- 2 -
Đồn Mỹ Hội, quận Đất Đỏ, do một Trung Đội của Đại Đội 612 Điạ Phương Quân trấn giữ. Đây là ngõ thông từ Mật Khu Mây Tào, Xuyên Mộc đi về Mật Khu Minh Đạm.Từ đó, VC có thể dễ dàng qua Long Hải, cù lao Long Sơn, Rừng Sát và xâm nhập vào SàiGòn.
Xuân vừa chợp giấc được một chút. Lúc đầu có nhiều tiếng nổ lớn, sau đó là súng AK 47 nổ dòn. Rồi liền đó vang rền đều đủ các loại. Don Porter, Xuân và ông Hom đứng dưới rặng dừa nhìn về phía đồn Mỹ Hội.
– Chết rồi. Nó đánh đồn Mỹ Hội. Súng của VC nổ nhiều hơn. Chắc mộtTiểu Đoàn? Trong đồn bắn trả ra ít quá.
– Sao Thiếu Úy biết?
– D 445 VC hoạt đông thường xuyên ở Mật Khu Minh Đạm mà. Thì chắc thằng Tiểu Đoàn nầy đánh chớ ai. Nó nhổ cái gai chận hộng nó qua lại Xuyên Mộc về Sài gòn. Tui nghĩ chắc có thêm hai đại đội C 25 và C41(Châu Đức) ở cù lao Long Sơn. Trong đồn chỉ có một trung đội à, ông Hom. Còn Đại Đội trừ đóng gần mình đây, ở Bờ Đập.
– À, mà nầy, còn mấy bà vợ lính nữa. Đụng trận mấy bả cũng cầm súng bắn như ai. Còn mấy thằng nhóc, con lính trong đồn. Tụi nó tiếp đạn. Đường cùn thì phải liều chết để mà sống chớ, Thiếu Úy!
– Chắc ông nói đúng đó.Tui nghe bây giờ súng trong đồn bắn ra nhiều hơn lúc nảy.
Chàng Trung Úy Don Porter cao lớn, đẹp trai, có bộ ria cá chốt giống như Clark Gable. Don ít nói, chỉ lặng lẽ đi theo Xuân hơn tuần nay. Thỉnh thoảng, Xuân có hỏi gì thì Don mới trả lời? Ban đêm, Xuân ngủ chỗ nào là Don và người Trung sĩ mang máy C-25 nằm ngủ kế cận. Vì Don ít nói, nên thường ngày câu chuyện qua lại chỉ là gia đình, con cái và quê hương của Don ở tận nước Mỹ xa xôi. Hông hiểu sao, cách đây mấy hôm, Don đem tặng Xuân nhiều cuốn sách của Clausewitz và Ludendorff. Don biết Xuân là lính nhà nghề hay là muốn Xuân biết về chiến thuật của Tây Phương? Phùng Xuân đã chán ngấy khi nghe Nguyễn Thanh Liêm nói về vấn đề nầy rồi mà? Don có hiểu gì về chiến tranh du kích ở Việt Nam chưa?
Pháo binh của Tiểu Khu rót xuống thưa thớt, hông đủ sức chận sự tấn công dồn dập của VC. Đồn có lẽ sắp bứt. Trái sáng soi rọi chập chờn. Trong đồn bắn ra càng quyết liệt hơn. Toàn là Garant, Carbine, Trung liên Bar, chắc hông cự lại được với AK 47, B40…
– Rồi! rồi! Hoả Long lên kia rồi!
Những hỏa châu từ chiếc C- 47 bung ra, bay lững lơ như những lồng đèn giấy to trong các ngày Vía của đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Bầu trời rực sáng như ban ngày.
– Thiếu Úy, nó khạc đạn như vậy còn gì người và cây cỏ ở dưới.
– Chà! Nó gầm như bò rống. Ục… Ục… Ông Hom có nghe hôn?
– Tia lửa đạn khạc có vồng giống như mình nhậu say mữa ụa ụa, té ra có vòi.
– Đâu có. Giống như rồng phun lửa.
Chiếc C-47 bay rề rề vòng vòng quanh đồn, bắn xuống liên tục. Từng vòi rồng lửa hiện ra. Hỏa lực quá mạnh. Chắc cây cỏ dưới đất hông còn gì?
Don Porter ngồi bệt dưới gốc dừa. Tiếng máy truyền tin C-25 chạy rè rè, lâu lâu vang lên một tiếng Roger. Xuân và ông Hom đứng trên đường làng. Bóng họ đung đưa ngã dài theo những trái sáng trên bầu trời. Những người dân làng tuôn ra đứng trước sân nhà xem chiến trận xảy ra như màn kịch. Tâm trạng mỗi người mỗi khác. Phe thân VC tỏ ra bồi hồi lo lắng. Làm gì họ hông có người thân trong đó. Phe Quốc Gia thì mong cho người trong đồn bình yên, hông bị VC tràn ngập.
Ôi! Cuộc chiến ngộ nghĩnh, giống như tuồng cải lương. Don Porter dửng dưng nhìn đám con nít chạy lăng quăng trên những đồng ruộng khô, la lối om sòm, tranh nhau lượm dù trái sáng. Chắc nó mơ màng nghĩ đến pháo bông ở nơi quê hương thanh bình của nó. Ôi! Cuộc chiến lạ lùng. Hai bên bắn nhau, người người xúm coi!
Khoảng nửa giờ sau, tiếng súng của VC giảm thấy rõ. Súng trong đồn bắn ra cũng thưa dần.
– Hòa! Tiểu Đoàn có gọi gì hôn?
– Dạ hông. Họ cũng im lặng như mình.
Đúng rồi! Tất cả mọi người đều nín thinh xem hai bên đánh nhau! Súng đạn cổ lỗ sĩ đệ nhị thế chiến của phe tư bản chọi lại với vũ khí tối tân phe cộng sản. Than ôi! Đau khổ cho dân tộc tôi, đem những cái bị thịt làm trò thí nghiệm, giống như những giác đấu thời La Mã, giống như những con thú động đực điên cuồng cấu xé nhau. Xuân biết mình sẽ bị cuốn trôi theo mệnh nước. Mình có thể cố gắng lội ngược dòng để bảo vệ tổ quốc yêu dấu nầy hôn?
Những chiếc C- 47 thay phiên nhau bao vùng cho đến khi tiếng súng hai bên ngưng hẳn. Dân làng biết trận chiến đã chấm dứt nên đã vào nhà từ lúc nào. Xuân dựa lưng vào gốc dừa, thiu thiu ngủ.
Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn 3/43 của Đại Úy Lã Huy Bật chỉ huy lục soát và giữ an ninh cho hồi kết cuộc. Lễ gắn lon và huy chương các binh sỹ trong đồn. Các bà vợ lính, các chú nhóc con họ, được tưởng thưởng.
Khoảng trăm người nằm chết la liệt quanh đồn. Một bị thương còn sống sót, tính quăng lựu đạn vào các ông Sỹ Quan Tiểu Khu, đi quan sát trận địa, nhưng hông còn sức. Ai nấy chết điếng người. Hú hồn…. Nó mà liệng thì…
– Nó mà liệng thì chắc có mầy trong đó, đó Hách. Vì mầy là trưởng ban Ba Tiểu Đoàn. Làm gì hông đi trong đám đó?
Thiếu Úy Hà Công Hách–cùng khóa với Xuân- vui vẻ cười khì khì.
Trong khoảng thời gian đó, vào một buổi sáng, khoảng tám giờ, VC tấn công một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân ở Bắc quận Đất Đỏ, giáp Long Tân. Tiểu Đoàn đóng trong nhà dân chúng, nơi vùng đầy nhóc VC ở lẫn trong dân. Buối sáng, binh lính tuôn đi chợ, ra quận cà phê, cà pháo, hông mang theo súng đạn.VC đột kích. Lính chạy về, ngơ ngơ trên đường, làm mồi cho những tràng đạn vô tình giết người. Ở những nơi như vầy, dân là VC, VC là dân. Làm sao phân biệt được? Hông lẽ giết hết dân khi mà VC dùng dân như cái bia đỡ đạn. Kinh nghiệm sống chết chỉ trả bằng xương máu trong cuộc chiến nầy.
– Thiếu Úy. Ông Ba Tia, ở gần cuối bờ ruộng rià làng, mời Thiếu Úy ngày mai tới nhà ổng.
– Chuyện gì vậy ông Hom? Mà ông tủm tỉm cười.
– Ông mời Thiếu Úy đến làm chủ hôn để ổng gả con gái ổng cho thằng Ơ.
– Ủa! Sao lạ vậy. Tui đâu biết gì?
– Thì ổng nói. Thiếu Úy là cấp chỉ huy trực tiếp nó, lớn nhứt ở đây. Coi như Ba Má nó thì Thiếu Úy làm chủ hôn được rồi.
– Trời đất! Tui đâu biết gì?
Mà Phùng Xuân hông biết thiệt. Nhưng đám lính trong đại đội biết. Đêm đánh đồn Mỹ Hội, binh nhì Ơ, cái thằng lù khù ôm cái lu mà chạy, rù rù được cô thôn nữ Tím ra cánh đồng. Nhờ ánh hỏa châu soi sáng, hạ sĩ Độ nhìn thấy hai đứa xà nẹo, nhảy từng tưng ở bờ đê cho đến gần sáng. Mấy hôm nay, đám lính đồn rùm lên. Ông Ba Tía nghe được. Ổng biết là hủ mắm của ông đã bị khui- hay là nói như thằng Mừng, chậu cá lia thia của ổng bị thằn lằn đút đuôi vô quậy rồi- nên ổng mau mau làm đám cưới cho xong. Mà thằng Ơ cũng giỏi lắm. Đóng quân ở nhà ông Ba Tia nó làm đủ việc: quay giếng lấy nước, quét sân mỗi buổi sáng… Lính Sư Đoàn có vậy mà ổng hổng gả sao được!
– Ông Hom. Ông dò hỏi coi nó có vợ con gì chưa? Để đến khi làm đám cưới xong rồi, cô vợ lớn hay được đến đánh ghen là hư đường hư bột hết. Tui với ông cũng có lỗi. Mà sao hổng nhắn hai ông bà già nó lên. Tui còn non chẹt mà đúng ra sui gia với ai.
– Nó nói ông bà già nó ở xa lắm. Dân miệt vườn, quê mùa dốt nát, hông biết đường đi.
Xuân biết nhiều ông lính cũng trời ơi đất hỡi lắm. Đi tới đâu cũng hô chưa vợ. Rút cuộc tùm lum, hai ba bà xúm đánh ghen. Chàng thầm nghĩ, mĩm cười trong bụng: chắc thằng nầy nó cũng giống mình lúc ở cánh đồng Mỹ Nhiên? Đụng trận là bốc hốt liền!
Bảng vu qui treo sơ sài ngoài ngõ, chung quanh những chùm bông vạn thọ đỏ, vàng. Căn nhà cũng đâu có gì, trống hoác từ trước ra sau. Đám cưới chắc tổ chức vội vàng nên chỉ kiếm đâu được hai cái bàn tròn, hơn chục cái ghế đẩu. Bàn thờ ông bà có một cái lư hương. Hai cây đèn cầy lớn màu đỏ để hai bên. Khi Xuân và ba người trung đội trưởng đến đã có hơn bốn năm ông lớn tuổi đang ngồi quanh những tách nước trà nói chuyện huyên thiên. Họ cùng đứng lên chào bọn chàng, kéo ghế mời ngồi. Được hơn nửa chén trà, một ông già trọng tuổi đứng lên nói vài lời về buổi lễ cưới hôm nay và nhờ Phùng Xuân đứng đại diện đàng trai. Chàng sĩ quan mới ra trường, mặt còn búng ra sữa, cảm thấy mình quan trọng cũng làm gan đứng lên nói vài lời. Sau đó, chàng tiến về bàn thờ cùng ông Ba Tia lên đèn cầy bàn thờ ông bà. Cô dâu còn trẻ, chắc chừng16, 17 tuổi cùng binh nhì Ơ chào mọi người…
– Cái kiểu nầy đóng quân ở đây lâu, nếu rút quân, chắc cả làng sẽ đưa đám lính của mình đi quá! Có bao nhiêu thằng sẽ là rể của làng nầy hả?
Ly rượu nhứt của nhà chú Mười Đỏ kháp gạo lứt ở đầu làng, cay thắt họng, tuôn tới đâu là muốn xé đứt ruột gan tới đó. Mỗi người mời một ly làm Xuân choáng váng. Một vài điếu thuốc rê nữa sắp sửa đốn ngã chàng. Xuân có bao giờ biết uống rượu và hút thuốc đâu. Xuân xoay mòng mòng. Lần đầu tiên chàng tiếp xúc với dân làng trong vai một sĩ quan quân đội…
Và cứ thế, sau đám cưới đó, nếu có đám giỗ, đám quảy nhà nhà trong làng cứ tiếp tục mời. Từ một ly, hai ly, đến bây giờ Xuân thành hủ hèm. Nhứt là từ khi có Thọ- Trưởng ban Xây Dựng Nông Thôn- về đóng ở làng, họ bày đặt ra rượu mật nhím.Uống vào đăng đắng, ngòn ngọt, cọng thêm gỏi cá biển, làm ngất ngư con tàu đi luôn. Từ đó, chàng sĩ quan trẻ trở nên hư đốn. Chàng biết thêm: uống rượu và hút thuốc lá.
Các quân trường đào tạo quân đội, hông bao giờ có được những bài học phân tích có hệ thống về chiến tranh Việt Nam. Chỉ là những giờ“ Lãnh Đạo Chỉ Huy” của Đơn vị trưởng. Cuộc chiến quái ác, kỳ hoặc. Quân trường hông phân tích về quân sử. Học viên chỉ học chiến thuật cấp tiểu đội, trung đội, đại đội và các môn học hổ trợ theo lý thuyết Tây Phương. Hông có một bài giảng hoặc phân tích về chiến thuật, chiến lược của các danh tướng Việt như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…Và cách ứng sử với dân chúng trong những khu vực hành quân mà chính quyền hông kiểm soát được. Ở đó dân là VC và VC là dân.
Số người chết về bị bắn sẻ, bị mìn bẫy của VC hông phải là ít. Còn du kích chiến nữa chi. Cái gì cũng mù mờ hết. Rốt cục chỉ là kinh nghiệm sống chết của mình trong chiến trường. Nhưng những chàng sĩ quan mới ra trường, còn trẻ, còn hăng say như “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”( Hồ Xuân Hương) mạnh còn hơn bò đá, dễ đổi lấy sinh mạng mình.
Mưa Long Khánh tầm tả, có khi dầm dề suốt ngày. Đất đỏ sền sệt. Ở những con đường nhiều xe chạy, xe nhà binh tuôn ngang qua là sình văng tứ tung. Nhà hai bên con đường từ quán Ba Tiều vào Sư Đoàn quết đầy màu bùn đỏ loét, vẽ nên bức tranh kỳ hoặc.
Phùng Xuân cẩn thận lần bước theo con đường trơn trợt ở sâu trong xóm vắng cuối chợ Xuân Lộc. Bùn nhão nha nhão nhoẹt quền quệt vào đôi giầy càng làm khó đi. Chàng chầm chậm bước, vừa đi vừa suy nghĩ phải nói gì với chị Kim Sa, người vợ vừa mới cưới của Nguyễn Thanh Liêm.
Căn nhà có vẻ im ắng. Cây ăn trái phủ kín trước sân. Sau khi gạt bùn đôi giầy ở cây ngang, Xuân bước vào. Có bóng người thấp thoáng bên hè. Chàng đứng bên chiếc bàn tròn có bình trà và bốn cái tách. Xuân và Liêm thường ngồi uống trà ở đây. Người đàn bà trẻ hiện ra.
– Chào chị.
Chàng chưa nói hết câu. Nước mắt của Kim Sa tuôn ra theo dòng nước trà màu đỏ sậm chị rót vào trong tách. Xuân sợ những giọt nước mắt đó, nước mắt của những người vợ trẻ khóc chồng chết trận. Những giọt nước mắt đã mang nhiều nỗi bất hạnh cho chị Hiền, cho những vợ chàng binh sĩ Úc, cho vợ những người đã chết trong trận đồn Mỹ Hội…
– Sao lâu quá hông thấy anh tới?
– Tiểu Đoàn bận ở tuốt BàRịa.
– Anh Liêm, ảnh chết rồi.
– Tui biết.
Chị Kim Sa gục mặt xuống bàn khóc rấm rứt. Mầy cũng như tao vậy Liêm. Những thằng sĩ quan trẻ hăng tiết vịt, chịu húc càn mà hông nghĩ gì. Mầy rành lắm mà! Clausewitz và Ludendorff của mầy đâu sao hông đem ra xài, để đến nổi mầy bị phục kích trên đường đi phục kích về? Cũng như mầy, tao cũng húc. Mà sao tao hông nghĩ là tao đâu có nhiệm vụ lấy trái mìn to tổ bố gần 20 kg đặt trên đường rầy ở Hưng Nghĩa-Dầu Giây.Vậy mà tao cũng ráng lấy. Tao cho mấy người lính ra xa giữ an ninh. Tao và một hạ sĩ lò mò tìm đường giây bẫy. Tao cắt. Rồi tao còn sợ nó chôn lựu đạn dưới trái mìn, tao lấy giây tao buộc trái mìn. Từ xa, tao kéo được trái mìn lên khỏi mặt đất. Tao thở phào nhẹ nhỏm. Có ngu hôn? Nhiệm vụ đó của Công Binh kia mà. Nhưng hổng hiểu sao tao may mắn hơn mầy, hả Liêm? Để tao còn sống, lấy tiền thưởng 500 đồng-giá trị bằng hai thùng lade lớn và hai ký thịt heo rừng- đãi lính tao một chầu nhậu chưa tới bến.
Những giờ phút đó hình như Yvette đã biến mất trong trí óc Phùng Xuân. Xuân như người ngây dại hoang đàng trong một thế giới khác. Liêm ơi! Có bao giờ một thằng sĩ quan đại đội trưởng như mầy, nghĩ đến người vợ trẻ đẹp khi mầy dẫn toán đi phục kích đêm?
Xuân ngồi thừ một hồi lâu tìm câu nói an ủi người đàn bà còn son trẻ vừa mới mất chồng. Và chàng quên tới bàn thờ đốt cho thằng bạn một cây nhang. Nói gì với người đàn bà đang mang bụng bầu. Điều đó sẽ khêu lại nỗi đau buồn hông bao giờ xóa được, như một vết hằn sâu trong trái tim chị… Chàng cứ ngồi im lặng uống hết mấy chung trà. Chị Kim Sa cúi mặt. Nước mắt nhỏ từng giọt xuống bàn…
Khi Xuân trở về, cơn mưa đã dứt hột. Con đường trở nên lầy lội hơn. Bùn trền trệt như đám trái lười ươi bị mắc mưa. Chàng bước đi nặng nề. Hai chơn bang bang như đi hàng hai cho đỡ bị trợt té. Rút cuộc chàng cũng cà lê cà lết về tới lều. Hậu cứ tiểu đoàn nhỏ xíu. Hổng có trại gia binh. Các đại đội hông có chỗ trú quân. Họ chia nhau từng khu trong vườn cây cà phê, sầu riêng, mít của dân chúng quanh Xuân Lộc. Vành đai ấp chiến lược vẫn còn, nên đóng quân bên trong rất an toàn. Họ căn lều lụp xà lụp xụp dưới những tàng cây, che mưa che nắng. Độc thân chỉ cần một cái poncho và một cái võng là đủ. Những người lính có vợ phải che thêm những tấm ni lông cho rộng ra. Những ngày nắng ráo, hai vợ chồng nằm dưới đất. Những hôm mưa, họ treo võng kè kè sát bên nhau trong cái lều chật hẹp.
Bùn đỏ bám đầy đôi giầy. Xuân lấy một khúc cây nhỏ gạt bớt đất đỏ. Chàng ngồi trên võng, chật vật tháo đôi giày ra mà hông để tay dính bùn. Cái radio ấp chiến lược màu xanh vang lên tiếng hát buồn trong lúc mưa gió như thế nầy. Mừng luôn luôn bắt đài Quân Đội từ 7 giờ đến 9 giờ tối. Nó mê giọng êm thủ thỉ của cô Dạ Lan. Gần sáng, là gia đình Bác Tám của đài khác. Còn lại là radio ra rả suốt ngày. Xuân nghe riết phát chán.
– Hao pin lắm. Sao hông tắt Mừng?
– Tui xin pin tép của thằng Hòa. Đâu có hao, thẩm quyền.
Mừng hông biết cách ghép. Lúc thì hai tép, lúc thì ba tép, làm cho cái radio kêu rè rè. Chắc nó bỏ đi đâu rồi.
– Cô Mận! Tắt rađio đi. Cô vừa ca mà để máy như vậy ai mà nghe được.
– Trung Úy tắt đi. Tui làm biếng đứng dậy quá hà!
Phùng Xuân đi đến chỗ Mừng. Chàng tắt rađio cho bớt ồn. Nghe cổ ca ơ ơ theo cái võng lắc lư, đong đưa còn đỡ buồn hơn.
– Mừng! Có phải em gái của mầy thiệt hông hay là bồ bịch đó mậy?
– Dạ, em tui thiệt mà Trung Úy?
– Sao cổ hông ở nhà mà đi theo mầy làm gì?
– Gia đình có hai anh em. Mùa nầy ở quê hông có việc làm. Nó nhớ tui. Nó buồn nó lên thăm tui. Hổm rày, tui kêu nó đi dìa đi mà nó chưa chịu dìa. Hổng biết mắc chứng gì mà nó khoái ở đây hoài. Nó nói lúc rày ở dưới quê chưa có việc, chờ gần Tết, lúa chín. Lúc đó họ mới kêu công gặt.
Cô Mận còn trẻ, khoảng dưới đôi mươi, bới tóc đuôi gà theo kiểu con gái miệt vườn. Má bầu trắng, tròn trỉnh xinh xắn, có duyên con gái. Cổ vui tươi và nói tía lia khi kể chuyện nhà quê. Khi nào tới bữa cơm, là cổ cũng có chuyện để nói.
Hàng ngày Mừng nấu cơm cho Xuân và em nó. Ba người ăn cơm chung. Xì xà xì xụp cho qua bữa: canh rau, cá khô, rau canh, khô cá, mì gói, gói mì! Cô Mận múm mím cười, hơi ló hai cái răng nanh khi nghe Xuân nói như thế. Ăn xong, nhiệm vụ của cô là rửa ba cái gà mên, treo lên đầu võng. Rồi cổ nằm võng đong đưa qua lại, tiếp tục ca nữa. Mỗi lần ư, ư là gân cổ rung lên như gà giò mới biết gáy.
– Ca hoài sao cô Mận? Hổng chán à?
– Tui đâu biết ca tân nhạc. Mà Trung Úy có mê vọng cổ hôn? Tân cổ giao duyên cũng hay lắm à nghen!
– Ơ…ơ… Cũng biết thưởng thức chút chút. Tui nhớ hồi khoảng năm 1958 hay 1959 gì đó, tui có đến rạp hát một lần. Cái rạp đó ở đâu trên đường Nguyễn Trải. Tên là Thủ Đô thì phải.
– Để làm gì?
– Thì để xem hát chớ làm gì. Thằng bạn học có người quen trong đó. Nó dẫn vô hổng có tốn tiền. Bữa đó, tui hông nhớ gánh hát tuồng tích gì, nhưng tui hổng quên được cô đào Bích Sơn và kép Hoàng Giang. Họ diễn hay lắm. Khán giả vỗ tay muốn bể rạp luôn. Cô Bích Sơn, người Bắc, còn kẹp tóc, mà ca cải lương mùi lắm.Tiếng nói kép Hoàng Giang cũng rổn rảng.
Tụi tui ở trong cánh gà thấy đủ thứ hết trơn. Xong tuồng, hạ màn. Cô đào Bích Sơn và kép Hòang Giang lên xe hơi về nhà. Sân khấu ngổn ngang.Họ lo dọn dẹp mọi thứ. Chừng đó, cũng đã gần hai giờ sáng rồi mà họ có ngủ đâu. Tui thấy họ tụm ba tụm năm chia nhau đánh bài. Nào cát tê, bài cào, xập xám, phé. Ối thôi, tùm lum.Tiếng cãi cọ vang rền. Đã đời, họ lăn đại ra ngủ trên sàn. Trời nóng, nam trần trùi trụi, ngáy khò khò. Nữ, quần vén lên cao, áo tốc lòi ngực ra, ngủ say như chết.
Gần trưa hôm sau họ mới dậy, rồi quây quần quanh chiếc bàn hình chữ nhựt ăn cơm với chỉ độc nhứt có món mắm chưng hột vịt và những tô rau trộn đủ thứ.
– Cái đó là Trung Úy coi cải lương. Nhưng mà trong cải lương cũng có ca vọng cổ.
– Tui đâu phân biệt được.
– Vọng cổ là một bài hát có 32 nhịp, như hổm rày tui ca cho Trung úy nghe đó. Mùi lắm à nhen! À, mà rồi, Trung Úy có ăn hôn?
– Có. Tụi tui cũng xáp vô ăn luôn. Tui thấy đào chánh, kép chánh họ sung sướng. Chớ những người phụ coi bộ họ sống cũng chật vật lắm.
– Vậy là Trung Úy cũng mê mê vọng cổ rồi đó. Để hôm nào tui ra chợ kiếm mấy bài tân cổ giao duyên thiệt mùi, tui ca cho Trung Úy nghe chơi đỡ buồn.
Dưới võng của cô Mận có đủ thứ những cuốn tập nho nhỏ, chất cho một đống. Buổi sáng, cô đi chợ với anh cô. Hôm nào Xuân làm biếng, hoặc đường bùn lầy trơn trợt chàng hông đi, Xuân nhờ cổ mua một tờ báo. Ở đơn vị chỉ có báo Tiền Tuyến. Đi chợ về, cô lo cơm nước. Ăn rồi, cô nằm ca ít bài. Xong, bỏ võng treo tòn teng ở đó, đi tới chỗ mấy bà vợ lính, nói chuyện ba hồi ba đổi, rồi đi rủ chị Hiền ra suối tắm.
Từ ngày anh Hiền chết đi, chị Hiền hông chịu về quê, ở lại đây, sống cùng với đại đội. Chị đi chợ mua thức ăn nấu cho mấy người lính độc thân. Vì thế, chị cũng có cái ăn cái uống sống đắp đổi qua ngày.Mỗi người lính có một ca gạo (khoảng 600g) mỗi ngày. Họ ăn hông hết. Hai người là dư một phần cơm cho chị. Về quê làm gì? Quê chị đâu miệt Phan Rang, nghèo lắm.
Dòng suối nhỏ, ở cuối đầu sân bay, chảy xuyên qua vườn cà phê ông Đại Tướng Lê vănTỵ. Dòng suối nầy là nơi tắm giặt và cũng là nơi lấy nước ăn uống cho cả đại đội khi về trú quân ở Long Khánh. Hình như có giờ giấc và nơi ấn định sẳn đâu hổng biết. Đàn ông và đàn bà có khu riêng biệt. Đầu nguồn là nơi lấy nước để ăn uống. Chính giữa là nơi tắm giặt của đàn bà, trẻ con. Dưới cùng là của các ông. Vì hông có nhà tắm, các bà và các cô thường mặc nguyên quần áo khi tắm. Có người bỏ áo, kéo quần lên tận ngực. Khi họ đến đó, trời còn nắng. Một đám người đang tắm và giặt quần áo. Thêm mấy đứa con nít đùa giỡn bắn nước tung tóe…
– Ê. Đừng vô chỗ lùm tre thay đồ nghe chị Hiền!
– Sao vậy?
– Chị hổng nghe hôm trước vợ Hạ sĩ Y Clip mang con ra suối đẻ rồi chui vào lùm tre đó. Bả vạt nang tre cắt rún cho con sao? Ý, thấy mà ghê!
– Tội nghiệp. Ông đó người Thượng, ở đâu trên miệt KonTum- PleiKu. Ổng đi lính lâu lắm rồi, trước anh Hiền của tui.
– Sao ổng hông chịu đem vợ vào nhà thương để đẻ?
– Mấy người Thượng họ theo tục lệ của họ. Họ hông đem vào nhà thương đâu. Đẻ xong họ còn đem con xuống suối tắm nữa cà.
Y Clip, hơi lớn tuổi, nói tiếng Việt lơ lớ, thật thà, ít trò chuyện với anh em trong đại đội. Ai có hỏi thì nó trả lời một vài tiếng, rồi mỉm cười. Hai vợ chồng chiếm một góc xa ở cuối bìa vườn, quây lá chuối chung quanh thành một căn lều nho nhỏ. Họ chứa đủ thứ: nồi niêu, xoong chảo, lon guigoz, thùng đạn đựng nước…Cô vợ ở trong đó, ít khi ra ngoài. Thậm chí khi đẻ con rồi, cô hông bao giờ bồng con ra.
Anh chàng người miền núi nầy đi rừng rất giỏi, biết nhiều loại rau ăn được. Và đã nhiều lần đơn vị hông tìm được suối, Xuân quá khát. Y Clip đã cắt dây chìu từng đoạn để lấy từng nắp bi đông nước cho Xuân uống.
– Chị Hiền! Chị có đem nước về hôn?
– Hông. Nhờ trời mưa, tui hứng được mấy thùng và hai ba ống đạn. Chắc nấu cơm, rửa chén cũng được mấy bữa.
– Còn em phải đem hai thùng. Ba người thì cần nhiều hơn. Anh hai em ảnh xài hao nước lắm.
– À. Mà còn cho ông Trung Úy. Ổng lấy nước tắm nữa chứ gì?
– Hông. Ổng lấy nước rửa chưn hông hè.
– Sao hổng lấy nước nhiều nhiều cho ổng tắm?
– Thôi đi bà. Ổng muốn tắm thì đi ra suối tắm chứ. Tui đâu có hầu ổng. Bà muốn gì vậy? Bộ bà cũng muốn hả? Ổng chưa có vợ đó nghen!
– Ê! Đừng gắp cá bỏ cho người khác nhen! Tui thấy có bữa, trước lều của ổng có một ống nước.
– Hôm nào anh hai em siêng, ảnh vác về cho ổng tắm đó bà! Tui hổng có siêng như vậy đâu!
Hai người vừa thay đồ vừa cười như nắc nẻ. Rồi họ ngắt nhéo, la chí chóe trong lùm cây cà phê. Chị Hiền thầm nghĩ. Coi vậy chớ con nhỏ nầy ghê lắm. Mấy hôm nay, chị thấy nó mắc võng gần ông Trung Úy hơn. Chị hỏi. Nó nói bà chủ vườn kêu đừng cột võng vô góc cà phê. Đung đua hoài, lông gốc, chết cây.Bây giờ nó xê lại gốc soài riêng càng sát ổng hơn. À, mà nó thấy diện hơn lúc trước: chảy đầu bẽ ba gọn ghẻ và mặc áo bà ba bông coi đẹp đẽ. Và nghe nó ca nhiều bài vọng cổ mùi lắm. Cái gì mà yêu anh lính chiến xa nhà… Chị tủm tỉm cười.
– Bà cười cái gì đó bà? Ờ, mà Chị Hiền? Sao chị hông lên phụ với bà Tư Thiệt bán có đỡ hơn hôn?
– Thằng Lưu Anh nó ở trên đó rồi. Nó đeo con Tươi như sam. Hơn nữa con nhỏ sắp đẻ rồi còn gì.
Lưu Anh là người Tàu Chợ Lớn, đi quân dịch đã hai năm nay. Nó hiền từ, tháo vát, cao lớn cũng khá đẹp trai. Hông hiểu sao nó chiếm được cảm tình của bà Tư Thiệt. Chồng bà nầy đã chết trận hơn mấy năm nay. Bả hông chịu về quê, bám theo đại đội mở cái quán nho nhỏ bán đủ thứ như gánh hàng xén. Lính đại đội làm biếng ra chợ-hơn nữa từ chỗ đóng quân cuốc bộ ra chợ cũng xa hơn hai cây số-nên thiếu chút đỉnh đến tiệm bả mua mau hơn. Đôi khi có những món như: mì ăn liền, rượu đế, khô mực nhậu lai rai… rất tiện lợi cho mấy anh chàng lính độc thân. Bả còn cho mua chịu- ghi sổ- đến kỳ lảnh lương thì trả lại.
Bà chỉ có độc một đứa con gái. Năm nay, cô bé cũng được khoảng 15 tuổi.Cô nầy có nước da trắng mượt mà, cặp mắt trong sáng và có nụ cười rất tươi. Cô có da có thịt, cao ráo hơn mẹ. Nhiều chàng lính độc thân cũng ngấm nghé.Bà mẹ, hơi lùn, ít khi cười, có lẽ vì bà hơi lé kim và một mắt bị cườm. Nhưng, bà rất lanh lợi và nói chuyện có duyên.
Từ khi về đại đội, chỉ mươi ngày sau là thằng Lưu Anh đi gánh nước, đi chợ chở nước đá, la de, rượu đế và các thứ lặt vặt… Lúc đó con bé Tươi mới có 13 tuổi. Mới đầu thằng Lưu Anh còn về võng nó ngủ. Nhưng sau đó, nó ở lì trên tiệm, hông về lều, trừ khi nào có phiên cắt gác. Lần lần nó thay bà Tư cáng đáng mọi công việc. Và cuối cùng, cô bé Tươi có bầu lúc 14 tuổi. Trong đại đội, hông ai nói gì vì bà Tư có thưa gởi gì đâu. Thằng Lưu Anh khôn, lăn chai bám riết rồi cũng được. Còn mấy thằng Bình, thằng Thiện cứ đứng vòng ngoài đưa mắt ngó thì được cơm cháo gì! Và con Tươi thản nhiên mang cái bụng bầu chang bang cặp kè đi chợ với thằng Lưu Anh bổ đồ hàng bữa…
Chiếc GMC chở trung đội vũ khí nặng sắp sửa chuyển bánh. Lưu Anh, mang súng đứng dựa vào thành xe nhìn Tươi vừa ẳm con ra đứng trước cửa quán. Đứa con còn đỏ hỏn, chưa đầy tháng. Tiếng nói om sòm, tiếng la hét của những người lính khác vang lên gần như lấn át tiếng máy nổ của bốn xe nhà binh. Kẻ dặn vợ con, người dặn kẻ ở lại lo dùm công việc nầy, công việc nọ.
Đoàn xe chưa có lịnh di chuyển. Xuân và Chúc còn đứng dưới đất. Hai đứa đang nói chuyện.
– Cuối cùng rồi tao cũng gặp mầy.
– Tớ đâu có ngờ cậu ở Sư Đoàn nầy.
– Ờ! Cái Sư Đoàn có số 10 nầy làm cho ông Hoàng Tử lưng gù mới về khó chịu. Ông tin dị đoan. Số 10 là bù. Thế là đổi thành 18. Chín nút là nhứt rồi. Hổng hiểu rồi đây chín nút có ngon lành hay hông hay là chúng nít???
Đỗ Bá Chúc hông thích đi sĩ quan. Nó hông khai bằng cấp. Để khỏi bị động viên, nó lo nhảy trước. Nghỉ dạy, nó chạy chọt làm anh binh nhì phòng hai của Tiểu khu Tây Ninh, tà tà ở văn phòng. Một ít sau, nó chán lính bàn giấy. Hơn nữa bị các sĩ quan và thượng sĩ ít học hơn nó đì nó. Nó nản. Nó đi lính biệt kích một thời gian. Cuối cùng, chàng ta bèn nộp đơn vào Thủ Đức. Ra trường với cái quai chảo, nó phân vân chưa biết chọn nơi nào. À! Cái Sư Đoàn 18 có số tốt, lại ở gần Sài Gòn.Thế là hắn về đây. Phùng Xuân cho nó về làm Trung đội trưởng Trung đội 3.
Hai đứa gặp nhau, bá vai chửi thề. Tổ cha mầy, sao lại ra tới đây! Họ kịp chưa nhậu một bi đông rượu đế nào. Có lịnh hành quân.
– À. Cậu.Có cái nầy. Hồi tớ ở phòng nhì Tiểu khu Tây Ninh. Tớ có đọc một hồ sơ về một cô gái ở BếnTre.Cô ta bị bắt vì đang cố tìm đường vào cục R để làm gì đó?
– Tên cổ là gì mầy còn nhớ hôn?
– Không để ý. Nhưng có bí danh là Sáu Trân.
– Sáu Trân? Hông lẽ là Vân? Cái nầy phải liên lạc với Thiếu Úy Nguyễn Văn Rài ở phòng nhì Tiểu khu Tây Ninh thì mới có thể biết được.