- 5 -
Út Thèm đã 17 tuổi rồi. Từ ngày chị Tư Én nó bỏ nhà ra đi, nó phải thay chị nó, mỗi năm một mùa, chăn vịt chạy đồng. Rồi còn làm đủ mọi công việc nhà. Ông Sáu Lục đã bị bịnh dai dẳng một hai năm nay. Tối ngày ngồi một chỗ, ổng ho sù sụ. Lúc ở trong đồng Út Thèm tụ tập đàn ca hát xướng với mấy thằng ở những chòi kế bên. Lâu ngày hông hiểu bị dụ khị như thế nào, nó trở thành du kích xã. Rồi mấy tháng sau được sung vào tỉnh đội. Nó cùng Út Nhạy, em của Ba Đẹn ở Lương Quới, hoạt động rất hăng say. Đôi khi đấp mô ở đoạn đường Mỹ Lồng- LươngQuới nhầm phá rối. Những hàng me xanh tốt hai bên đường lần lần bị cốt đi hết. Có khi đặt mìn giữa lộ để giật nổ xe nhà binh của Quận chạy lẻ tẻ. Khỏang từ năm 1966- 1967, các toán Thám Sát Tỉnh (PRU) được thành lập, hoạt động từng nhóm nhỏ, khoảng từ 5 đến 10 người, thường hay đột kích lúc trời gần sáng vào những căn cứ của tụi nó. Nhiều lần, Út Nhạy và Út Thèm chạy sất bất xang bang, trối chết, trốn chui trốn nhủi mới hổng bị tóm được.
Bill về BếnTre để huấn luyện các toán PRU. Hôm nay nó có việc đi xuống Giồng Trôm. Hông hiểu sao Bill hông muốn có đoàn xe hộ tống. Nó biết vùng nầy có nhiều du kích mà? Nó muốn đi một mình để nhìn thấy quê hương của vợ? Chiếc Jeep lùn A2 của Bill chạy ngon trớn trong bụi đỏ mù mịt đến Giồng Trôm. Vừa qua khỏi cầu Bình Chánh, đến ngang Cát Lỡ, Bill thấy một đám khói lẫn cát đá tung bay rồi nghe một nổ thật lớn. Chiếc xe bị nhấc bổng lên cao, nhào lộn, lật qua bên kia đường. Hình như có tiếng hô lớn của một nhóm người. Bill bị văng ra khỏi xe. Nó mơ hồ biết xe bị mìn. Súng đâu rồi? Văng đi đâu mất tiêu? Người tài xế chắc chết? Cả một đám người lố nhố tràn lên.
Bill bị trói thúc ké dẫn đi trong những vườn cây ăn trái rậm rập ra tới bờ sông Bến Tre. Hai chơn bị lột mất vớ nên bị trầy sướt tùm lum. Có lúc nó phải đi cà nhắc. Bọn họ đẩy nó xuống xuồng, xong chèo qua bên Đông Ngô. Trực thăng bắt đầu bay lượn vòng trên ngọn dừa và thỉnh thoảng bắn đạn rốc kết xuống những lùm cây bần dọc theo bờ sông.
– Con mẹ họ, nó biết rồi. Làm sao đây?
– Chắc thằng đế quốc nầy có bỏ máy gì trong người nó nên con chuồn chuồn nầy theo hoài. Bắt nó lột quần áo ra hết trơn đi Út Thèm.
Nhưng trực thăng vẫn vòng vòng trên trời. Bây giờ lại có thêm hai chiếc võ trang bay đến yễm trợ. Bill đau chơn quá hông chạy mau được.
– Chết mẹ. Hai con cồng cộc tới rồi. Chắc tụi nó thả mấy thằng rằn ri xuống ví tụi mình quá.
– Làm thịt thằng đế quốc đó đi, để rảnh nợ, chạy cho lẹ. Lè lẹ đi.
Út Thèm đưa súng lên, bắn liền hai phát vào sau lưng Bill. Bill đang chạy. Thân hình nó bay nhấc khỏi mặt đất rồi rớt xuống. Hai dòng máu đỏ trào ra ở ngực. Nó chúi mũi ngã vô đám ô rô và mái dầm dày đặc bên sông, dẫy dụa một vài cái rồi chìm lĩm vào nước sâu…
Loan lật đật xuống xe lôi, tìm đường đến bến về BaTri. Một ngày nay nàng loang quanh ở BếnTre để hỏi thăm tin của Bill, nhưng hông có ai trả lời rõ về Bill. Bên toán cố vấn Mỹ họ hông cho biết chi tiết. Chỉ biết là chồng nàng mất tích. Người ta chỉ đại cho nàng qua Phòng Ba Tiểu Khu. Ông Trung Úy Nguyễn Tấn Nghiệp trả lời có biết vụ nầy, nhưng cách đây hơn tháng rồi. Quận Giồng Trôm có cho một đại đội Địa Phương Quân truy tìm nhưng hông tìm được gì hết. Bên cố vấn Mỹ có thả mấy toán PRU để cố tìm Bill, nhưng hông có kết quả. Nàng buồn xo, suôi xị ngồi xe về Cái Bông.
Con đường làng như xa lạ. Những cành cây de ra hai đường che khuất lối đi. Nàng thấy như mình lạc đường về nhà. Sao lạ vậy? Mới có sáu bẩy năm thôi mà? Cây cỏ khác đi. Và cảnh vật cũng khác đi. Cái gì cũng lạ quắc lạ quơ. Nhà mình có lạ đi hông. Hàng cây bụp có còn hông. Bụi chuối sau nhà trổ được bao nhiêu quày rồi?
Sáu nó lừ mắt nhìn nó. Chắc ổng còn tức giận, hông nói hông rằng. Tưởng nó bỏ nhà đi theo trai tới bây giờ mới ló mặt về.
– Mồ tổ cha bây. Bỏ nhà đi biệt hé. Con bây bây lớn rồi. Sao hổng dẫn nó về thăm tao.
– Nó mắc đi học má à. Ví lại ở Sài Gòn xa quá. Lúc nào rảnh con dẫn nó về thăm ông bà ngoại. Mà Sáu ổng còn giận con hè má?
– Ổng nghe con nhỏ nào đó. Nó học với ổng là nó thấy bây đi làm sở Mỹ đâu trên Long Bình, Long Biếc gì đó. Nên mấy tháng nay, ổng hầm hè hoài quỉ. Nè con, đừng có đi làm sở Mỹ nữa nghen con. Đừng làm cho mấy thằng đế quốc đó nữa. Nó đem quân qua đánh giết dân mình đó nghen con. Gia đình mình bây giờ là gia đình cách mạng đó con. Thằng Út Thèm nó là bộ đội huyện. Còn chị ba mầy nghe đâu cũng vô làm cái gì vận vận đó tao cũng hổng rành nữa.
– Sao nhà mình tối tối phải đốt đèn chong ve chai ở trước vậy má?
– Ơ. Mấy bữa có lính đi kích đêm. Tao đốt đèn lên để mấy ông du kích mình biết.
Loan ngán ngẩm cho cuộc sống của nhà mình: nàng lấy chồng mỹ, em mình là du kích VC… Khuya hôm sau, nàng đón xe đi Bến Tre, rồi định ghé Vang Quới thăm thằng Thương. Chiếc xe đò chạy sớm đầy nhóc bạn hàng, gióng gánh chồng chất. Tiếng người nói chuyện om sòm. Họ hông nghe một tiếng nổ ầm rất lớn. Sau đó im lặng. Đám cháy phựt lên. Tiếng la hét, rên rỉ trong đêm tối…
*****
Ông Mười Năng là chủ trại cưa ở xã Phước Thiền, Long Thành, Biên Hoà. Nhà có hơn bốn năm đứa con gái. Đám lính dân vệ, địa phương quân, ban hội tề làng xã thường hay lui tới nhậu nhẹt hà rằm. Nhiều khi chén anh chén chú cho đến khuya lơ khuya lắc. Đồ nhậu nhiều khi hông có gì. Mồi chỉ là khô mực, khô cá hố, cá sặc, mấy trái cóc muối chua. Quan trọng là mấy chai xị đế. Cha con đến độ là nói chuyện trên trời dưới đất, tào lao thiên đế, mà hay nhứt là cái vụ nói trây, hông biết chừng nào mới hết. Chỉ có cái nói là hết rượu rồi, khuya quá quán đóng cửa. Tới chừng đó, bợm nhậu mới nằm sóng soài trên bộ ván gõ. Có tay vừa ngã lưng là ngáy khò khò, có trự cho chó ăn chè.
Ông chủ trại cưa đâu có vừa. Ổng là chủ xị nên chơi tới bến luôn. Khi cả làng nhào xuống bộ ván, ổng còn tỉnh bơ. Ổng lật đật bước xuống sau nhà, lấy hột quẹt đốt cây đèn bão treo trước cửa trại: đêm nay có lính với lại cô hồn các đẳng ở đây nghen! Thế là mấy tay du kích VC biết rồi, hổng có lớ quớ về nhen! Đâu đó cũng giống như nhà ông Sáu Lục ở Cái Bông, Bến Tre.
Cho nên, đại đội Xuân đóng đồn ở Bến Cam có bao giờ kích được một tên VC nào đâu. Cũng như chàng Trung Úy Manas của Sư Đoàn Mãng Xà Thái Lan, ở căn cứ Bear Cat-Long Thành, có bao giờ biết mặt được một móng VC nào ở vùng nầy. Nhiều khi, họ bắn pháo binh ào ào vào vùng Phước Lai, rồi xua lính tấn công cho phí sức, phí đạn; hoặc là lâu lâu hành quân vào Tam An kiếm thử du kích. Trung Úy Manas nói sỏi tiếng Việt giọng Huế cho Xuân biết như vậy, trong lúc họ chỉ làm sương sương một vài ly ở nhà ông Mười Năng. Quân đội Thái hông rành về du kích VC. Họ chưa hành quân vô những vùng VC là dân mà dân cũng là VC. VC mánh mung, xài cái mửng đưa dân đỡ đạn cho họ rồi khóc thét lên: má ơi, tụi nó giết con.
Ấp chiến lược thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm ấy vậy mà hay. Chắt VC ra khỏi dân như lấy nò, dùng sa bắt cá. Hông hay sao mà Ăng- Lê giúp Mã Lai thành công? Con cá lớn Chin Peng sống khốn đốn vì nhà cầm quyền dồn dân vô ấp. Đến nổi mua đồ hộp phải khui liền ngay tại chỗ. Bây giờ Chánh phủ thay bằng Cán Bộ Xây Dưng Nông Thôn hông hiệu quả vì các chàng áo đen nầy đi tới đâu là phải có lính yểm trợ. Hông hiểu họ tối ngày lân la ở Xóm Hố, Phú Hội ra sao, mà thỉnh thoảng bị cắc bùm hoài. Một đại đội của Xuân đóng ở Nỗng Vang Lò bị cầm chân vì các chàng áo đen. Lính Sư Đoàn mà đi yểm trợ Cán Bộ XDNT! Cũng như trước khi về Phú Hội, đại đội đóng đồn ở Quán Chim, ngày ngày đi lên đi xuống, mở đường an ninh QL 15 từ Quán Chim đến Phú Mỹ. Hông có gì. Chỉ có thấy con gầm gừ ( Con gầm gừ là con chim cu xanh.Nó hông biết gáy chỉ cà rù cà rù nên dân vùng Quán Chim-Phú Mỹ (Long Thành) gọi là con gầm gừ.) là nhiều nhứt.
– Chúc. Tao chán ba cái ông nội áo đen nầy quá. Tối thì chui vô chính giữa đại đội mình ngủ. Ban ngày thả rong vô xóm, ghi chép cái gì đó mà hơn tháng nay, tao thấy VC vẫn về hoài.
– Sao cậu biết?
– Tao quen mấy cô giáo dạy ở Phú Hội. Thỉnh thoảng lúc nói chuyện, tao thấu cấy, mấy cô đó xì ra hết. Mấy tay du kích băng qua Hang Nai về Xóm Hố hoài chớ gì. Nhà vườn ông Mười Năng cũng ở dưới đó.
– Sao mình hông cho kích ở dưới?
– Xóm Hố giống như cái màng nhện. Mình biết chỗ nào chắc chắn đâu mà kích. Ban ngày, mầy ruồng ở dưới đó, mầy biết rồi chớ gì?
– Ê, Nghiệp. Mày làm ở phòng ba Tiểu khu. Mầy chấm tọa đô bắn pháo binh về Ba Châu hoài. Coi chừng tụi nó thịt mầy.
– Thịt gì? Tui hổng khoái VC. Phá quá mà! Nát làng xóm, gia đình, nhà cửa. Hổng để dân yên mà!
– Mầy chấm tọa độ bắn vào vùng Ba Châu coi chừng chết bà con của bác Ba mầy. Họ toàn theo VC hông đó? Năm Khuẩn, con Bác Ba mầy cùng học một lớp với mầy, lúc Ba mầy là thầy giáo ở Châu Hoà, mầy hổng nhớ à! Ờ tao nhớ ra rồi, còn có Sáu Y và Sáu Luốc nữa. À mà, Sáu Y đi lính Biệt kích, đi mua muối rồi, đâu ở trên Đà Lạt năm 1964.
Vùng quê hứng chịu bom đạn quá trời. Hông như thời trước, quan Tư Lầu chỉ có cây mọt chê nhỏ xíu, đặt trước chợ Lương Quới bắn ba xí ba tú một vài trái vô xóm trong, hổng chết thằng Tây nào hết. Vậy mà dân làng cũng sợ điếng hồn. Còn cà nông ở bên Bình Đại lâu lâu xọt qua Châu Bình làm dân sợ té đái. Máy bay thì năm thuở mười thì mới xẹt qua, bắn đì đùng, thả ào bậy một trái bom rồi dông mất.
Bây giờ thì khác rồi. Bom đạn quá nhiều. Lớp máy bay bắn phá, lớp pháo binh diện địa 105 ly bao phủ cùng khắp, hay bắn bất tử nên hổng biết chỗ nào mà tránh. Hổng có chỗ nào an toàn hết. Lại thêm nạn thuốc khai quang làm trắng. Những toán PRU nhảy đột kích lúc khuya hoặc hừng sáng, làm cha con VC chạy muốn sút quần luôn. VC mất ăn mất ngủ. VC và dân hết đường sống ở làng mạc xa xôi. Hầm chông và súng ngựa trời đâu còn nghĩa lý gì.
Từ khi đứa con trai thứ ba –Ba Nữa- bị toán PRU giết chết, gia đình ông Sáu Xe tìm cách vọt về Sài Gòn. Họ hông dám ở Bến Tre, sợ cảnh sát điều tra sẽ biết được dễ dàng. Họ len lỏi, chạy chọt xin vào làm công chức nhà nước. Đó là những nghề hông ai để ý. Bắt chước người anh Năm Lân, Khanh và Ba Đẹn xin được làm giáo viên dạy tiểu học ở Quận 8. Bộ máy công quyền hông chú ý hay là họ hông điều tra kỷ nên VC và những thành phần có cảm tình với VC ở đầy nhóc. Hơn nữa nhà nước cho rằng ai làm nấy chịu, hông có cái kiểu đì cả gia đình, họ hàng… nên VC lợi dụng đào hang, kẽ ngách gần hết các quận đô thành. Họ rỉ tai, chuyền miệng, phao tin đồn… Họ làm “ giao liên” đưa đón những tay VC gộc vào trú ngụ ở những nơi họ đào hang trú ẩn sẳn. Phần đông là những người Phật Cộng và Giáo Cộng lợi dụng danh nghĩa tôn giáo giúp đỡ họ nhiều nhứt: cha lấy xe chở vũ khí dấu vào nội ô; chùa chiền chứa chấp sư và ni cô VC, các thanh niên trốn quân dịch… Nhiều khi họ cũng bị bắt, nhưng như cóc bỏ dĩa. Họ đút lút cho những thành phần hối lộ của chánh quyền, nên vừa mới bắt xong là ít hôm thấy họ ló mặt ra. Hoặc là, nay họ ở chỗ nầy mai ở chỗ khác, khó mà lần ra họ. Và có lẽ, VC cho thời cơ đã đến. Họ tin là có thể cướp được miền Nam nên ra lịnh tổng tấn công. Ngày 31 tháng giêng năm 1968(Tết Mậu Thân) là một thảm họa cho dân miền Nam.
– Hải. Mầy xuống ngồi đàng sau với Chuẩn Úy Nghĩa. Để tao lái. Hồi chiều, có đem theo hai Carbin hông?
– Dạ có. Trung Úy say chưa?
– Có thấm gì đâu mậy. Mới sương sương ba sợi từ chiều đến giờ. Phải nói, bữa nay tất niên, ông Hiếu, ổng đào đâu ra được ba chai Johnnny đen, nhậu đã hết cỡ thợ mộc. Trung Úy Tài nhím môi, chỉ ngồi phá mồi. Chúc, mầy ngồi đằng trước thủ sẳn cây Carbine M2 báng cụt của tao. Có gì mầy chơi hết hai băng là vừa đủ. Dẹp ba cái vụ Colt đuôi (12) đi. Tao chạy hổng có đèn nhen. Tắt hết đèn mũi, đèn lái luôn.
– Có được không đó thẩm quyền. Bữa nay, cuối năm. Không có trăng đâu đó.
– Mầy khỏi lo, Chúc. Gần giao thừa rồi, chắc mấy ông nội VC cũng nghỉ ăn Tết chứ. Đường Phú Hội về tới Bến Cam, tao thuộc lòng như trong bàn tay. Ví lại, hông có đèn, mấy ổng nghe tiếng xe ù ù thì mình biến rồi. Thêm bụi bay mù mịt thì tổ cha nó cũng chịu thua luôn.
Pháo bắt đầu nổ râm ran. Nhưng súng đủ loại ngoài Long Thành ì ục lấn át tiếng pháo.
– Chết mẹ! Mấy cha VC nầy phản phé rồi. Năm nào mình lại hông có công điện đề phòng. Năm nay nó chơi thiệt.
– Tới đồn, pha đèn lên. Nếu không, cái xe không đèn lù lù chạy vô, tụi nó tưởng là cái gì, nó phơ một băng đại liên là mình bỏ mẹ.
Thằng Hải sợ quá. Nó lật đật nhảy xuống xe hối trong đồn kéo concertina.
– Tụi nó ra hầm hố hết chưa anh Thanh.
– Xong rồi. Tui cũng kêu toán tiền đồn rút về.
Ngồi gục gà gục gật. Chưa đầy sáng. Có công điện. Chuẩn bị trưc thăng vận, giải tỏa Định Quán. Có nếm được khoanh bánh tét, miếng thịt kho tàu nào đâu. Tội nghiệp mấy bà vợ lính. Chuẩn bị đồ ăn đùm đùm đề đề, dắt con lếch tha lếch thếch đem ra cho chồng ăn Tết. Bây giờ ba cái món đó làm sao bây giờ. Thiếu Úy Thanh bực bội chửi thề: “ Đụ mẹ! Ba cái thằng VC mắc dịch ”. Nó lo cho bà vợ ở lại đồn. Vợ Xuân cũng vậy. Đường sá bứt rồi. Làm sao về. Xuân giao thằng Hải: mầy liệu lo chở mấy bà vợ lính. Bỏ đồn. Bỏ tất cả ở lại. Xa rồi Phú Hội, Bến Cam, Phước Thiền…
Định Quán là một quận nhỏ nằm bên QL 20, có hòn đá chồng cao lớn và những hòn đá lớn nhỏ rải rác, ngó cũng đẹp mắt. Dân cư sống dọc hai bên đường, phần đông là người miền Bắc.Tiểu đoàn nhảy xuống ở sân banh, từ từ tiến vào quận thì VC đã dông mất. Lại lùng sục. Tìm ra tận Tà Lài, bờ sông Đồng Nai; mò vào những cánh rừng sâu từ quận đến rừng Giá Tỵ, Phương Lâm; vượt La Ngà cũng chẳng thấy bóng ma nào hết. Sốt rét rừng ác tính quật đi mấy mạng. Họ ngu gì ở những nơi sát quốc lộ trong tầm pháo binh…
– Nè, tụi bây sắp hàng ăn uống đàng hoàng nhen. Đừng để mấy thằng Mẽo nó khi mình, nghen.
– Lần lượt rồi cũng đến phiên mình mà. Đồ ăn hổng thiếu đâu. Mang từ LongBình lên đó. Ngày nào cũng vậy, còn nóng hổi. Đúng là đánh giặc theo kiểu nhà giàu.
– Dặn mấy ông thần của mình lấy ăn từ từ.Nếu còn đói có thể đi thêm một vòng nữa.
– Thanh. Tao thấy trực thăng câu từng xì -tẹt nước, rồi móc lên cao cho lính tắm. Sướng tổ mẹ. Còn mình xuống suối hằng bữa.
– Chưa đâu, mầy Nghĩa. Đóng quân giữa rừng, cũng có W.C. Lâu lâu tụi nó đổ dầu đốt lên, hôi mùi cứt khô tổ mẹ. Còn tụi mình đi láng trong rừng, mạnh thằng nào thằng nấy kiếm lá rừng thiệt bự để chùi. Ngày nào tao cũng thấy họ thay đồ mới, giặt ủi phẳng phiu. Cứ cổi đồ dơ bỏ đống đó, rồi mặc đồ sạch vô. Tụi mình chỉ có mỗi một bộ. Lâu ngày hông giặt được, đứng gần hôi rình. Nhiều khi mùi vớ với quần áo tanh ói. Tao thấy họ còn lãnh lương nữa chứ. Tụi mình đến kỳ lương, bận lội rừng thì còn lâu mới được lãnh.
– Mình còn tùng thiết với họ cho đến khi nào?
– Hổng biết nữa. Chỉ biết bây giờ tụi mình ngày nào cũng đi chung với họ. Rồi chiều về, cơm nước xong, ngủ vòng ngoài, bảo vệ căn cứ pháo binh của Lữ Đoàn BB 199 HK.
– Mấy anh chàng nầy đóng quân ở đâu là rình rang tới đó. Trực thăng lên xuống hà rầm. Ban đêm, lát lát lại bắn trái sáng. Ngủ hổng được con mẹ gì hết. Có khác gì lạy ông tui ở bụi nầy.VC nó biết, nó chạy mất mẹ nó rồi. Còn nếu nó hổng chạy, nó lừa thế, nó đột kích là cũng lãnh đạn. Sao họ hổng rành du kích hả? Đặt căn cứ pháo binh vào tuốt trong rừng sâu nầy làm cái gì?
– Mỗi nước có một lối đánh trận riêng. Cũng như Úc và Tân Tây Lan có một Chiến Đoàn, họ đánh theo lối của họ làm cho VC vùng Bà Rịa xất bất xang bang luôn. Còn mình đánh theo lối đánh của mình mà tiếp liệu của họ nên nhiều khi bị cầm chơn hoài.
– Ê cậu. Chắc tư bản vũ khí đem xài cho hết rồi mới tính chuyện khác.
– Mầy nói đúng đó Chúc. Tư bản nào cũng là tư bản, chuyên môn bốc lũm. Vì thế Marx ghét tư bản thậm tệ, có đúng hôn?
– Nghỉ nói chuyện triết lý đó đi. Bây giờ tớ thèm ly lade có đá.
Rút cục mấy thằng sĩ quan cũng được vừa lòng. Hết thời gian tăng phái, Tiểu Đoàn về Định Quán đóng dọc QL 20 nghỉ dưỡng quân. Ngày ngày ngồi quán cà phê chỉ nhìn mấy chiếc xe chạy đò chạy lên chạy xuống. Con đường nhựa đen trưa đổ lửa, ngút nắng ngầy ngật bóng nước. Xe Peugeot 403 Minh Trung chạy đường Sài Gòn -Đà Lạt, thường tấp vào đây để khách nghỉ. Hông hiểu khi đi thăm Xuân, Yvette có đi xe Minh Trung hôn? Chàng thấy bác tài nhét khách đầy nhóc, ngồi chật bó.Và, Yvette ơi, em đi lên đi xuống mấy lần để tìm anh?
Tiền đâu mà uống lade hoài. Giết ngày tháng của tuổi trẻ bằng bài bạc, nhậu nhẹt, nói chuyện trây trua tầm phào, ba xí ba tú, từ đầu trên xuống xóm dưới, ngoài ra thì lính đánh trận biết làm gì bi giờ ở cái quận nghèo nàn nầy? Quán cà phê hông có Ti Vi. Mà làm sao có được? Ăng ten phải đưa cao nghều nghệu chưa chắc gì bắt được. Chỉ có ra điô ra rả tối ngày các bài hát về lính.
Đêm tối, mấy thằng ra ngồi ngoài QL, ngắm trăng sao, tán dóc, hút hết từ điếu nầy tới điếu khác cho đến khuya. Đường nhựa đen hun hút trong đêm đầy sao trời. Đầu đêm sao Hôm, sao Bò Cạp, sao Cày, rồi sao Vệ Nữ. Cuối hôm sao Mai. Sao Bắc Đẩu ở cuối đường chơn trời, xa vời vợi. Đường nhựa đen mơ màng chập chờn ngà ngật mông lung theo từng đêm trăng.
– Mình nhong nhong ở cái quận nầy hoài sao? Tớ thấy ngày tháng trôi chán chường. Nghe nhạc ca tụng lính tráng nhiều khi mà phát chán. Toàn là đưa mình lên tận trời xanh. Mấy tay tổ nhạc sĩ toàn là mơ.
– Phải vậy thôi. Đó là món ăn tinh thần phải có. Vậy chớ nhiều khi mầy nghêu ngao thì cũng thấy đỡ buồn, phải hôn?
Khi Chúc và Xuân đến thì thức ăn đã bày ra sẳn trên bàn dài. Khách đã ngồi và sắp cầm đũa. Một chai rượu đế trong vắt cở chừng hai lít nằm chình ình ngay giữa bàn. Ai nấy trông có vẻ háo hức với buổi tiệc sắp mở màn. Hai người sĩ quan trẻ được mời ngồi vô hai ghế giữa. Xuân nhìn thấy ngay trước mặt mình những miếng thịt nướng xỏ xâu dài thơm phức, một dĩa đựng những khúc dồi dài màu hơi đen đen có những miếng đã cắt lát mỏng, và sau cùng một cuộn thịt luộc trắng kế bên những lát riềng. Còn một chén mắm tôm với dĩa rau thơm. Xuân chưa biết là món ăn gì. Tới lúc đó, anh chàng Chúc mới nói cho Xuân là thịt chó. Và Chúc bắt đầu chỉ: chả chìa, thịt luộc, dồi, rựa mận, tiết canh và cuối cùng là cháo. Mọi người nói chuyện rôm rã và khoảnh khắc chai rượu đã vơi đi một nữa.
Một số ít người miền Bắc thường nuôi nhiều chó trong nhà. Và họ đợi khi có đám tiệc là giết một con. Hông giống như mọi người Bắc, những chàng hạ cờ tây nam kỳ là những tay bợm nhậu. Đàn bà con gái trong Nam hổng khi nào rớ đến món “cây còn” đó.
Xuân chỉ ăn món chả chìa vì chưa bao giờ chàng ăn thịt chó. Khi món ăn cuối cùng là cháo được mang ra, Xuân bắt chợt nhìn thấy cái đầu chó dính những miếng da thui đen, vàng có hai lõm sâu trắng hếu nổi lên. Chúc lật đật đứng dậy định múc cho chàng một chén, nhưng Phùng Xuân đưa tay khoát lấy cớ đi ra ngoài. Xuân hông chịu nổi khi nhìn lõm sâu của hai con mắt…
Con chó mực một năm tuổi tối ngày lẩn quẩn bên mình Phùng Xuân. Chàng xin nó khi nó chưa dứt sữa mẹ, nên tối nào nó nhớ mẹ nó cũng kêu ăng ẳng. Đến chừng nó lớn thì nó khôn lắm. Xuân rút mác vắt bên vách là nó nhổm dậy, chạy trước mở đường. Rắn rít đều sợ nó. Anh chàng Mực nầy săn chuột mới tài. Chuột mà rớt tỏm xuống nước là thế nào trự cũng nhảy ùm theo, ráng bắt cho được chú tí. Nó mà đánh hơi, quàu quàu hai chơn thì hông chuột cũng rắn hay chim. Nó còn là bạn tắm sông của bọn anh em Xuân. Ê, Ê Mực. Nó nghễn tai. Môt khúc cây quăng tuốt ra giữa rạch là Mực phóng theo bơi chó chủm chủm cắn khúc cây đem vào bờ, nhả ra rồi kêu ăng ẳng ngồi đợi.
Việt Minh kỵ chó vì họ sợ tiếng chó sủa làm lộ tung tích của họ nên vùng Việt Minh tự trị cấm chó. Hông hiểu sao con Mực khôn lắm. Khi Tây ruồng bố, nó cùng chạy trốn với gia đình thì nó im thin thít, hông sủa hay kêu. Nhưng mà nó gặp Việt Minh là nó sủa.Chắc Việt Minh có mùi lạ nên họ hông cho nuôi chó.
Tội nghiệp. Con Mực khôn mà hông lanh nên bị anh Ba Thực dụ nó rồi tròng cổ nó lôi đi sền sệt.Tới chừng nó biết, nó dẫy dụa nhìn Xuân với cặp mắt van lơn và rươm rướm nước mắt thì đầu nó đã bị ấn vô cái bao bố tời rồi. Lúc đó nó bắt đầu quậy rồn rột. Hai người thanh niên trẻ lôi bao bố quăng xuống nước một cái ùm. Tới chừng đó, Xuân khóc ré lên, đòi trả lại con chó. Chắc con Mực nghe được nên nó ực ực mấy cái.Một đống bọt nổi lên.Bao bố tời chìm nghĩm.
Hai ông già đã thủ sẳn hai ba nồi nước sôi. Vừa lúc đó, một nhóm đàn ông khác cũng động dao động thớt bầm hành, xả, tỏi… và nạo dừa sồn soạt. Họ thay phiên nhau cạo sạch lông, chớp nhoáng đã xong. Con Mực bây giờ trắng muốt. Xuân nghe họ bàn tán con chó mực nầy ngon. Câu thiệu của bợm nhậu “ cờ tây ”: Nhứt mực, nhì khoan, tam vàng, tứ đốm, cùng cực mới ăn chó cò.
Rồi cuối cùng con Mực của Xuân trở nên vàng rụm trong đống lửa rơm. Đứng nhìn từ xa, Xuân chợt thấy hai hàm con mực banh ra như tức giận, trách móc chàng tại sao hông cứu giúp nó. Hai cặp mắt lồi ra, nhe hàm răng như nhát chàng. Xuân lật đật chạy đi chỗ khác. Chàng hông bao giờ quên được hình đầu con Mực…
Tháng 05 năm 1968. Trời nắng chang chang muốn điên cái đầu. Quây quần tối ngày ở cái vùng Định Quán có làm gì được đâu. Dẫn đại đội đi lên đi xuống mở đường, an ninh trục lộ. Định Quán –Phương Lâm, Phương Lâm -Định Quán. Xe đò đi lên đi xuống. Tối ngày chỉ thấy xe đò và rừng cây hai bên đường. Ngày tháng trôi qua, chiến cuộc càng mù mịt. VC tấn công hôm Tết rồi rút lui đi đâu hết. Chắc họ đang chuẩn bị cho một đợt mới?
– Ê, Chúc. Thằng Nghĩa đã đi rồi. Có Chuẩn Úy An mới ra. Trung đội 3 có mấy que, để nó về kể như làm tiểu đội trưởng.
– Thì hồi đó tớ cũng vậy thôi.
Chuẩn Úy An và Trung sĩ Nhi lót tót ra theo xe tiếp tế Tiểu Đoàn. Còn chơn ướt chơn ráo thì có lịnh hành quân.
Khuya phải nổi lửa nấu cơm để trưa mai có cơm ăn. Nhưng có được ăn trưa đâu.Tiểu Đoàn bị Trung Đoàn 274(?) phục kích giữa đoạn đường Định Quán-La Ngà. Mình đi lùng kiếm VC cả tháng nay mà hông thấy bóng dáng nó đâu. Trái lại nó biết mình ở đâu, làm gì để đến giờ nó thừa cơ nó dếnh cho mình một trận, nhưng VC hông ngờ Tiểu Đoàn vừa được cấp phát AR- 15 nên quật lại một đòn chí tử. Tại sao lại hành quân mở đường Định Quán-La Ngà? Mấy ngày trước đã rụt rịt có tin Tiểu Đoàn trở về Long Khánh bằng xe rồi mà? Chắc là có nội tuyến mới biết rõ ràng như vậy?
Chuẩn Úy An mới ra trường, còn lạ nước lạ cái nên mất mạng. Và Trung Sĩ Nhi cứ chằn chằn trở về cho đúng ngày phép. Để đến bây giờ hai người vợ trẻ đầu phải quấn khăn tang. Tiểu Đoàn rối lên giống nồi canh hẹ. Mấy bà vợ lính chạy đầu nầy đầu kia hỏi thăm tin tức chồng. Mặt ai nấy đều tỏ lo âu sợ hải. Nhưng mà làm sao biết rõ được ở ngoài kia, có anh còn bị thương ngoắc ngoải, chưa tản thương được, hông biết sống hay chết. Có người bị thương nhẹ, nhưng đợi chờ hoài, hông được băng bó, máu ra nhiều, rốt cuộc rồi cũng chết. Bị phục kích từ sáng mà đến gần chiều mới có đơn vị tiếp cứu và tản thương thì làm sao mà hổng thiệt hại nhiều?
Hồi Tết Mậu Thân, VC thất bại nặng nề sau khi đánh chiếm tỉnh lỵ Bến Tre. Để gây tiếng vang trở lại, họ khuấy động bằng khủng bố. Nhờ hoạt động “tích cực”, Út Nhạy được “điều động” về Trúc Giang và “biên chế” vào đơn vị biệt động dưới quyền chỉ huy của Năm Khuẩn. Cô ta có nhiệm vụ đặt mìn trong rạp hát, chợ búa hoặc nơi đông người tụ họp. Ngày ngày, cổ giả người buôn gánh bán bưng la cà các rạp hát Casino, Bờ Hồ, Cảnh Xuân, Cọng Hoà, Lạc Thành để tìm cách len lỏi đem chất nổ vô trong rạp. Cuối cùng Út Nhạy cặp bồ với một anh chàng trong rạp hát LạcThành nên ra vô dễ dàng. Hôm đó, ngày 21 tháng 07 năm 1968, rạp chiếu phim Rivière Sans Retour(???), có cô đào văm Marilyn Monroe và Robert Mitchum đóng nên chàng Thiếu Úy Không Quân rủ người vợ sắp cưới của mình đi coi. Nhằm ngày Chủ Nhựt, NgọcThiền và Bon tính coi xuất sáng, nhưng vì phim hay, đông người, nên mua vé hông được. Hai người đành coi xuất hai giờ chiều. Họ vô tình ngồi vào hai chỗ có giỏ xách của cô biệt động để dưới đít ghế, vì Út Nhạy ngồi sau lưng họ. Cô ta nói láo với anh bồ là mua đồ đem về quê, sẳn dịp coi hát xong xách về luôn. Nhưng mới vô phim chừng một chút, cổ bỏ giỏ đó rồi lật đật đi ra. Khi Út Nhạy vừa ra khỏi rạp, một tiếng nổ thật lớn bùng lên. Thiên hạ trong rạp tuôn chạy, dẫm đạp lên nhau.Cùng lúc nhiều tiếng gào thét vang dội…
Thoạt đầu, người mẹ hông nhận ra xác con mình và chàng rể. Nhưng sực nhớ lại màu sắc của chiếc áo dài bông đỏ thắm mà Ngọc Thiền bận và đôi giày của thằng Bon mang trước khi đi, bà vụt té xỉu. Một lúc sau, bà tỉnh lại. Bà già khóc ngất bên hai thân thể nát bấy nhão nhoè nhão nhoẹt. Gương mặt Sáo Sậu hông còn nữa. Đôi mắt u buồn của em ở đâu rồi? Trong vũng máu và óc lền lền? Trái mìn tự chế bằng nhiều cục sắt chặt nhỏ đã băm cái đầu người con gái nát như tương bằm…
Rồi Thanh lại thuyên chuyển về Tiểu Khu Cần Thơ. Đại đội vắng đi những người sĩ quan nhiều năm lặn lội trong rừng sâu cùng Phùng Xuân. Chuẩn Úy Dồi ít nói, thật thà, chắc là một anh chàng học sinh miệt tỉnh. Trái lại Chuẩn Úy Khang cao ráo, khoảng một thước bảy, còn trẻ bân, mặt còn búng ra sữa, có vẻ thích thú đời lính tráng. Trên đầu nó luôn luôn là cái bê rê màu cứt ngựa, hay cái nón đi rừng kiểu của binh sĩ Úc. Miệng hay hút gió những bản nhạc của Trần Thiện Thanh và bản “24 giờ phép” của Trúc Phương.
Đi ra chợ Long Khánh cua các em thì trên đầu là cái nón đi rừng. Miệng lúc nào cũng phì phà cái ống vố, khi thì to, khi thì nhỏ, lúc cong, lúc thẳng. Đôi lúc nó tỏ ra điệu nghệ, lấy ống vố gõ đôm đốp vào đế giày cho tàn thuốc Half and Half rớt ra. Thuốc hút bíp như No 79 hay Half and Half đâu có rẻ. Thời buổi bây giờ, những loại hàng dù ra từ PX của Mỹ như thuốc lá, lade lon, xà bông thơm… phần đông do các bà vợ Mỹ hoặc do những tay chuyên buôn lậu tuồn ra, chớ ai mà có được đô la đỏ để mua. Người ta chuộng uống lade lon sang hơn nhưng thiệt ra đâu có ngon bằng lade con cọp của Pháp ở Chợ Lớn.
Có hôm, nó gò đâu được môt đám nữ sinh, rủ rê nhau về đại đội ca hát, tán dóc. Kể ra cũng vui với anh chàng Khang người Hố Nai nầy. Nhiều anh em trong đại đội cũng vui lây.
– Khang, anh lớn con như vầy sao hông đi vô Nhảy Dù hay Thủy Quân Lục Chiến cho nó oai hơn hôn?
– Thưa Trung Úy, nhà có ba anh em. Một người chết trận. Một người là phế binh. Lẽ ra tôi được miễn. Nhưng tôi không thích, tôi muốn vô Nhảy Dù. Ông Bố năn nỉ: thôi con đi lính Sư Đoàn nào ở gần nhà đi.
Còn trẻ, khoẻ, yêu đời, Khang như là hình ảnh của lớp trai trẻ của miền Nam trong thời chiến tranh. Chính vì lẽ đó mà Phùng Xuân hông bao giờ kềm giữ số hạ sĩ quan trẻ trong đại đội. Có dịp, Xuân sẳn sàng ký giấy cho họ theo học các khoá sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mà thiệt vậy, khi họ ra trường, tròm trèm ít năm, nếu súng đạn chê, lon lá họ cũng gần bằng Xuân.
Anh chàng Khang hông bao giờ chịu ngồi yên, xẹt chỗ nầy xẹt chỗ kia, đía dóc vui cười hồn nhiên. Hể hô có lịnh di chuyển là a lê hấp tập họp lính tráng đầy đủ, sẳn sàng lên đường. Hôm chuẩn bị hành quân xa tuốt tận Tây Ninh, anh ta mừng ra mặt…
Hành quân Toàn Thắng 71 là cuộc hành quân rầm rộ và qui mô, vượt qua biên giới Việt Nam, tiến sâu vô xứ Chùa Tháp, dọc QL 7 để truy sát Trung Ương Cục Miền Nam của VC. Quân đội Việt Nam Cọng Hoà gồm nhiều binh chủng, càn quét một vùng rộng từ Snoul, Mimot, Krek, Kandal Chrum, qua tận đồn điền Chup, phía bắc lên tới Dambe, Chlong và định tiến vào Kratié… Trước đó Sư Đoàn 25 BB Mỹ cùng các đơn vị khác –Hành Quân Jonction City-đã cày nát mật khu Dương Minh Châu, vùng Mõm Chó, Lò Gò… càn quét VC và đẩy Trung Ương Cục Miền Nam chạy tuốt về bên đất Miên.
Sân bay đất đỏ Tây Ninh, nằm cạnh Bộ Tư lịnh Tiền Phương Quân Đoàn III, rộn rịp hẳn lên. Máy bay lên xuống hà rằm. Bụi bay mù mịt. Phóng viên chiến trường chầu chực để lấy tin tức. Bộ Tư Lịnh tiền phương của Sư Đoàn 18 đóng trong căn cứ Trảng Lớn có vẻ yên ắng hơn. Ngày ngày, vị Tướng Tư lịnh Lâm Quang Thơ, sáng nghe thuyết trình về diễn tiến hành quân.Thỉnh thoảng, trưa thấy ông ngồi im lìm, bên ly Martell, sau chuyến bay thị sát các đơn vị.
Hổng hiểu tìm và diệt được mấy tay tổ TƯC hông mà chỉ thấy đoàn xe vận tải chạy nườm nượp ngày đêm từ Tây Ninh- Trà Vong- Mỏ Công- Trại Bí- Cần Đăng- Bổ Túc- Xa Mát trên QL 22 để lo tiếp tế cho các đơn vị hành quân. Chuyến đi cũng đầy mà chuyến về cũng đầy!
Tỉnh lỵ nhỏ bé trở nên ồn ào. Bình thường chỉ có lèo tèo các anh lính của Tiểu khu. Bây giờ, đâu đâu cũng thấy bóng dáng đủ sắc màu áo lính. Xe nhà binh tuôn ào ào tấp nập, bụi bay mịt trời, qua tỉnh lỵ, theo Quốc Lộ 22 lên Trà Vong, Thiện Ngôn qua bên Miên. Chiếc cầu hồi trước rộng thênh thang, giờ hẹp té. Sinh hoạt bổng nhiên rộn rịp. Quán ăn uống tấp nập, toàn lính là lính. Lính ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều. Tiếp theo đó là các cô tre trẻ ăn mặc lượt là tự nhiên ở đâu tới nhiều hơn.Họ lượn qua lượn lại trong các quán ba mọc theo ven đường.Và, họ ngã ngớn với nhóm quân nhơn từ chiến trường mới vừa về.Và, khiến cho các nữ sinh tỉnh lỵ e thẹn cuối đầu khi vô tình đi ngang qua. Đời sống dân chúng bị xáo trộn, thôi thúc theo nhịp sống nhà binh. Họ bàn tán về cái chết của vị sĩ quan pháo binh Sư Đoàn: Xe jeep của Thiếu Tá Cường, bị bỏ lựu đạn trong bình xăng, phát nổ khi chạy ngang qua Bàu Sen, Trảng Lớn…
Các đoàn văn nghệ liên tục tổ chức các buổi trình diễn cho các đơn vị hành quân. Phần đông là các đơn vị tiền phương hưởng.Chớ mấy khi mà các anh lính chiến đấu ngày đêm tuốt bên kia biên giới được nhìn thấy bóng dáng các nàng ca sĩ. Chỗ người ta đang đánh trận rầm rầm, sáng ăn ở chỗ nầy, tối ngủ ở chỗ khác. Ngày đêm cái chết rình rập sát bên, làm sao mà các đoàn văn nghệ dám tới đó.
Nhưng trong khu Tòa Thánh Cao Đài vẫn im lặng. Mọi việc như thường lệ. Chợ Long Hoa vẫn bán đồ chay. Tín đồ áo dài trắng ngày ngày vẫn ê a theo nhịp song lan các bài kinh kệ điệu thơ song thất lục bát. Họ sùng đạo, tin tưởng nơi Đáng Chí Tôn cao cả như trong quyễn Le CaoDaisme của Gabriel Gobron mô tả. Và, Trung Úy Nguyễn văn Rài, ở phòng Hai Tiểu Khu, vẫn bình thản lái xe Honda đi làm ngày hai buổi từ Cực Lạc đến Tây Ninh.
– Anh có còn nhớ hồ sơ một cô gái ở Bến Tre hôn? Khoảng ba bốn năm về trước. Cổ có bí danh là Sáu Trân đó mà. Nhớ hôn?
– Lâu quá rồi. Đâu có nhớ nổi.
– Cổ lên đây tính đi vào mật khu Dương Minh Châu, đó mà.
-À. À. Nhớ rồi. Hình như có ai can thiệp, nói cổ hông có tội tình gì nên thả mất rồi.
– Đúng là thả hổ về rừng!
Khu Toà Thánh của anh an lành, nhưng cọp dữ ngủ trong đó, anh có biết hôn?…
Chiếc xe ngừng trước sân nhà. Bao năm qua ngôi nhà vẫn như cũ. Hàng dừa cao lớn hơn trước, đầy trái. Nắng trưa xuyên qua kẽ lá cau, đong đưa theo làn gió.
Cô học trò nhận ngay ra ông thầy dạy mình ngày xưa. Sau một tiếng la lớn: “Thầy!” mừng rơn, rồi đứng nhìn ông thầy trân trân, hơi rươm rướm nước mắt. Có điều gì nuối tiếc hả Bình Quang? Em bây giờ đã có một bầy con đang đứng lóc nhóc khoanh tay chào ông thầy trong bộ đồ nhà binh đây nè. Thầy hông còn là thầy khả kính, đạo mạo như ngày xưa nữa đâu Bình Quang. Dưới lớp áo nầy, thầy đã biến thành nếp người ăn nói ba trợn, phang ngang bửa củi rồi.
Bình Quang hông nói, chỉ mỉm cười, nhìn chàng trai “thầy giáo” có vẻ “phong trần hơn xưa” với ba bông mai đen gắn trước ngực. Được một lúc, nàng bắt đầu kể huyên thiên về chuyện hay cúp cua giờ hoá học của bạn nàng, của những người ở trường xưa mà quên kéo ghế mời ông thầy ngồi và rót nước cho ông thầy uống. Lớp thầy ngày xưa và học trò trai lớn lên đều đã đi lính hết rồi. Nàng kể có nhiều bạn trai trang lứa lần lần mất đi hết.
– Sao vậy?
– Tụi nó có thằng nào chịu đí lính Tiểu Khu hay lính Sư Đoàn đâu thầy. Tụi nó chê. Hùa nhau đăng lính Biệt Cách, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến hay cùng lắm là Biệt Động Quân. Tụi nó nói một là xanh cỏ hay là đỏ ngực.
– Em có còn nhớ Trung Tín hôn?
– Em còn nhớ. Hồi đó, tụi nó đồn rùm lên. Và mấy con nhỏ quỷ cái đó ở đâu mà tụi nó cũng có cuốn tập đó. Rồi tụi em cũng chuyền nhau lén lút coi.
– Em cũng có đọc?! Bây giờ mới khai ra! Hèn gì mà!… Thằng Tín đâu có đi mấy binh chủng dữ dằn đó đâu. Có lần thầy đi hành quân với Thiết Giáp. Nó ngồi trên xe đội bề rê đen, kêu “Thầy” một tiếng làm thầy giựt mình. Lúc đó học trò cũng lon lá đâu thua gì thầy. Nó là Chi Đội phó rồi. Còn mấy thằng khác đi chi binh chủng ngầu dữ vậy?
– Trời ơi! Tụi nó khoái đồ rằn ri, oai hơn, phong sương (?) hơn, coi có vẻ người hùng hơn, thầy ơi. Ngồi ở quán nhậu, mặt thằng nào thằng nấy còn búng ra sữa, mà miệng phì phà đầy khói. Áo trận toàn là đồ bông hông. Hùng dũng hiên ngang lắm! Hùng đâu hổng thấy, mà lâu lâu em nghe tin thằng nầy chết ở ngoài Trung, thằng kia mất tích ở Đồng Tháp. Bây giờ nếp sống nhà binh thay đổi tụi nó nhiều lắm thầy ơi. Con nhỏ em bà con cũng vậy. Nó mê lính.Nó là lính rồi thầy.
Một cô nữ quân nhơn từ dưới nhà sau bước lên. Chơn đi giày cao gót, nhún nha nhún nhảy. Miệng cười chúm chím.Tay cầm ly nước dừa, mời Xuân.
– Chào Đại Úy.
– Em bà con bạn dì của em đó thầy. Nó tên Ngọc Tuyết, đi lính truyền tin của Tiểu Khu ở trong căn cứ Trảng Lớn. Nó đó, cũng khoái lính lắm. Lúc trước, nó lấy một anh chàng Thiếu Úy Lực Lượng Đặc Biệt, bạn học. Rồi thằng đó cũng đi bán muối. Nó buồn quá. Sau đó là một anh chàng Thiếu Úy Địa Phương Quân. Cơ khổ, bị đánh đồn rồi cũng lên bàn thờ luôn.
– Rồi cô Tuyết định lấy lính nào cho hổng chết đây.Thời buổi nầy sống chết biết đâu mà rờ. Gặp đó chết đó. Bom đạn nhiều quá. Biết đâu mà tránh bây giờ. Súng đạn tránh mình chớ mình có tránh nó được đâu.
– Nó còn trẻ lắm. Chưa đầy hai mươi mà đã hai đời chồng. Hình như mấy hôm rày có hành quân qua bên Miên lớn lắm hả thầy? Em thấy chồng em làm ở nhà thương về kể có chết và bị thương nhiều lắm. Thầy ở đây có lâu hông?
– Hông. Thầy cũng hổng biết bao lâu. Đời lính tráng rày đây mai đó, có ở chỗ nào lâu đâu.