← Quay lại trang sách

- 6 -

Buổi trưa. Nắng nóng đổ lửa. Đường trong căn cứ nhiều chỗ lồi lõm. Ngọc Tuyết đạp xe len lỏi qua từng khu đóng quân mà Xuân đã chỉ cho nàng. Ngọc Tuyết hông muốn Xuân đến rước cô ta hoài. Mấy con nhỏ quỷ cái đó hay xì xào lắm!.. Cuối cùng cô ta cũng tìm ra được đúng bunker nơi chàng ở.

Nàng dựng chiếc xe đạp bên hông rồi tự nhiên chui vào. Ánh sáng từ những lỗ châu mai soi rọi yếu ớt. Bên trong hơi tối nhưng đỡ nóng hơn bên ngoài chút ít. Xuân đang ở trần trùng trục, nằm trên cái sạp đóng bằng những miếng ván thông vụn ghép vụng về. Người ở trước chắc là cũng ở tạm bợ nên lượm lặt ván đâu đó rồi gá ghép cho có chỗ nằm.

– Dữ hôn. Trưa nắng như vầy mà cũng ráng chạy tới đây. Mồ hôi mồ kê chảy tùm lum tùm la.

– Biết anh cả mấy tuần nay mà hổng biết chỗ mới anh ở như thế nào. Mấy chỗ cũ thấy anh nằm võng lắc lư sụt sà sụt sịt. Bữa nay xuống ca, chạy tới coi thử anh ở “băng kơ” có đỡ hơn hông?

– Thì về đây đóng tạm. Có mấy cái hầm của đơn vị cũ thì chui vào. Đâu như em vậy.Có doanh trại đàng hoàng.

Xuân lấy bi đông rót cho nàng một ly nước lạnh. Ngọc Tuyết uống chừng nửa. Còn lại một ít, cô nàng ngưng lại, nhìn Xuân một lúc. Cổ rót nước vào lòng bàn tay rồi bụm lại đưa lên rửa mặt. Nước bắn tung tóe, chảy xuống ướt vạt áo trước. Ngọc Tuyết tự nhiên vói lấy cái khăn nhỏ vắt đầu sạp lau mặt.Và, từ từ mở hai ba nút áo ra, rồi lau vào trong ngực.

– Áo em ướt hết rồi. Em muốn thay áo. Anh có áo khác hông?

Xuân lấy cái áo của mình đưa cho cổ. Ngọc Tuyết cầm lấy áo, rồi làm như hông có ai, quay lưng lại cổi áo và luôn cái xú cheng ướt vứt xuống đầu sạp. Xuân ngó thấy, chưng hửng. Gì lạ vậy? Mấy tuần nay, hai đứa chỉ đi tới lui gặp nhau ở nhà Bình Quang và ở ngoài lều võng. Cô học trò cũ tinh quái, nhiều khi cũng nói ra nói vào những lời bóng gió giữa Tuyết và ông thầy. Xuân cà rỡn ỡm ờ cho qua câu chuyện. Thế mà hôm nay…

Sau khi mặc áo khô, gài sơ sịa hai nút dưới, nàng quay lại đưa mắt nhìn Xuân, miệng chúm cha chúm chím, cười cười. Một sự mời mọc đáng yêu? Xuân bước tới. Một cái hun thật lâu cho đến khi Ngọc Tuyết ngã dài trên cái sạp hẹp té hông đủ cho hai người nằm…

Cô nầy thuộc làu làu câu Kiều: “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”. Hông có trậm trầy trậm trật. Thiệt bài bản. Sít rịt. Mồ hôi họ tràn như lỗ mội, thay phiên tắm cho nhau, chảy chèm nhẹp trên ván thông khô đến hai ba lần. Bên ngoài nắng nổ đom đóm. Vắng lặng…

Ngọc Tuyết vẫn còn nằm trên mình Xuân. Nàng rướn lên, vói tay lấy bao thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ màu xanh, nắm lắc mạnh một vài cái cho một điếu thuốc ló ra. Xong nàng đưa bao thuốc lại gần miệng, mím môi ngậm lấy một điếu.Nàng bỏ bao thuốc lại, lấy tay cầm điếu Ruby lỏng le vỗ vỗ tạch tạch xuống ván một lát cho chặt. Hai ngón tay se se phần giấy còn dư trở nên giống như tim đèn cầy. Ngọc Tuyết ngậm điếu thuốc rồi cầm lấy Zippo bung nhẹ một cái trốc. Ngọn lửa xanh bùng lên. Nàng bập, bập, bập. Đầu điếu thuốc đỏ rực. Ngọc Tuyết rít rít hai ba hơi, xong phà thiệt mạnh làn khói thuốc xám dài lan tỏa khắp căn hầm….

Nàng gục mặt xuống ngực Xuân, hun lấy hun để mồ hôi nhem nhép. Rồi lại lần khân cà mấp cà máy, cà tưng cà tiu. Sau đó, nàng nằm im re. Chắc cổ say thuốc hay…? Phùng Xuân chợt nhớ đến câu nói của mấy thằng lính quỉ sứ: “Gái hai chồng n…c nổ con ngươi”. Chàng cười thầm.

– Em học ở đâu được cái mửng đó vậy?

– Ở ông chồng lính Biệt Cách của em, chứ ở đâu! Mỗi lần tụi em ngủ với nhau xong, ảnh đều làm như vậy đối với em. Ảnh cũng hút Ruby Quân Tiếp Vụ như anh. Nên lúc gặp anh ở nhà chị Quang, em nghe mùi thuốc Ruby nầy của anh, em nhớ tới ảnh. Ảnh chết mất xác đâu đó, trong mật Khu Dương Minh Châu, lúc nhảy toán. Lúc đó, em mới mười bảy tuối. Từ đó, em khoái đến phát ghiền mùi thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ, và đôi khi cũng cụng vài ly lade để nhớ lại ông chồng chịu chơi của em. Hình như ngày xưa, chị Bình Quang cũng yêu anh dữ lắm, phải hôn?

– Ờ! Lúc đó chị em còn học trò, chắc cũng khoảng mười sáu, mười bảy.Tình yêu thầy trò mơ mộng như tiểu thuyết. Chắc chị em nghĩ như vậy. Nhưng anh đâu có quyền yêu Bình Quang được vì anh còn trách nhiệm của người thầy giáo. Hơn nữa lúc đó, anh có người yêu rồi.

– Nhưng mà bây giờ anh cũng có vợ rồi. Sao anh còn ve em làm gì?

-Xí! Thì em cũng cua anh chớ bộ. Nhưng mà dù sao, đây cũng là sự phản bội của anh. Phản bội của thằng lính thời chiến tranh, có cái tội là sống xa nhà, nay đây mai đó, thiếu vắng mùi đàn bà như chàng nhạc sĩ Trúc Phương ví von. Biết làm sao bây giờ? Có một mớ ông lính hông chung tình? Họ luôn luôn tìm cách “ăn chè Nhà Bè”. Và họ cũng hông dám nói với vợ là họ đã bồ bịch với các cô gái khác hoặc đi chơi đĩ. Họ dấu biệt vợ nhà đang ngày đêm trông nom con cái… Còn như em bây giờ, người nữ quân nhơn yêu mùi thuốc súng anh lính chiến pha áo trận như các ông nhạc sĩ vẽ vời? Nhưng thực sự, có khi nào có mùi thuốc súng đâu? Có mùi mồ hôi của áo quần, của vớ, của giày thì có. Em ghiền mùi thuốc lá. Mai đây, anh đi rồi, em lại yêu một mùi thuốc lá khác, có phải vậy hôn?

– Mấy ông lính hay trở treo như bánh phồng. Anh có nước hôn?

– Ờ! Có. Ở bên ngoài. Mỗi ngày ô đô xách tới hai thùng đạn đủ để tắm và đánh răng rửa mặt.

– Hổng có nhà tắm hở anh?

– Lính tráng như tụi anh làm gì có nhà tắm hả em. Đi trong rừng hai ba bữa gặp được con suối là mừng. Còn về đây anh đứng tắm ngoài trời hông à.Thôi em ráng đứng trong nầy tắm đi. Anh nhắm mắt lại, được hôn?

– Thôi khỏi đi. Ai mà tin lính được.

Nàng cứ tự nhiên lấy lon thịt hộp, dè xẻn múc từng lon, nhè nhẹ đổ từ ngực xuống. Rỉ rả rọc rạch nước tuôn qua những làn cong cơ thể, len qua khe, rồi nhễu lịch bịch xuống nền sàn thông khô. Ngọc Tuyết đã xài gần hết một thùng nước để lau mình. Xong, nàng chưa chịu bận quần áo vô, lấy tờ báo quạt lia lịa.

– Trời nóng quá. Em hổng muốn bận đồ nữa.

– Thôi đi cô. Tôi hết xí quách rồi!

– Mới có chút síu sìu siu. Anh sò rồi phải hôn?

– Sò hay là hổng sò gì chút nữa thì biết. Một, hai lần nữa là hổng còn nước để lau mình đâu. Mà thôi để dành nước, vì em ở đây suốt đêm, phải lau mình nhiều lần nữa. Còn anh, chắc anh phải tắm búng quá!

Thân thể lồ lộ của một người đàn bà trẻ trung ở tuổi đôi mươi, đã hai đời chồng lính trong thời chinh chiến, đầy đủ sức khêu gợi, nhởn nhơ trước mặt chàng hông chút thẹn thùng. Còn hơn “Dày dày sẳn đúc một tòa thiên nhiên” của cô Kiều. Sao cô nữ quân nhơn nầy dạn quá vậy hay là cô ta lẳng lơ? Hông có đâu? Ngọc Tuyết sống thực đó mà. Nhiều khi chàng hông hiểu tình cảm của những cô gái ở miền quê lúc chiến tranh. Họ mất chồng thường xuyên, nên sằn sàng yêu những người lính mà họ cảm thấy gần gủi với cái chết giống như chồng họ? Cũng hông phải? Thế còn cô Mận thì sao?

Bom đạn quá nhiều, giết chết thanh niên ngoài chiến trường làm cho các em hụt hẫng, hay là các bài ca mùi mẫn đã làm cho các em yêu lính xả láng? Ai mà biết được? Ai mà biết được cô nữ sinh Xuân Lan yêu tha thiết chàng sĩ quan trẻ đẹp Trần Công Điềm như thế nào?

Trăng sáng màu đất xám đỏ ngật ngờ. Ánh trăng núp lấp ló bên những đống gò mối. Mút đằng kia là sân bay mập mờ trong màu sáng ngà ngà. Hai đứa ngồi nhìn chân trời trăng khuất đằng xa. Những doanh trại cũ kỹ do Mỹ giao lại nằm im lìm trong màu ngà đục đục. Ánh trăng gật gù óng ánh màu nâu đỏ trong chung rượu nếp than. Sương trăng thơm thoang thoảng, tan nhè nhẹ, lập lờn theo khói thuốc Ruby mờ mờ.

– Ngày mai, em sẽ đổi ca với con nhỏ bạn. Em sẽ làm ca ngày suốt tuần. Tối tối, em tới với anh.

Đâu có được như ý của nàng. Ngọc Tuyết chỉ đến có ba đêm. Đơn vị Xuân phải vội vã đi thay thế cho đơn vị bạn. Chàng hông kịp nói một lời từ biệt.

Đại Úy Lê Th… Đ… ngày hôm đó cùng Tiểu Đoàn tiến vào đồn điền Chup, hông thấy một bóng ma VC nào hết, chỉ thu được mười ngàn tấn gạo. Nấn ná một thời gian rồi rút về, Tiểu Đoàn bị VC tấn công nên tổn thất nặng. Một tháng sau, Trung Tướng Đỗ Cao Trí bất thình lình tử nạn trực thăng ngày 27 tháng 02 năm 1971. Sau đó, cuộc hành quân Toàn Thắng 71 hổng đạt được kết quả như mong muốn. Các đơn vị lục tục rút quân về. Và VC thừa cơ đuổi theo chận đánh. Nhờ lực lượng Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh với sự điều khiển đầy mưu trí của Đại Tá Trần Quang Khôi, nên một số đơn vị rút lui bảo toàn được lực lượng, còn một số bị tổn thất nặng.

Sĩ Quan quân đội Việt Nam Cọng Hoà tốt nghiệp ở các quân trường trong hay ngoài nước thấm nhuần chiến thuật hành quân của Tây Phương. Ra trường, noi theo những gì họ học được, họ thường áp dụng lối đánh như vậy. Hỏa lực, quân số… quyết định chiến trận. Nhưng nhờ thêm tài thao lược un đúc từ lòng chống ngoại xâm phương Bắc, lòng gan dạ và có khi may mắn, họ lập được nhiều chiến công lẫy lừng.

Lịch sử nước Việt, trải qua ngàn năm Bắc Thuộc, là những thời kỳ chống ngoại xâm. Vào những lúc đó, hông có những lực lượng bên ngoài giúp đỡ, cha ông chúng ta đã tự mình nghĩ ra nhiều cách đánh mưu mẹo để tống kẻ cướp nước Bắc Phương ra khỏi bờ cõi. Hiển hách nhứt là những trận đánh của Lý Thường Kiệt, của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Quang Trung Nguyễn Huệ. Khi nghiên cứu những trận đánh đó, chúng ta hông khỏi khâm phục những lối điều binh của các vị danh tướng này.

Thời kỳ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, với chính sách Ấp Chiến Lược, đã đẩy lùi VC trong Nam đến gần chỗ dãy chết. Chúng ta đã tách dân chúng ra khỏi địa bàn họ sinh sống. Họ đã dãy dụa kêu la phao vu đủ mọi thứ nhằm phá hỏng chính sách đó. Chúng ta hông cần nhiều bom đạn, hông cần nhiều nhân lực nhưng đã đẩy họ vào thế bị động và dần dần bị tiêu diệt. Nếu cứ tiếp tục, những cán bộ gộc lần lần bị sa lưới và lực lượng nòng cốt họ bị tan rã hoặc đầu hàng. Và họ hông có cơ hội xâm nhập vào Sài Gòn để phá rối như hiện nay.

Vào năm 1970, Việt Nam tiếp nhận một số người Việt hồi hương từ Kampuchia mà hông thanh lọc kỹ càng. Các cán bộ VC, trong đó có Trần Văn Thành và Marin Pla (bây giờ với bí danh là Sáu Ngọc ) đã len lỏi cùng đám người Việt hồi hương xâm nhập vào Sài Gòn, tạo nên nhiều sự rối ren cho thành phố.

Nhưng vận mệnh nước đổi thay. Những kẻ bán nước lấy tiền đô, với sự tiếp tay của nước ngoài đã lật đổ vị nguyên thủ thời Đệ nhứt Cọng Hoà. Rồi sau đó lợi dụng sự rối ren của đất nước thời Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát, tháng 3 năm 1965, họ ào ào đổ quân vào mảnh đất Việt thân yêu mà hông có sự yêu cầu nào của nước chủ nhà. Họ sử dụng hoả lực tối đa để cày bừa, để xài cho hết ba cái thứ cổ lổ sỉ của thời Đệ Nhị Thế Chiến. Và Ấp Chiến lược bị dẹp bỏ, cũng như bờ đê bị vỡ. VC đã thừa cơ núp vào trong dân, dần dần xoá bỏ hạ tầng cơ sở làng xã và đẩy lùi chúng ta vào thế bị động. Và chúng ta bị động thật. Mai họ đánh chỗ nầy, mốt họ phá chỗ khác rồi dông mất. Chúng ta đem quân ùn ùn tới, nhưng biết họ ở chỗ nào mà tiêu diệt. Và càng ngày sức lực chúng ta hao mòn, co lại một chỗ để giữ chặt các vị trí quan trọng. Họ tung quân bao vây chúng ta… Chúng ta đã bị thua ở hiệp hai.

Bây giờ Xuân hông còn gần Chúc nữa. Ở vị trí mới, chàng xa rời thằng Bắc Kỳ dốn thân yêu. Đôi khi, ngồi một mình, bên ly cà phê đen nơi quán cốc nhỏ nào đó, dưới tàn cây, một buổi trưa hoặc ban đêm vắng lặng nhìn ánh trăng suông mờ, chàng bổng nhiên nhớ đến Chúc. Nhớ lần chia tay, hai đứa nắm chặt nhau một hồi lâu. Lần đầu tiên chàng thấy thằng Bắc Kỳ nầy rơm rớm nước mắt, khác những lúc bình thường đù má, địt mẹ liên tu bất tận. “Rán giữ gìn nghen mậy!”. Nói thì nói vậy, chớ biết đường đâu mà rờ hả Chúc. Miễn súng đạn nó chê mình là được. Rồi có ngày, tao và mầy nhìn thấy non sông nước Việt nầy rạng rỡ!

Lợi dụng thời cơ và sức lực chúng ta mệt mỏi sau những cuộc hành quân Lam Sơn sang Nam Lào và Toàn Thắng sang Miên năm 1971 cộng với những rối ren ở Thủ Đô; VC tổng tiến công. Mùa hè 1972: Quảng Trị, Kontum và Bình Long.

Ngay từ ngày đầu tiên, ngày 12 tháng 04 năm 1972, VC dồn tất cả lực lượng tấn công như vũ bão, quyết chiếm cho được An Lộc. Thành phố bị pháo tan tành gần như bằng phẳng. Nhiều lần VC cố tấn công vào tỉnh lỵ bằng xe tăng và bộ binh, nhưng hông được. Sư Đoàn 5BB và các đơn vị tăng phái chống trả quyết liệt, tiêu diệt gần hết chiến xa VC.

Cuối cùng, sau gần một tháng mở nhiều đợt tấn công, quần thảo với quân đội VNCH mà hông chiếm hoàn toàn được An Lộc, ngày 11 tháng 05 năm 1972, những đơn vị bộ binh VC hờm sẳn phía bắc Bình Long tiến vô, chực tràn ngập tỉnh lỵ nhỏ bé trong lần cuối cùng. Nhưng thời may đã đến, B52 đã dọn sạch những đơn vị nầy trước khi họ vui mừng chiến thắng. Tướng Lê Văn Hưng thở phào, nhẹ nhõm người. Từ đó, mộng chiếm An Lộc của VC bể như bọt nước.

Ngày 22 tháng 06 năm 1972, Sư Đoàn 18 BB (-) gồm Trung Đoàn 43 và 48, trực thăng vận vô An Lộc, lúc cuộc chiến sắp tàn. VC đã lui quân ra xa. Thỉnh thoảng đì đùng vài tiếng pháo của họ để thị uy. Trực thăng bắt đầu ngày ngày bay đi bay lại từ Long Bình, Biên Hòa lên An Lộc.

Ngày 07 tháng 07 năm 1972, khi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu vào thăm An Lộc thì kể như VC đã thất bại hoàn toàn. Và Đại Tá Trần văn Nhựt, Tiểu Khu Trưởng Bình Long cùng Trung Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 ung dung nhâm nhi ly Martell lắc len ken đá cục dưới tầng hầm kiên cố của Tiểu Khu.

Phùng Xuân thận trọng bước qua những con đường hông còn nhà, những khu phố hông còn phố. Tất cả đều tan tành. VC hổng chú ý đến người dân đã sống ở đây. Họ cố ý tiêu diệt hết thảy miễn sao chiếm được An Lộc. Toàn gạch vụn và gạch vụn. Hổng biết có bao nhiêu xác chết của những người dân vô tội bị chôn vùi dưới những đống gạch. Đại lộ Hoàng Hôn bây giờ hông còn nữa. Xe tăng VC nằm la liệt.

Xuân mon men đến khu chợ đổ nát. Nhà dân chúng về phía bắc hổng còn. Nhưng những nấm mồ nhỏ bé của các anh chiến sĩ Biệt Cách 81 Dù nằm uy nghi trong cảnh đổ nát hoang tàn trước cửa chợ. Hổng còn ai ở đây. Xuân đứng yên lặng một hồi lâu, bùi ngùi tiếc thương cho những người nằm xuống vì nước Việt mến yêu. Ai có còn nhớ đến họ? Dân Việt sẽ mãi nhớ đến hai câu thơ viết bằng sơn trắng trên hai miếng gỗ đơn sơ cắm trước nghĩa trang: “An Lộc địa sử ghi chiến tích. Biệt Cách Dù vị quốc vong thân” ( Mấy chục năm sau Xuân biết được, tác giả hai câu thơ trên là của cô giáo Pha, giáo viên trường Tiểu Học Bình Long). Và, đột nhiên, Phùng Xuân nhớ đến bài ám đọc chàng đi thi tiểu học từ lúc nhỏ, khoảng năm 1951, 52…: “Họ là những anh hùng không tên tuổi. Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông…”( Anh Hùng Vô Danh.Hùng Nguyên Nguyễn ngọc Huy)

Đồng bào Thượng quyết chí hông đi. Mảnh đất nầy là của họ, rời xa là họ chết. Họ lang thang lếch thếch ở trạm xe lửa cũ, ăn mặc tồi tàn, đôi mắt u buồn, xin từng miếng ăn của binh sĩ. Xuân hông hiểu làm sao họ sống sót qua trận chiến tàn khốc vừa rồi.

Trong những ngày tháng bị vây hãm, thức ăn của chiến sĩ ở An Lộc hông có gì, ngoài thịt hộp, gạo sấy… và những loại lương khô khác được thả từ những chiếc phi cơ vận tải liều mình bay vào vùng lửa đạn để cứu trợ cho bạn. Có nhiều chiếc bị cháy và phi hành đoàn đều hy sinh. Sau này, C-130 bay cao mút trời xanh. Những bành tiếp tế vừa ra khỏi máy bay nhỏ bằng đầu tăm, từ từ lớn dần. Những kiện hàng bung dù cách mặt đất độ 500 m, lơ lững trên không trung, rơi đúng vào sân banh Tiểu Khu. Khi hông bung dù, kiện hàng rít lên như tiếng máy bay phản lực, xuyên thấu qua mấy từng hầm.

Ôi! Chiến tranh. Chiến tranh tàn phá đất nước thân yêu của tôi cho đến khi nào mới chấm đứt. Vừa mới tuổi thơ, Phùng Xuân đã biết chiến tranh. Nhưng ngày đó, vũ khí hông tối tân như bây giờ. Được mấy năm sống đời thanh bình thời Đệ nhứt Cọng Hòa, rồi lại chiến tranh. Ôi chiến tranh!

Chỉ có nhóm người hiếu chiến ở miền Bắc quyết chiếm miền Nam cho được bằng vũ lực. Mùa hè 1972, họ đã thất bại hoàn toàn. Quân đội Việt Nam Cọng Hoà cũng chịu nhiều thiệt hại đáng kể. Và có thể kho vũ khí khổng lồ thời Đệ nhị Thế Chiến đã hết? Nhóm tư bản tạo ra phong trào phản chiến rầm rộ, buộc chính phủ phải chấm dứt chiến tranh??? Người Mỹ đã rục rịt rút quân từ năm 1970 với danh từ mỹ miều: Việt Nam hóa chiến tranh. Không quân Hoa Kỳ oanh tạc ồ ạt miền Bắc vào dịp Giáng Sinh 1972. Miền Bắc thấm đòn. VC bắt bưộc phải ngồi vào bàn hội nghị.

Trớ trêu và mĩa mai, Hiệp Định đình chiến Paris ký ngày 27 tháng 1 năm 1973 ở đâu đâu, người chủ nhà hông hề biết rõ đến nội dung. Kẻ nhảy vào gây chiến tranh hông có ký một hiệp ước lộn lưng nào với nước chủ nhà. Và kẻ hưởng lợi lại ngang nhiên đi đêm, tiêu lòn với nhau xé nát mảnh đất Việt thân yêu, toa rập sắp xếp coi ai có quyền hưởng nhiều hay ít? Cọng Hoà Miền Nam thoát thai từ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, được thành lập vào năm 1960 của các dân trí thức mơ mộng ảo huyền thiên đàng Cộng Sản, con đẻ hoang của Hà Nội, là cái đếch (sic) gì mà cũng được hưởng phần ngồi vào bàn hội nghị? Và kẻ mang quân xâm chiếm miền Nam lại ngang nhiên hông chịu rút quân về, giữ nguyên trạng những vùng đất đã chiếm được để cho hơn 150 ngàn quân BắcViệt tiếp tục trú đóng.

Bất hạnh cho nước Việt mến yêu. Những người lãnh đạo Viêt Nam Cọng Hoà, bị cuốn vào vòng xoáy quyền lực của các nước lớn, hông thể đương đầu với tình thế. Cộng thêm tình hình rối ren trong nước do VC giựt dây khuấy phá. Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn, những bản tình ca ủy mị, tham nhũng tràn lan, sinh viên biểu tình, báo chí xách bị, gậy đi ăn mày… góp phần làm hao mòn sinh lực người lính ngoài trận tuyến. Đủ thứ trò hề ngây ngô. Họ hông nghĩ đền quyền lợi tổ quốc.

VC ma mãnh. Biết là Mỹ hông còn muốn dính líu vào Việt Nam, nên họ ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 mà họ đã ký kết. Họ coi Hiệp Định đó như tờ giấy lộn, muốn xé lúc nào thì xé. Và VC bắt đầu mở những trận đánh nhỏ để thăm dò trong hai năm 1973 và 1974. Trung Cộng cũng hùa theo: đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 năm 1974.

Và đúng như Bắc Việt tiên liệu, Mỹ có dấu hiệu bỏ rơi Việt Nam Cọng Hòa thực sự. Họ bắt đầu “thử lửa” chúng ta với trận đánh đồn Đức Huệ do Tiểu Đoàn 83 BĐQ trú đóng. Nhưng hông ngờ Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi lợi dụng đêm tối, vượt qua biên giới Việt- Miên, đã “ bứng gốc ” nguyên cả Sư Đoàn 5 VC ngày 28 tháng 04 năm 1974 tại khu Mỏ Vẹt.

Nhưng sau đó viện trợ bị bớt dần. Biết được, VC thừa cơ tấn công. Ngày 06 tháng 01 năm 1975 họ đánh chiếm Phước Long. Tiểu Đoàn của Thiếu Tá Lưu văn Cầm nổ lực cầm cự, nhưng hông chống được, đã tìm cách thoát khỏi vòng vây. Ngày 07 tháng 01 năm 1975, Bình Long thất thủ. Và ngày 08 tháng 01 năm 1975, họ bắt đầu xua quân tiến chiếm vùng I và II chiến thuật. Quân đội Việt Nam Cộng Hoà bị bỏ rơi, hông còn đủ súng đạn để phản công, bắt đầu gom lại để đỡ đòn. Nhưng than ôi! sức lực đã mòn. Thế trận bắt đầu vỡ tan. Cuối tháng 03 năm 1975, toàn bộ vùng I và II, rơi vào tay VC. Chúng ta bị nốc ao nhưng còn đợi trọng tài đếm. Viễn ảnh mất nước ở trong tầm tay.

Lỗi tại ai? Lỗi tại tôi mọi đàng! Dựa vào thế lực kẻ xông vào nhà mình, nói lời ngon tiếng ngọt mà mình cũng nghe theo, như gái thơ ngây bị Sở Khanh dụ. Tới lúc mang cái bụng chửa, nó đá đít mình nó tháo chạy. Có phải Chánh phủ Mỹ cố tình đổ xương máu để giúp Việt Nam Cọng Hòa chống Cộng Sản hay nuôi dưỡng Cộng Sản? Vì trong trận chiến Bình Long, ít ra là có ba lần họ cố tình từ chối hông đánh B52 vào Bộ Chỉ Huy Tiền Phương VC và Bộ chỉ Trung Ương Cục Miền Nam. Hay là họ quá thực dụng, bỏ miếng mồi nầy bắt mồi khác ngon hơn? Ai mà biết được?

Buổi sáng ngày 08 tháng 04 năm 1975. Trời còn mờ mờ. Phùng Xuân vừa hút xong điếu thuốc, lấy tay búng mạnh, tàn thuốc văng ra xa. Chàng miên man nghĩ ngợi. Bỗng có nhiều tiếng tum tum vang lên từ hướng Đông Bắc Xuân Lộc. Binh lính quen chiến trận, biết có pháo kích, đồng loạt hô lên: “Pháo kí…ch” rồi mạnh ai nấy chui xuống hầm hố.

Có lẽ VC nhắm vào Tư dinh của vị tướng Tư lệnh Sư Đoàn 18BB, gần như đối diện với chợ Xuân Lộc. Chỉ có khỏang bốn trái là lọt vào Tư dinh, còn bao nhiêu là rớt xuống chợ. Đêm hôm đó, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo hông có ở trong dinh. Tiền sát viên nầy dở, chắc là mấy tay VC nằm vùng cở hạ sĩ quan, học hành hông bao nhiêu. Chớ nếu lấy được tọa độ chính xác là YT 458092 thì điều chỉnh giỏi, pháo sẽ dập nát dinh hông còn miếng gạch vụn! Hay là bọn họ hông có không ảnh tỷ lệ 1/25.000? Chúng lần đâu ra được? Lập tức, Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn đã dọt về rừng cao su bên hông quận Xuân Lộc, ở Tân Phong, cách nơi cũ độ 5km!

Sau đó, đặc công VC xâm nhập vào thị trấn đốt cháy một chiếc V-100 của Tiểu Khu Long Khánh ngay gần ngã ba vào Sư Đoàn, nhưng toán nầy bị tiêu diệt. Cũng giống như An Lộc, VC pháo tối đa vào những khu dân cư, hòng gây gánh nặng cho quân đội trong việc cứu giúp dân lành.

Tỉnh lỵ Xuân Lộc nhỏ bé, đầu trên xóm dưới khoảng hơn một cây số. Nhưng lợi thế của Xuân Lộc là còn vòng đai Ấp Chiến Lược bao bọc được một phần thành phố về phiá Đông, Đông Bắc, hướng Nam và một phần phía Tây. Bờ đất cao khoảng 2m, dầy khoảng 3m, còn thêm hàng kẽm gai lên chừng 2m nên rất an toàn cho đơn vị phòng thủ. Chiến xa VC tấn công rất nhiều lần ở hướng Đông nhưng đều bị đẩy lui. Mặt Tây Nam, những đơn vị VC bị Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu Tá Trần Cẩm Tường và chiến xa của Thiết Đoàn 5 KB tiêu diệt trong rừng cao su.

Liên tiếp mấy ngày tấn công, nhiều đơn vị cấp Sư Đoàn VC hông vô được tỉnh lỵ. VC chỉ còn có nước là pháo dữ dội vào các nơi đóng quân các đơn vị của Sư Đoàn. Phùng Xuân ngờ rằng có nội tuyến nằm trong đơn vị. Có những lần Xuân rảo bước kiểm soát trong đêm, chàng bắt được một người lính đang nghe đài Hà Nội. Vị Tiểu Đoàn Trưởng trước- Đại Úy Đỗ Trung Chu- rời nhiệm sở mà hông bàn giao cho Xuân những điều quan trọng đó. Vị sĩ quan ban hai- Thiếu Úy Dư- còn quá trẻ, chắc cũng hông nắm vững hết tình trạng binh sĩ Tiểu Đoàn trong lúc nầy.

Quân phòng thủ tỉnh lỵ gồm có các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và Trung Đoàn 43(-) với hai Tiểu Đoàn 1 và 3, được tăng phái thêm Tiểu Đoàn 1/52 hình như của Đại Úy Nguyễn văn Út là phải(?) và sau nầy, thêm Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long, quân số còn được một số ít. Anh chàng Long nầy lanh lợi. Đầu tiên là đơn vị đặt dưới quyền xài xể của Tiểu Khu, phòng thủ khu vực hậu cứ Tiểu Đoàn 183 PB, hướng Đông Xuân Lộc. Nhưng anh chàng thấy ở với Tiểu Khu hông ổn (tăng phái Tiểu Khu là bị xài tơi tả như cái mềm rách?), nên xin nhập vào với Trung đoàn 43, về phòng thủ nơi đầu sân bay.

Tiểu đoàn 2/43 do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, ở ngoài tỉnh lỵ, phòng thủ Núi Thị. Nơi đây, từ lâu đã có Pháo đội 150 và 155 ly sẳn sàng yểm trợ cho Sư Đoàn. Ngọn núi nhỏ nầy có hình móng ngựa, có một dinh thự của Pháp rộng rãi, khang trang và mát mẻ. Khu nầy từ trước, khoảng năm 1966, 67… là Trung Tâm huấn Luyện của Sư Đoàn. Phùng Xuân đã dẫn Đại Đội về nơi đây để học cách bắn súng M72 LAW chống chiến xa. Xuân còn nhớ đến Trung Úy Wanatabe, người Mỹ gốc Nhựt. Sau khi đã dạy cho đại đội của Xuân xong, Wanatabé đã cùng chàng và ba thằng trung đội trưởng uống hết hai chai đế “Ông già chống gậy”. Wanatabe hông về đơn vị, lăn phè ra ngủ cho đến sáng hôm sau. Anh chàng chịu chơi thiệt. Bây giờ, những người từng gặp mặt Xuân, ra sao rồi? Họ có còn sống sót trong cuộc chiến ác liệt nầy hông, hở Manas, Don Porter, Wanatabe và Peter Maurice Arnie?

Ngày 12 tháng 04 năm 1975, Tiểu Đoàn 1/43 của Phùng Xuân vẫn giữ vững phòng tuyến hướng Đông Bắc và lấy được một số súng cùng một phóng đồ các đơn vị của Sư Đoàn 18. Vậy là có nhiều nội tuyến của VC đã nằm vùng trong Sư Đoàn. Chàng di chuyển Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn liên tục. Buổi sáng ở gần quán Ba Tiều, buổi chiều ở đầu chợ. Ban đêm ngủ trong tiệm chụp hình Xuân Sơn. Ban ngày trở về nhà thờ Tin Lành…

So ra trận đánh Xuân Lộc hông có đẫm máu bằng trận An Lộc: cường độ pháo kích, tấn công hông nhiều và VC hông chiếm được một góc nào của tỉnh lỵ. Phi pháo đã dập nát những vị trí xuất phát của VC trước khi họ có ý định tấn công vào Xuân Lộc. Hình như những vị chỉ huy của họ hơi kém cõi và binh sĩ hông được huấn luyện kỹ càng?

Hơn nữa, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, ngay ngày đầu, đã di chuyển toàn bộ Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn ra khỏi Xuân Lộc, trú đóng trong rừng cao su bên quận Xuân lộc, ở ngã ba Tân Phong, đối diện vườn cây chôm chôm và soài riêng của bác sỹ Sử.

Buổi chiều ngày 16 (?) tháng 04 năm 1975, Phùng Xuân cảm thấy đất rung chuyển mạnh dữ dội. Đồng thời chàng nhìn thấy một chiếc C-130 vừa rời khỏi vùng hướng Đông Đông Bắc Xuân Lộc. Bom CBU quái ác đã tiêu diệt hầu hết bộ đội VC ở gần núi Chứa Chan. Họ hông còn khả năng tiến vào tỉnh lỵ. Thành phần còn lại lần lần bị Lữ Đoàn 1 Dù thanh toán. Bắc Việt hông còn hy vọng chiếm lấy Xuân Lộc nữa. Một phần cũng là nhờ Biệt Đội Kỹ Thuật Sư Đoàn của Đại Úy Phát đã xác định được các vị trí đóng quân của VC, nhờ đó phi pháo hoạt động rất hữu hiệu. Từ ngày 14 tháng 04 năm 1975, bên trong tỉnh lỵ hoàn toàn yên tỉnh. VC chỉ còn quấy rối bằng pháo kích.

Đầu con trăng. Ánh sáng mờ nhạt vừa vươn lên khỏi ngọn cao su, len len qua những đống đổ nát hoang tàn. Những ụ gạch vụn nhấp nhô trong sương trăng như những ngôi mồ hoang đầy mùi chết chóc. Khói điếu thuốc sắp tàn bay mông lung hoà lẫn hơi trăng lạnh. Xuân rùng mình. Hình như oan hồn những kẻ vừa mới chết còn lãng vãng đâu đây, nương theo ánh trăng về thăm lại nơi chốn cũ.

Hơn hai ngàn năm trước, Kinh Thánh cho đến nay vẫn là một. Hơn hai ngàn năm trước, kinh sách nhà Phật cho đến nay vẫn là thế. Những giáo điều trên được xem là bất di bất dịch. Nhưng, dòng thời gian trôi chảy. Từ thế kỷ XVIII cho đến nay, nhiều phát minh khoa học được khám phá. Người ta giết nhau càng nhiều hơn. Hưởng thụ vật chất càng sa đọa hơn. Thiên đàng Xã hội Cộng Sản ma quái hơn, mê muội những con người mơ tưởng đến thế giới an bình.

Khoa học đã giúp xã hội tiến bộ hông ngừng. Và mọi người mong muốn thay đổi. Niềm tin bị xoáy mòn. Liệu Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Hồi giáo, Khổng Giáo có còn đứng vững mãi với thời gian? Một ngày nào đó, con người biến thành ánh sáng để di chuyển trong không gian đi về một thế giới hiện hữu khác thì cái gì sẽ xảy ra trong cuộc sống nầy? Phùng Xuân hông nghĩ đến được. Mấy hôm nay chàng hút quá nhiều, từ điếu nầy châm đến điếu khác. Ngón tay cái và trỏ trở nên vàng nghịt.

Nhà dân chúng dọc theo đường rầy xe lửa sập tan tành hết. Doanh trại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 43 cũng ngã nghiêng. Nhiều căn phố ở chợ hông còn nguyên vẹn. Rạp hát Đồng Tâm còn trơ bảng hiệu. Chắc ngay phút đầu tiên, dân chúng khu vực chợ bị trúng đạn pháo bị thương và chết cũng khá nhiều. May là ngày hôm đó, VC pháo kích vào tỉnh lỵ rất sớm. Chưa họp chợ đông. Nếu trễ chừng một giờ nữa thì số dân chúng chắc chắn là chết rất nhiều.

Trung Úy Trần Văn Thân, Trưởng Ban ba Tiểu Đoàn hay lùng sục từ những căn nhà đổ nát tìm người sống sót, nhưng dân chúng đã hoảng sợ bỏ chạy từ những ngày đầu tiên. Một hôm, Trung Úy Thân đưa cho Phùng Xuân một xấp hình.

– Thẩm quyền xem cái nầy cho đỡ buồn!

Chàng cầm lấy. Một cọc dày hình 6×9 đen trắng in trên giấy láng, chụp đủ kiểu. Hông có một miếng vải nào hết, truồng như những con nhộng trắng bông bốc, lăng quăng trong nồi nước sôi ươm tơ. Tư thế rất khêu gợi: ngồi ngữa, nằm nghiêng, chổng mông, chổng khu, hẩy người, banh hai chơn, khép hai tay che đậy, giơ cao hai tay. Mình mẫy chè bè trơ trẽn. Chè hẻ đì đóc nhơ nhớp.Thấy nguyên hết bộ sậu. Những gương mặt còn non choẹt chịu chơi mà lại “chơi chịu” như thế nầy? Chắc có lẽ, có một nhóm nữ sinh yêu tinh đã lập cái hội “CTY” ở cái tỉnh nhỏ bé nầy?

– Tôi đoán chắc là các cô ở Xuân Lộc đây, chớ hông có ai khác hơn đâu. Xung quanh đây toàn ruộng rẫy, dân nhà quê. Làm gì họ có dư dã để “ ngựa” như vầy.

– Còn một tấm nầy.Mê lắm Thiếu Tá ơi! Bà L…

Thân kêu anh chàng Hậu mang máy C-25 chìa ra cho Xuân một tấm hình chụp khổ 9×12 đen trắng in trên giấy “soa” đã “rờ tuốt”. Một người đàn bà còn trẻ, nằm dài trên nệm trắng, nuột nà như con đuông chà là. Thân thể cực kỳ sung mãn, rất cân đối. Vẻ đẹp đang thời sắc sảo, mặn mà. Tất cả những gì trên cơ thể đều lộ ra trong tư thế nằm nghiêng.

– Anh moi ra những thứ nầy ở đâu vậy?

– Mấy thằng nhỏ tụi nó lục lạo rồi đưa cho tôi. Sấp hình 6×9 là ở tiệm chụp hình Xuân Sơn. Còn cái hình người đàn bà nầy là bà L… ở tiệm thuốc tây … cuối chợ.

– Vậy mà tự nảy giờ, hai thằng mang máy tụi bây cứ thậm thà thậm thọt, như là quí lắm vậy? Tụi bây có quen cô nào trong sấp hình đó hông? Tao thấy, tụi mình thằng nào thằng nấy, khi coi hình, trái cấm trồi lên tuột xuống, nuốt nước miếng đã đời.

Phùng Xuân đưa hết hình cho Đại Úy Ngô văn Đấu, Tiểu Đoàn Phó. Chàng thẩn thờ nhìn qua phía bên kia đường. Nắng tháng tư ngùn ngụt trong không khí chiến tranh. Thoáng đâu đây tiếng người than khóc trong bom đạn. Họ, những người được sống an bình nơi hậu phương lại bày trò ăn chơi như thế nầy à? Ở cái tỉnh lẻ còn như vậy thì hông hiểu ở Sài Gòn như thế nào? Hổng lẽ, Sài Gòn lại còn hơn như thế nữa? Chàng tin là chắc như thế. Phòng trà, ca nhạc đầy ấp những bản tình ca ủy mị chìm trong khói thuốc, trong những ly cà phê. Chẳng có ai nhớ tới hình bóng người lính, họa chăng thỉnh thoảng có một vài bài hát của Chiến Tranh Chánh Trị.

Bấy lâu nay Xuân hông được về Sài Gòn thường, nhưng có những tin tức phong phanh qua lời đồn: Sài Gòn bây giờ ăn chơi dữ lắm ông ơi, tham nhũng tràn lan, hông những ở ngoài mà còn ở trong nhà binh nữa! Rồi còn nạn bè phái nữa! Nhưng như thế nào là dữ? Mình chỉ đọc qua báo chí vụ còi hụ Long An thôi mà!

Tội nghiệp cho những người lính thân yêu của tôi. Ngày đêm ở tuyến đầu, liều mình sống chết, họ hông có biết về một lớp người phía sau họ hưởng thụ, xa xỉ đàng điếm. Có phải tầng lớp ăn trên ngồi trước họ cho là họ có đặc quyền đó hông? Lính ở đây bao nhiêu người chết và bị thương rồi? Gia đình của họ có bình yên hôn? Chàng hông còn thấy bóng dáng một người vợ lính nào ở đây. Đường sá vắng teo. Họ chạy đi mất rồi, mang theo nổi lo sợ cho tính mạng của người chồng.Hông hiểu gia đình chị Hiền ở trong rẫy có bị gì hôn? Loan hông còn bán ba ở khu đường rầy từ lâu. Hổng hiểu Loan đi đâu mất, hông thấy nàng trở lại để rước thằng Ken?

Xuân tính đi vào khu xóm nhà phía sau chợ, tìm đến nhà chị Kim Sa, vợ của Nguyễn Thanh Liêm, nhưng ngỗn ngang gạch vụn và la liệt cây ngã bín kín tất cả mọi đường. Bao nhiêu người dân hông chạy thoát khỏi trong những đợt pháo kích?

Cơn mưa đầu mùa chưa đến. Nắng nổ xé tóe mắt. Không khí bay mùi tanh lợm giọng trong nắng chói chan. Phùng Xuân mơ màng nghĩ đến tuổi thanh xuân của mình đã cống hiến cho nước Việt mến yêu sắp hông còn nữa. Và những thằng bạn mình sẽ ra sao? Thằng Chúc ở bên Tiểu Đoàn 3/43 với Thiếu Tá Nguyễn văn Dư trấn giữ hậu cứ Sư Đoàn có bị gì hôn? Thằng Nguyễn Bá Lai đã chết từ lâu rồi. Và Sư Đoàn 18 chống giữ nơi nầy được bao lâu vì trọng tài trên võ đài đã đếm đến gần số mười?

17:00H ngày 20 tháng 04 năm 1975, Phùng Xuân đi họp ở Trung Đoàn. Lịnh rút lui là 20:00H. Bỏ lại mọi thứ. Mà lính có gì bỏ lại, ngoài ba lô và súng đạn và gánh hàng xén của họ.

Hông hiểu dân chúng ở đâu và làm thế nào biết được quân đội rút đi, họ ùn ùn kéo theo. Trên đường đông nghẹt Cảnh Sát và dân. Họ đùm túm mang theo những thứ gì có thể mang được. Mẹ, tay xách nách mang. Cha, lưng đeo con nhỏ, lóc nhóc dắt theo một đàn con. Họ hối hả bước theo những người lính Sư Đoàn bỏ lại thành phố thân yêu. Những chiếc Lô Bồi của công binh nhóc nhách người ngồi. Và họ cũng tự động leo lên mấy chiếc GMC khác. Nhiều ngàn dân sợ VC. Họ đi theo lính Sư Đoàn rời bỏ Long Khánh trong ngày hôm đó. Tiểu đoàn 1/43 có một GMC chất đủ mọi thứ -nhiều nhứt là gánh hàng xén của Đại Đội Chỉ Huy( Trung Úy Nguyễn văn Thành) và của Ban Tư ( Trung Úy Nguyễn văn Phẩm)-nối đuôi theo đoàn xe của những đơn vị yễm trợ chạy theo Liên Tỉnh Lộ 2 xuôi Nam về Bà Rịa.

Liên tỉnh lộ 2 nối liền Quốc Lộ 1 tại ngã ba Tân Phong và Quốc Lộ 15 tại Bà Rịa, dài khoảng 50km ( từ Xuân Lộc đến Hậu cứ Trung đoàn 48 khoảng 12km. Từ Hậu cứ Trung Đoàn 48 đến Núi Đất khoảng 28km. Từ Núi Đất đến Bà Rịa 12km ). Đoạn đường nằm trong địa phận tỉnh Long Khánh, chạy giữa Mật Khu Mây Tào và Hát Dịch, có hai Trung Đoàn 275 và 33 của VC thường xuyên hoạt động. Từ ngã ba Tân Phong đến Cẩm Mỹ tương đối an ninh, có nhiều đồn điền cao su, do Tiểu Đoàn 323(?) Địa Phương Quân bảo vệ an ninh. Từ đồi Con Rắn, xã Cẩm Mỹ, xuống đến ranh giới tỉnh Long Khánh và Bà Riạ, từ lâu hông có đơn vị nào của quân đội VNCH kiểm soát, gần như bỏ ngõ cho VC hoạt động. Từ Bình Giã về Bà Riạ tương đối an toàn vì nằm trong vùng trách nhiệm của chi khu Đức Thạnh do Thiếu Tá Giao làm Quận Trưởng.

Rút lui về Bà Riạ ban đêm bằng Liên tỉnh lộ 2 là một hành động bất ngờ, táo bạo và liều lĩnh. Và VC cũng hông ngờ là Sư Đoàn 18 thối lui về ngã nầy. Cho nên đoàn xe các đơn vị yễm trợ Sư Đoàn vượt thoát một cách an toàn. Khoảng hai, ba giờ sáng, Tiểu Đoàn 18 Công Binh của Thiếu Tá Nguyễn văn Nên đã đến Bình Giã. Đại Úy Nguyễn Trí Dũng một mình lái chiếc Jeep A2 của Phòng Ba Sư Đoàn chạy một mạch đến Chi Khu Đức Thạnh lúc một giờ sáng mà hông có một người lính nào đi theo. Nếu tin tức lộ ra, chỉ cần một trung đoàn VC khóa đầu khoá đuôi rồi tấn công vào giữa là Sư Đoàn 18 tan tác. Mà cũng khó lộ ra. Vì Trung Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lịnh Quân Đoàn III, đích thân đáp xuống Tân Phong cho lịnh miệng rút quân. Và chính Đại Úy Nguyễn Trí Dũng ở P3/SĐ cầm từng tờ công điện rút lui đến giao cho các đơn vị trưởng và các đơn vị trực thuộc trong tiếng pháo đì đùng của VC.

Vị Tư Lịnh Sư Đoàn cũng cuốc bộ với anh em. Một bầu đoàn thê tử đầy nhóc đi theo, máy truyền tin được lịnh im lặng vô tuyến, chạy lè xè. Và tiếng nói chuyện của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo với Đại Tá Lê Xuân Hiếu râm ran khi đi ngang qua chỗ Phùng Xuân. Một lời thăm hỏi và khích lệ. Xong rồi, tất cả hối hả bước theo những bước đàng trước.

Rừng cây cao su bên trái bạt ngàn. Mỗi cây to lớn như những hình nộm núp trong bóng đêm trăng suông mờ nhạt, chập chờn ma quái như hù dọa. Bên phải là rừng già, cây cao to cồ nghều nghệu, chen lẫn dây rừng đan cao thấp như những màn lưới sắp quăng một mẻ chụp cả đoàn người đi. Và đoàn người đi và đi, và đi cắm cúi, đi lầm lũi trong đêm trăng non yên lặng.Họ bỏ lại đàng sau những đồng đội đã chết, có khi chôn vùi sơ sài đâu đó, có khi hông kịp chôn nằm vất vưởng bên đường và trong rừng…

Đoàn xe Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ di chuyển cùng Trung Tâm Hành Quân, Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn đến Bình Giã khoảng bốn giờ sáng. Và khi Phùng Xuân qua khỏi Nhượng Địa Xa Bang, bỏ lại sau lưng rừng cao su mờ mịt thì trời vừa hừng sáng. Chàng nghe nhiều tiếng nổ của đủ loại súng. Chàng biết VC đang truy kích những lực lượng đi sau cùng: Điạ Phương Quân và Liên Đoàn 1 Dù. Hông hiểu Tiểu Đoàn 324 Điạ Phương Quân của Thiếu Tá Hà Công Hách đóng ở Bảo Định rút lui có an toàn cùng với Nhảy Dù hôn? Và chắc chắn là dân chúng vùng Bảo Vinh, Bảo Bình, Suối Cát thế nào cũng ùn ùn đi theo. Họ đã biết cái hoạ Cộng Sản từ năm 1954 rồi mà!

Riêng Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, hông thể đi về Nam cùng rút lui theo Sư Đoàn, đành chọn một lộ trình gian nan và nguy hiểm: băng rừng về hướng Tây đến Long Thành, Biên Hoà

Vào trong khu ấp Bình Giả, ngủ môt đêm, Xuân vẫn còn chập chờn nhớ nhung những hình ảnh bỏ lại sau lưng. Tỉnh lỵ nhỏ bé hơn mười năm gắn bó có nhiều kỷ niệm: nắng bụi và mưa sình. Những con đường lầy lội, bùn đỏ văng tóe lên mình người đi một cách tàn bạo, lốm đốm như rẫy mực. Mùa hè bụi bay mù mịt hông thấy người đi khi xe tuôn qua. Áo trắng biến thành áo màu đỏ. Nhiều khi khịt mũi đầy màu đất đỏ.

Ai mà thích đất trời như thế? Vậy mà có người trả lời là em hông muốn đi khỏi nơi đây. Cô Nguyễn thị Kiều, nữ sinh trường trung học Xuân Lộc, nói hình như bụi và bùn đỏ đã tan vào chén cơm và tô canh của em. Hơn nữa ba em đã hy sinh ở nơi đây. Em hông muốn đi đâu đâu. Thế mà bây giờ em ở đâu rồi hở Kiều? Biết bao giờ nhìn thấy lại những người lính năm xưa. Có người chơn chất thật thà, có người khôn lanh lém lĩnh, nhưng đều là những người hăm hở, gan dạ đứng đầu trước tiếng súng.

Ngày 21 tháng 04 năm 1975, đoàn xe chở Tiểu Đoàn qua Bà Rịa trở về Long Bình. Rồi lại được nghỉ một ngày. Ngày 23 tháng 04 năm 1975, Phùng Xuân và Đấu gắn lon lên một cấp bực cho các anh em trong đơn vị.

Ngày 25 tháng 04 năm 1975, Tiểu Đoàn được lịnh phối trí lực lượng từ vườn ươm cây Trảng Bom vào sâu đến tận đường rầy xe lửa. Sau mấy ngày khao quân, cha con lại đùm túm dắt díu nhau vào vùng hành quân với một lô M72 đế chống xe tăng. Bây giờ phía trước Phùng Xuân là Trung Đoàn 48 của TrungTá Trần Minh Công và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nguyễn văn Nô, bố trí trong rừng cao su ở cua chữ C, trên QL01, cách Trảng Bom khoảng 6km.

Buổi chiều ngày 27 tháng 04 năm 1975, hông hiểu từ đâu hai chiếc Skyraider bay thật thấp, làm một loạt bom rồi dông mất. Người la và kẻ khóc. Xuân hét lên với đề lô. Hông liên lạc được với ai. Khuya hôm đó, Trung đoàn 48 và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh bị tấn công dữ dội. Lực lượng phòng thủ bị chọc thủng. Trận tuyến tan vỡ. Còn lại một mình Phùng Xuân trên tuyến đầu. Ăng ten kéo lên cao nghều nghều để cố nghe một tiếng trả lời của Trung Đoàn. Tất cả đều im lặng. Chạy đi đâu mất tiêu hết. Chắc có lẽ xa lắm rồi, khỏi Biên Hoà, nên ăng ten dài hông bắt được. Xuân nhìn nồi chuối nấu. Chàng nuốt mắc nghẹn! Mình ăn như vầy thì người lính của mình ăn với cái gì?

Và rồi, buổi sáng ngày 28 tháng 04 năm 1975. Súng nổ và đạn bay. Đâu ai còn biết mình đã can đảm như thế nào? Cho đến khi hông còn đạn mới biết mình đã buông súng giơ hai tay đầu hàng trong ngỡ ngàng. Đại Úy Trần văn Thân bị thương bể ngay đùi nằm im lặng. Máu đổ tràn lan. Hông một tiếng rên. Đôi mắt Thân nhìn Xuân như có điều gì muốn nói, nhưng bộ đội VC hối thúc Xuân đi mau. Xuân quay lại nói với người lính nầy xin cho chàng và Đấu võng Thân đi. Người cán binh gầm mặt, quát lên một tiếng. Khi Xuân vừa đi khỏi chừng hai phút, chàng nghe một loạt đạn nổ dòn. Vậy là họ giết Thân rồi. Thương binh của họ, họ còn hông mang đi được. Họ kể sá gì đến thương binh của kẻ thù!

Phùng Xuân đi đầu trong toán tù binh. Hai tay bị trói ra sau, bằng dây điện thoại, dính chùm với binh sĩ. Khi chàng bước lên đỉnh đồi, nhìn về phía Trảng Bom, đoàn T54 ào ào tuôn vô Biên Hoà. Chàng nghẹn ngào. Nước mắt lưng tròng.

Bỏ lại sân trường Đại Học, đem cuộc đời thanh xuân để chiến đấu mong nhìn thấy non sông gấm vóc Việt Nam trở nên rạng rỡ, bây giờ tan thành mây khói. Mình có tài cán gì? Đánh đấm có ra gì? Khoảng thời gian lính tráng chỉ có từng ấy năm đã làm được những gì? Chỉ là mơ ước thôi. Việt Nam thân yêu giờ đây hông còn nữa. Rồi đây, đất nước sẽ ra sao? Chàng chỉ biết cái họa Cộng Sản trong sách vở, ở phim ảnh. Một tương lai mù mịt cho đất nước, cho gia đình.

Xuân cúi gầm mặt đi, đi, đi trong đau đớn tủi nhục của người thua trận. Xuân cảm thấy mình hèn và nhát và bất tài hông xứng đáng là một cấp chỉ huy, hông đủ sức bảo vệ cho hơn 400 người binh sĩ dưới quyền (Mà có khi nào tiểu đoàn đầy đủ quân số 6, 700 đâu?Lính ma, lính kiểng ở đâu đâu, chìm sâu trong cái xã hội thời ly loạn!! ). Sao mình hông rút đi từ chiều hôm qua, theo chơn Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh có hơn hông? Nấn ná làm chi với số binh sĩ bị thương sau đợt oanh kích của hai phi tuần khu trục? Chút nữa, nếu có ngừng lại, quây quần bên đám lính của mình, mình có xứng đáng nhìn mặt họ hông? Sao mình hông cầm súng bắn vào mình để tự sát đi cho rồi? Sao lại phải bị nhục nhã như thế nầy?

Phùng Xuân ngồi riêng một mình trong đám rừng cây nhỏ. Chàng đoán đây là khu rừng sâu sau ấp Bàu Hàm. Chỗ ngồi đã được dọn dẹp sạch sẽ. Một người bộ đội mang ra một ly nước trà còn nóng và một phong lương khô bằng hai ngón tay. Sau đó có hai người sĩ quan mang cấp bực Thiếu Tá(?) đến ngồi trước mặt Xuân. Chắc có lẽ là sĩ quan Quân Báo. Họ lấy một điếu thuốc Ruby đỏ mời Phùng Xuân. Xong họ trãi bản đồ tỷ lệ 1/250.000 và hỏi chàng bây giờ những đơn vị của SưĐoàn 18 và những đơn vị khác ở đâu? ( Chắc họ vội vã quá nên hông có bản đồ 1/100.000 hay 1/50.000? Bản đồ 1/250.000 đâu phải là bản đồ hành quân chiến thuật? Chỉ có cấp Quân Đoàn trở lên mới xài bản đồ tỷ lệ 1/250.000. Vậy đơn vị nào bắt được Xuân? Nếu Quân Đoàn còn ở đây thì Sư Đoàn và Trung Đoàn của họ chắc đã tiến khỏi Biên Hoả rồi?)Thật ra cho đến giờ phút nầy Xuân cũng hông biết đơn vị bạn mình ở đâu? Chạy mất tiêu hết rồi!!

– Có mấy đường vào thành phố Hồ Chí Minh(?). Đường nào đi vào thành phố dễ dàng nhất?

– Có ba. Ngã cầu Xa lộ Đại Hàn ở nhà máy nước Hoá An. Ngã Cầu Ghềnh xuyên qua thành phố Biên Hoà. Ngã xa lộ Cầu Đồng Nai. Tui hông hiểu các anh hỏi dễ đi là như thế nào? Cho chiến xa hay cho bộ binh. Có lẽ Cầu xa lộ Đồng Nai là dễ đi nhứt cho chiến xa.

Xuân biết họ hỏi để xác nhận điều chàng khai ra có đúng như thế hông. Chứ thiệt ra khi chàng bị bắt, phòng tuyến Trảng Bom bị tan vỡ thì chiến xa đã ào ào tuôn vô Biên Hòa. Giờ nầy có lẽ họ đã qua khỏi Biên Hoà. Và chiến xa đâu có ngu dại gì đâm đầu vô con đường chật hẹp vào thành phố Biên Hoà. Chắc chắn là họ thấy đường xa lộ rộng thênh thang thì họ tin chắc là đường đến Sài Gòn.Và nếu Xuân có chỉ thì với bản đồ 1/250.000 cũ xì, hông có những chi tiết mới, như đường Xa lộ Đại Hàn và Xa lộ Đồng Nai, họ cũng hông lần ra được. ( Lúc sau nầy khi đi ở tù, Phùng Xuân gặp lại Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ, Trưởng Toán Trung Tâm Hành Quân SưĐoàn vào lúc cuối cùng và Thiếu Tá Nguyễn văn Nên, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Công Binh SĐ.Hai người nầy cho biết đã có lịnh giựt sập cầu Xa Lộ Đồng Nai để hông cho VC tiến vô SàiGòn.Nhưng Thiếu Tá Mỹ nghĩ rằng làm sập cầu Xa lộ Đồng Nai thì các đơn vị bạn còn kẹt lại làm thế nào để rút về và còn dân chúng nữa chi.Hơn nữa sập cầu rồi có thể xây lại tốt như thế hôn??(sic).Nên chàng ta hông có truyền lịnh lại cho Thiếu Tá Nên.)

– May cho anh đó. Nếu để mấy Sư đánh Xuân Lộc bắt được anh thì họ bắn anh rồi.

Với đơn vị hành quân cấp nhỏ Tiểu Đoàn như Phùng Xuân ( và mất liên lạc với Trung Đoàn) nên hiện giờ Xuân cũng hông biết đơn vị VC nào đã bắt chàng và những Sư Đoàn nào của họ bị thiệt hại nặng nề ở Xuân Lộc vừa rồi.

Buổi khuya, trăng sáng vằng vặc. Xuân nằm im trên miếng tôn, nhìn thẳng vào mặt trăng. Vầng trăng xám xịt. Hông có hình chú Cuội ngồi trên cung trăng:”Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối mơ” của Lê Thương hông còn nữa. Hơi sương lạnh thấm qua lớp vải ướt. Xuân rùng mình, đau nhức mình mẫy vì nằm trên miếng tôn bể nhăn nheo. Rừng cây lạnh lùng ngủ trong trăng màu xám đục. Màn đêm im lặng.Tất cả thú rừng đều chạy trốn mất. Kế bên là Đấu. Xuân đưa tay qua khều nhẹ nó, ra dấu chỉ vào rừng rậm. Tù binh bị giặc bắt, nếu có cơ hội là phải trốn thoát. Miếng tôn cũ sét kêu rắc rắc. Một tiếng hét vang lên. Và tiếng kéo cơ bẩm rôm rốp…

Đoàn tù binh cứ đi và tuôn qua rừng và băng qua suối, dọc theo song Đồng Nai. Đói, mệt, chán chường rã rời. Chỉ ăn được mầy củ khoai mì luộc.. Miệng đầy ke đắng nghe đắng nghét. Chiều chiều nghe tiếng ve chuông rừng é è ẹ một hơi dài, buồn thúi ruột.

Sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975, toán tù binh đặt chơn lên QL 20 ở Kiệm Tân.Môt binh sỉ đưa cho Xuân một nắm cơm nhỏ hông biết nó lấy từ đâu. Xuân cầm vắt cơm mà hông đưa vô miệng được. Hai bên hàm cứng ngắc và nước miếng tuôn như khai đập và trào ra hai bên mép. Phải một hồi lâu, Xuân mới mở miệng được để thưởng thức hương thơm ngọt ngào của cơm trắng.

Cho đến trưa, tiếng ra lịnh đầu hàng của vị Tổng Thống Dương văn Minh vang vang lên từ những máy thâu thanh của dân chúng. Phùng Xuân gục mặt, ứa nước mắt. Có cái gì chận ngay cổ họng. Còn đâu nữa “Đời thanh bình cửa thường bỏ ngõ”? ( Nguyễn Công Trứ ).