lên quơ xuống. Chập chờn ánh sáng bóng đêm. Đuốc lửa trắc tréo men theo đường mòn. Chưa quen đường đêm, Xuân dò dẫm theo bước chân của Vân. Đôi khi vấp mô đất cao, Xuân suýt té. Những bụi lứt, bụi sậy, đám quao có trái cong vòng mọc lấn ra đường thù lù như hình người làm chàng giựt mình. Hàng dừa tơ cao bằng đầu, lá dừa ngáng ra giữa, chàng phải cúi mình chui qua. Phùng Xuân nhìn lên cao, qua những ngọn dừa lão cao nghệu, sao đêm đang trôi chầm chậm về Tây. Trời sắp sáng. Có một vài tiếng cu đất gáy từ xa xa.
Hai người ra đến đường làng. Vân đi lẹ. Xuân vung đuốc cao. Lửa bập bùng. Phía trước và sau, xa xa có vài ánh đuốc lập lòe như ma trơi, nhìn tưởng chừng như lăn tròn trên mặt đất.
– Vân nè?
– Gì anh Ba.
– Tại sao Khanh chịu lấy chồng sớm vậy?
– Sao anh hông hỏi chỉ. Lại hỏi em.
– Đêm qua hai đứa chui vô mùng sớm. Làm sao hỏi được.
– Tía sợ chị Sáu ế chồng. Anh nghĩ coi. Thời buổi nầy, con trai ở nhà quê lớn lên đi học cho có chút chữ nghĩa rồi còn ở nhà lo chăm sóc vườn tược nữa chứ. Thành thử tụi nó đâu có đi học bao nhiêu. Con gái học cao ở quê, trai nào dám cưới.
– Vậy chớ chồng Khanh, Ba Đẹn, học đến lớp mấy rồi?
– Hồi hôm nghe má nói chồng chỉ học hết lớp ĐệThất rồi về nhà lo coi khoảnh vườn của Tía ảnh. Thì anh coi, trai vườn tối ngày chỉ lo làm cỏ, bồi mương và tới lứa lo giựt dừa.
– Rồi hổng làm gì cho có tiền nữa sao?
– Có làm gì đâu ra tiền. Có đám nào giỏi, làm chông bắt cá tép chút đỉnh để vợ đem ra chợ bán.
– Vậy là cũng nhàn nhã?
– Có đám tiệc, giỗ quảy thì lo phụ. Xong lại đờn ca hát xướng, nhậu say be bét. Có đứa hiền về nhà im re; còn có đứa nhậu đã về nhà chửi vợ mắng con.
– Có vậy mà con cái cũng đầy đàn đầy đống.
– Còn em?
– Sao anh hổng hỏi tới chuyện chỉ nữa đi?
– Hỏi gì nữa em.Khanh đã chịu vậy. Thì anh biết làm sao nữa.
– Đêm qua chỉ nằm kế bên em mà khóc thút tha thút thít hoài. Em kêu chỉ nín đi mà chỉ hổng nín. Sáng nay bụp mắt mà Tía thấy là đố khỏi ổng rầy cho coi.
– Sao Khanh khóc dữ vậy?
– Sướng chưa! Bây giờ mới hỏi vậy. Chắc tại chỉ thương ai đó.
– Lúc đi học ở BếnTre?
– Chắc vậy?
– Em biết người đó chứ?
– Em biết.
– Trong đám bạn Khanh?
– Hông phải.
– Anh đâu có ở Bến Tre thường. Một năm anh mới về một vài lần mà. Em nói cho anh biết đi.
– Hổng có nói bây giờ. Bật mí hết. Để sau khi làm đám cưới hả.
Xuân im lặng. Chàng nghĩ: con nhỏ nầy chắc biết chuyện Khanh và chàng thương nhau. Cũng có thể lắm? Nhiều khi Vân nói đon nói ren hoài…
Một hai nhà đã thức. Bếp đã đỏ lửa. Giờ nầy đám đờn ông nấu nước pha trà vì có tiếng nói rổn rảng và tiếng cười ròn tan. Hai đứa đi qua một vài nhà có chó. Tiếng sủa inh ỏi, vang rền cả một khu vườn. Đột nhiên, một con chó từ trong nhà chạy sát ra đường sủa to liên hồi rồi hực một tiếng.
– Vân! Làm gì vậy?
– Anh! Em sợ chó.
– Thì em cứ đi đi. Nó sủa chớ hổng có cắn đâu. Đi đi. Làm gì mà hoảng hồn dữ vậy?
– Em sợ chó mà!
– Sợ thì sợ chớ sao ôm anh cứng ngắc, hổng chịu buông ra vậy?
– Xí! Đồ thấy ghét. Lãng nhách! Ai thèm ôm anh hồi nào!
– Nó. Lại giận nữa rồi. Ở đằng trước tối thui. Coi chừng ma bắt bây giờ đó nghe!
Vân ngoe nguẩy bỏ đi te te thật xa. Xuân nghĩ chắc con nhỏ nầy muốn sanh sự…
Hai người tới đình Lương Quới thì cũng vừa tàn cây đuốc thứ hai. Hồi nhỏ, thằng Xuân ít khi vô đền vì trong đền tối âm u, chỉ thấy gươm giáo và mấy con hạc, con rùa. Nó đi vòng ở ngoài ra đến cây trôm. Nó chặt lấy mũ đem về cho Bà Nội. Hồi đó cây trôm to lắm, gốc khoảng một người ôm và hông biết mọc từ lúc nào. Muốn vào cây trôm, phải lách lau sậy. Thiên hạ đồn có nhiều rắn thần để giữ đình, nhưng nó đâu có ngán! Cái thằng Xuân trời đánh, tung hoành lục tặc, tối ngày mình trần trùng trục, hay phá làng phá xóm. Đi cả đám ngang vườn mía tây vàng ươm là Xuân nhảy vào bẽ cái rụp rồi chia mỗi đứa một khúc. Ổi thì khỏi nói, cho tụi bây ăn líp ba ga. Làm như ta đây là chúa đảng hông ai bằng. Mỗi lần bị mắng vốn: “Chị Bảy: Thằng Xuân ….” là mỗi lần bị đòn nhừ tử. Roi mây, roi tre bà Bảy quất túi bụi. Nó chỉ có dang tay đỡ rồi chạy trốn, chui vào bụi cây lùm cỏ khóc thút thít cả buổi trời. Nghe bà Bảy, chị hai kêu về ăn cơm nhưng nó cứ ngồi lì cho đến sẩm tối. Nói vậy chớ đánh đòn xong, lần nào bà Bảy cũng lấy dầu cù là MacPhsu xức vào những lằn roi ngang dọc rồi hai mẹ con ôm nhau khóc thút tha thút thít. Lần bị đòn đau nhứt là lần Xuân nhảy lên thoi vào bụng Sếp Hết. Ổng nhậu say ngà ngà. Gặp hai anh em nó, ổng đưa hai tay bóp cổ thằng Quang, em Xuân. Nó nhảy lên thoi ổng hai thoi rồi hai đứa bỏ chạy. Ổng theo riết. Tao mét chị Bảy là mầy dám đánh tao. Bà Bảy đánh cho đã nư vì có ổng đứng đó coi và bà Bảy sợ ổng trả thù. Ổng biết ông Bảy đi kháng chiến chống Tây…
Gà gáy canh ba. Chợ Lương Quới bắt đầu nhóm. Mỗi một người bán là một ngọn đèn chông. Có người có sạp. Người hông sạp thì lót lá chuối bày hàng trên mặt đất. Một số người buôn sĩ để sẳn trong thúng như chanh, chuối, cam, ổi, bưởi. Họ thường là dân xóm trong, ở ấp cô Xanh bên Lương Hòa, hay Lương Phú ở bên kia sông Bến Tre. Họ bán mảo cho bạn hàng chợ quận và chợ tỉnh, cho nên mỗi lần xe đò đến là người đông tấp nập. Xe đò Ba Tri lên sớm thường chở cá và tôm thẻ. Cá thì có mùa, khi thì cá đuối, cá rựa, cá lù đù. Những loại cá rẻ tiền mà Bà Bảy thường hay mua. Cá đuối thì nấu cà ri dừa, ăn béo ngậy. Cá rựa thì ướp sả chiên, nhưng phải khứa khứa cho nhỏ ra vì nó rất nhiều xương. Cá lù đù kho khô. Đặc điểm của món ăn Bến Tre là cái gì cũng có nước dừa tươi và nước cốt dừa. Đến món cháo trắng cũng có nước cốt dừa: món mà ông Bảy thích nhứt.
Những năm đó chợ Lương Quới sung túc vì ở Ba Châu lên và Lương Hòa, Lương Phú đổ ra. Thành thử khu chợ nhỏ mà đã đông từ khuya. Bạn hàng nườm nượp đã đành mà người mua cũng nhiều. Họ tranh nhau đi sớm để mua được những món hàng rẻ mà tươi. Hơn nữa còn hành khách đi xe cũng tụ về đây. Họ đi sớm lên tỉnh có công việc hoặc lên Sài Gòn thăm bà con. Từ Châu Bình- vùng Ba Châu- phải thức dậy từ gà gáy canh một thì canh ba đi bộ mới đến Lương Quới. Những năm đó cũng có xe đò Bến Tre- Châu Bình, nhưng mỗi ngày có một hay hai chuyến. Còn muốn đi đò máy qua MỹTho thì cũng phải thức dậy từ canh hai. Đò máy chạy sình sịt tới trưa mới đến Mỹ Tho. Muốn đi mau, chỉ có cách là lên xe đò ở Lương Quới đến Bến Tre thật sớm, ngồi xe Á Đông lên Sài Gòn.
Vân và Xuân đi ngay lại chỗ bác Năm Học bán bún và giá đậu xanh.Vân mua được một cái củ hủ dừa. Trời còn quá sớm nên chưa có bún. Những ánh đèn dầu mù mờ. Những cái đầu đội miếng khăn có khi trắng, có khi có sọc. Nếu hông có tiếng ồn ào thì chợ về đêm toát lên vẻ âm u của một ngôi chợ ma…
Trời hửng sáng. Bận về Vân đi sát bên Xuân, thỉnh thoảng nhìn chàng cười chúm chím và hai má ửng hồng