- 2 -
Gia đình Phùng Xuân cũng bị cuốn hút vô trong vòng xoáy đó, quay cuồng ngày đêm để kiếm sống. May là nguời vợ đảm đang gánh vác, đỡ đần mọi công việc để nuôi chồng cho đến ngày ra tù. Rồi bây giờ lại cùng chồng bươn chải nhọc nhằn. Chỉ tội chị Sâm khi trước là một cô giáo, vợ anh Võ Long Tôn ở gần nhà. Bây giờ cô giáo còn một thân một mình, như con cò mà đi ăn đêm. Anh Võ Long Tôn chết trong tù ở ngoài Bắc. Phùng Xuân gặp chỉ luôn cò cò trên chiếc xe đạp.
Thằng Ken cũng còn may mắn. Nếu khi trước Phùng Xuân hông đem nó về nuôi thì biết đâu nó chết trong “Opération Baby lift” ngày 04-04-1975. Rồi bây giờ, năm 1987, Phùng Xuân nghe tin ở đài VOA có chương trình Amérasian Home Coming Act.
– Ken, có chương trình Mỹ rước mấy người con lai, để ba làm giấy tờ cho con đi.
– Ba, mấy hôm nay cái bà ngoại gì ở Cái Bông gặp con mấy lần ở chỗ con chạy xe ba gác.
– Bả làm gì?
– Bả hỏi con có muốn đi Mỹ hôn?
– Con coi chừng nghen. Lúc rày có những người đang lùng con lai để đem bán cho những người muốn đi Mỹ.
Mà thực, chương trình ra đi với con lai rộ lên như núm mối tháng bảy. Ai ai cũng hối hả tìm ra một đứa con lai. Lai đen hay lai trắng đều được. Những đứa nhỏ có hình dáng giống người Âu da trắng đều được nhìn nhận là đứa con lai. Làm ra đứa con lai đen có khi dễ dàng hơn đứa con lai trắng. Họ lên miệt Kontum-Pleiku tìm trẻ em người Thượng hơi to con, da ngăm đen, tóc quăn. Họ đem em bé đó về Sài Gòn phù phép với công an phường, quận. Tùy theo số chi nhiều hay ít, hồ sơ sẽ hoàn tất mau hay lâu. Những trò ma quỉ đó qua mặt được nhân viên toà Lãnh sự Mỹ. Trường hợp lai trắng cũng vậy.Trẻ em ở các đồn điền cao su lai Pháp cũng được xem là con lai trong thời chiến tranh ViệtNam.Và có những gia đình, dòng họ có con lai Pháp từ đời cố hỉ nào hông biết, cũng hô lên là có con lai. Thế là ùn ùn làm hồ sơ. Nước Mỹ thật bao dung. Cứ nhắm mắt nhắm mũi nhận con lai của ai cũng là con của mình. Và một số trẻ em lai đen, trắng được qua Mỹ mà chẳng bao giờ tìm ra được cha của mình!
Anh chị năm bán bột ở chợ Bình Tây có bà chị câm đi làm cho Mỹ, sinh ra đứa con gái lai trắng rất đẹp. Hồ sơ cháu ra đến tòa lãnh sự. Gia đình trình bày chi tiết.Sau năm 1975, bà chị câm hông đi làm được, nên anh chị phải mang cháu và bà chị về nuôi. Những anh chàng Yanke thương người phán một cái rụp. Làm hồ sơ cho mọi người trong cả hai gia đình đi hết. Anh chị năm quýnh qua quýnh quáng tìm gặp Phùng Xuân xin dạy gấp “Ăng- lê” để đi Mỹ. Trời ơi! tiếng Anh tui còn chưa rành làm gì dạy nổi tiếng Mỹ cho cả nhà trong vòng hai ba tuần! Số hồ sơ con lai thiệt thực ra nhiều hơn hồ sơ con lai giả nên ông Mỹ khó mò ra.
– Ba. Con hông muốn đi một mình.
– Vậy là để ba làm hồ sơ cho cả nhà cùng đi.
Hồ sơ của Ken cũng hồ sơ thật, nhưng hông hiểu sao nằm ỳ trên quận lâu lắm rồi. Dò tìm được đường dây chạy chọt cũng hông khó. Khổ một cái là phải có “khoen”. Mỗi lần như vậy cũng mất vài khoen. Phùng Xuân cũng mất vài “khoẻn” ở quận, nhưng sao hồ sơ cứ nằm ỳ ở đâu đó. Hai cha con mõi mòn trông ngóng, hỏi thăm mà hông thấy tăm hơi. Hồ sơ người ta nộp sau mình mà họ lên máy bay đi từ lâu rồi. Mòn mõi nhưng Xuân dò tìm đâu còn đường nào nữa. Một lần đưa một khoen cho một ông công an là xong việc rồi họ biến, mình có gặp lại cũng hông dám hỏi thêm…
– Anh có biết tui mời anh ra đây có việc gì hôn?
– Dạ thưa cán bộ, tui hổng biết. Chỉ nhận giấy mời của công an khu vực đưa cho tui, biểu tui cầm giấy mời ra gặp công an thành phố.
Người công an cũng trạc tuổi Phùng Xuân, nước da hơi xạm đen, tóc chẻ đôi đồng đều làm hai bên, ngước nhìn chàng một hồi lâu.
– Hỏi để kiểm tra anh lại một lần nữa, coi anh khai có đúng hông?
– Bao nhiêu bản tự khai tui đều “thành khẩn khai báo” hết trong thời gian tui đi “cải tạo” rồi cán bộ.
– Còn thiếu. Năm 195…, anh có đi Miên gặp một người con trai tên là Trần văn Thành và một cô gái tên Marin Phla có đúng hông? Anh ngập ngừng rồi. Chứng tỏ rằng anh chưa khai hết.
– Dạ có. Nhưng lúc đó còn nhỏ lắm. Chúng tôi biết nhau có lẽ lúc khoảng 15 tuổi.
– Bây giờ anh biết họ ở đâu hôn?
– Dạ hông. Cách biệt nhau hơn ba mươi năm rồi. Hơn nữa tui hông biết nhiều gì họ. Khi đó chỉ là trẻ con gặp nhau thôi rồi quên.
– Nhưng họ hổng quên anh. Tui chính là Trần văn Thành mà anh đã gặp.
– Có thiệt vậy hôn cán bộ?
– Năm 1970, chúng tôi được lịnh trở về SàiGòn, lãnh nhiệm vụ công tác nội thành. Em gái tui nó còn nhớ anh, mà hình như nó có cảm tình nhiều với anh là phải. Nó sục sạo lần hồi mò ra được anh đi lính Sư Đoàn 18. Anh có còn nhớ có lúc anh nhận được hai lá thư của một cô gái bán trong Câu Lạc Bộ Sư Đoàn ở LongBình hông?
Phùng Xuân giựt mình. Có một dạo, Phùng Xuân làm Trưởng Ban Hành Quân Phòng Ba Sư Đoàn. Thường ngày, chàng ăn cơm ở Câu Lạc Bộ. Cô gái tên Ngọc ngồi quày thâu tiền thường mĩm cười nhìn chàng và hay nói giỡn: “ Cho anh mắc nợ rồi khi nào trả cũng được nhen! ”. Và cô ta hông đưa biên lai tính tiền.Làm sao chàng biết bao nhiêu để trả? Phùng Xuân sợ nợ cơm vướng nợ tình. Sau những buổi cơm trưa vắng khách, chàng hay ngồi nán lại nhâm nhi ly trà cho hết thời giờ. Cô Ngọc thường tới ngồi nói chuyện cùng chàng. Khoảng một thời gian sau, chàng nhận được hai lá thư dầy viết bằng giấy học trò của cổ. Phùng Xuân phân vân. Có nên trả lời hôn? Mắc phải thêm một cái nợ nữa thì làm sao? Nhưng may mắn, chàng rời khỏi Phòng Ba.
– Anh hông trả lời gì cho nó hết phải hôn?
– Tôi còn đang lưỡng lự thì phải dời đi nơi khác. Sao cổ hông nói cho tui biết cổ là Marin Pla?
– Đâu có được. Nó đâu được quyền để lộ tung tích. Có như vậy mới khổ cho nó. Sau năm 1978, nó trở về Miên trong cuộc “chiến tranh biên giới Tây Nam”. Rồi tới bây giờ nó chưa được quay trở lại. Nó kêu tui là cố gắng gặp anh và cho nó biết tin tức về anh. Sau năm 1975, có rất nhiều chuyện tui phải làm và quên mất anh. Anh có hồ sơ đi Mỹ theo diện con lai, nhưng công an quận đề nghị giữ lại. Anh có biết gì sao hôn?
– Hông rõ lắm. Nộp đơn lâu rồi, nhưng hổng thấy trả lời.
– Lý do là anh hông chấp hành đúng nội quy. Anh bị bắt lúc anh về Cái Bông, Bến Tre, có dẫn theo đứa con lai. Có đúng hông?
Theo lời kể của Ken, nó có gặp bà ngoại. Phùng Xuân nghĩ là đúng rồi. Chuyện nầy chắc do Anh Thương theo lời xúi dục của gia đình giữ hồ sơ lại. Họ muốn đem Ken đi bán để kiếm tiền hay làm công chuyện gì khác. Chớ chuyện dẫn Ken về Cái Bông đâu có ảnh hưởng gì đến hồ sơ con lai của Ken.
– Anh đi “cải tạo có tốt” hôn?
– Thì anh cũng biết rồi đó. Khi nào học tập tốt thì về!
– Đó là chính sách của cách mạng. Anh hổng biết chớ tụi tui đã “tiếp cận” với ba của anh. Ổng quen với ông Tư Phước ở đường Ký Con. Họ cũng là “dân già kháng chiến” còn cảm tình với Việt Minh. Họ hoạt động trong cụm lưới điệp báo kinh tài khi ở Miên.
– Còn bây giờ thì sao. Tui thấy họ chửi tùm lum.
– Đó là các ông già lẩm cẩm. Bây giờ, họ làm gì được nữa chớ?
Phùng Xuân nhớ lại. Quanh bàn ăn đám giỗ gồm có ông Sáu Trạch, ông Bảy Mi, Tư Chà, Tám Khước và Phùng Xuân ở Lương Quới. Câu chuyện xoay quanh mấy anh Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Ông Sáu Trạch và Tám Khước là dân tập kết. Một người-Sáu Trạch- về hưu, một người-Tám Khước- đang làm Trưởng Phòng Thương Nghiệp tỉnh.
– Mầy làm cái khỉ gì vậy Khước?Mua dưa hấu về cho cả đống, để cho thúi rồi đem đổ.
– Trời ơi! Khổ lắm chú Bảy ơi. Dân trúng mùa. Cấp trên kêu xuất tiền ra mua. Nhưng mà mình đâu có đem bán qua tỉnh khác được. Mình chỉ đổi thôi. Họ cũng trúng mùa dưa hấu như mình. Họ đâu chịu đổi dưa hấu với mình. Bán ra trong tỉnh thì hông hết. Trời ơi. Cái “cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa” gì mà kỳ cục vầy mà hổng biết. Hồi ở ngoài Bắc tui đâu có học mấy cái thứ nầy!
– Khước! Mầy đi tập kết mấy chục năm học hành cái đách gì mà về làm sao dân chúng kêu trời hổng thấu. Họ chưởi cha, chưởi mẹ tụi bây. Đụ mẹ, tao có mấy con tôm càng xanh tát mương xong, mang lên cho con nhỏ trên tỉnh. Đi ngang qua Cầu Kinh, xét cũng bị lấy. Tụi bây đi tập kết học hành cái con mẹ gì. Ra ngoải tụi bây bị đì cho chết con mẹ hết chớ học đách gì. Tao gặp thằng Hai Thẹo. Tao hỏi nó mầy tập kết ra Bắc có học hành được gì hông. Nó trả lời tỉnh bơ:“ Có học được con mẹ gì, anh Tư. Tối ngày tui đi chăn nợn không à!”
Tám Khước biết ông anh của mình-Tư Chà- hay nói móc lò, xỏ xiêng và phang ngang bửa củi, nên đành ngồi im, xoay qua xoay lại nhìn ông Sáu Trạch và ông Bảy Mi. Nó thấy hai ông nầy cũng ngồi im nên lẳng lặng lấy đũa gắp con tép luộc bỏ vô miệng nhai tóp tép, nhìn ra sân.
Ông Sáu Trạch ngồi im lìm, thỉnh thoảng ngó qua ông Bảy Mi. Hình như hai ông cảm thấy mình bị phản bội. Thời trai trẻ theo Thanh Niên Tiền Phong, theo Việt Minh chống Pháp, bây giờ hóa ra công cóc! Và họ cũng bắt đầu rủa đám VC cắc ké. Rủa thì rủa vậy chớ họ làm gì được. Họ bị cho ra rìa hết rồi. Chỉ ngồi đó mà mơ ước lại thời “Việt Minh huy hoàng”?
Phùng Xuân hông can dự vào câu chuyện. Chàng rời khỏi bàn ăn, bước ra đứng trước sân nhà. Cây mai vàng có từ lúc Xuân còn nhỏ, bây giờ già cỗi, nên ai đã đốn sát tận gốc. Những tược non đã vươn mạnh lên. Rồi đây, mai mốt cây mai nầy sẽ tốt sum sê, đâm chồi cho nhiều bông. Trước sân nhà lại có cây mai vàng mới.
Mỗi người có một lý tưởng. Đời người có thể tàn tạ, nhưng lý tưởng tốt đẹp bao giờ cũng sống mãi với thời gian. Hai ông già đó nuôi dưỡng lý tưởng của các ổng cũng tốt đẹp chớ đâu có xấu xa gì, chỉ vì bị VC dối gạt nên đành hối tiếc…
Phùng Xuân nhìn Thành. Chàng hông muốn dây dưa với nó. Nhờ vả làm gì? Biết đâu trong đầu người bạn chỉ quen sơ sơ hồi nhỏ đang tính toán điều gì? Nhưng dù sao Xuân cũng biết được một điều là hồ sơ con lai của Ken khó lòng đi trót lọt. Hồ sơ sẽ nằm vĩnh viễn ở quận hoặc có thể bị tiêu hủy.
Những người tù “cải tạo” như cá nằm trên thớt. Làm sao mình có thể đối chọi lại được với họ. Mình phải tìm cách ra đi. Nhưng bằng cách nào? Đường biển hay đường bộ? Đường biển thì có thể đi nhiều người. Có những gia đình ra đi hông bao giờ được tin tức, mất xác trên biển cả vì giông bão hay vì cướp biển giết sạch sau khi lấy hết của cải và hãm hiếp phụ nữ. Đường bộ băng qua đất Cao Miên rồi đền Thái Lan cũng rất nguy hiểm, chỉ có thể đi một mình, hông thể dẫn cả một gia đình đi được. Kim Lệ, con của ông Mười Năng ra đi đã từ lâu mà vẫn bặt tăm, có thể bị bắt và bị hãm hiếp rồi vùi thây nơi rừng sâu. Chiến tranh giữa VC và Khmer Đỏ sẳn sàng giết những người băng rừng. Chắc Thành và Marin Phla cũng là những kẻ góp phần gây ra tội ác đó.
Phùng Xuân còn đang quần quật ngày đêm làm kiếm tiền để có dịp đến cũng vọt thì chiến tranh Việt-Miên chấm dứt năm 1989. Tiếp theo bức tường Bá Linh bị phá sập ngày 09 tháng 11 năm 1989 và rồi Cọng Hoà Dân chủ Đức sụp đổ năm 1990. Người ta hông nghĩ là điều gì sẽ xảy ra nữa. Nhưng “thành trì” của Quốc tế Vô Sản: Cọng Hoà Liên Bang Xô Viết cáo chung năm 1991 làm mọi người ngỡ ngàng…
Rồi Vân cũng gặp Xuân nhiều lần. Cô nàng hông còn cố tránh né chàng mà lại còn tỏ ra săn đón chàng. Tình cũ hông rủ cũng tới! Hay Vân đã nhìn thấy những gì tệ hại của chế độ nàng tôn thờ bấy lâu nay? Hay là những sự sụp đổ gần đây của thế giới Cộng Sản làm nàng thay đổi “lập trường”. Ở tuổi sồn sồn năm mươi, cô nàng vẫn còn xuân sắc. Hơn nữa người chồng vừa mới chết. Nhưng Phùng Xuân hông còn có gì để hối tiếc nữa. Lửa rơm thường cháy rụi và hông bao giờ để lại chút than ủ ngấm ngầm nào hết…
“ Lần sau mình về lại Mỹ Tho đi nghen mình. Ờ hén, mình. Rồi mình chắc chắn sẽ trở lại Mỹ Tho. Sao chỉ có mình mình? Còn con mình nữa chớ mình!”. Tiếng nói Yvette vẫn còn ngân vọng và hương bông cau ngào ngọt vẫn còn đượm nơi những sợi tóc hớt bum bê. Than đước nồng ủ có khi nào tắt ngúm được đâu….
Con đường lên nhà Chúc vẫn như mọi ngày, nhưng hôm nay Xuân thấy xa hơn vì đây là lần cuối chàng lên từ giã Chúc để đi Mỹ. Căn nhà cũng còn xập xệ. Mùa hè mái tôn hắt nóng, nóng điên người. Mùa mưa tiếng mưa nổ, nổ rang như tiếng pháo Tết.
Cô Huệ mang ly nước mía mời Xuân. Cổ bây giờ đã gần ngoài bốn mươi. Tuổi xuân của cổ lớn lên là ăn đói triền miên và làm việc cực nhọc. Người hơi già nhưng ngó cổ cũng còn đượm chút hương sắc.
– Cô Huệ có muốn đi Mỹ hôn?
– Có muốn cũng không được. Làm sao đi được anh?
– Có nhiều người bạn của tụi tui đi ở tù về bị vợ bỏ đi lấy chồng khác hay cũng có đứa chưa vợ. Bây giờ tụi nó cũng rắp ranh tìm một người đàn bà giỏi giang, cưới hỏi đàng hoàng rồi đi qua Mỹ. Chúc, trong đám bạn của mình làm gì hông có người. Mầy ráng tìm cho cổ một người chồng đàng hoàng để bù cho cổ những ngày khổ cực phụ vợ mầy để nuôi mầy.
– Cậu khỏi lo.Đã có mối mang đâu đó hết rồi. Nay mai gì đây rồi cũng sẽ lên đường bây giờ.
– Mầy nhứt định hông nộp hồ sơ đi Mỹ hả Chúc?
– Không. Tớ còn cha mẹ già hai bên. Vợ tớ không chịu đi. Hơn nữa tớ cũng muốn sống chết với cái xứ sở nghèo đói nầy.
Chúc lấy cái Lan, con bác Trần, lúc cô bé khoảng 18 tuổi nên bây giờ có một bầy sáu đứa gái nheo nhóc. Mấy năm nó đi ở tù, gia đình bác Trần đùm bọc đàn con nó. Cô Huệ bương chải giúp chị nuôi đàn cháu để chị có tiền đi thăm nuôi chồng. Sau khi đi tù về, nó hông chịu về Bàu Sen ở Trảng Lớn, Tây Ninh. Bên vợ ky cỏm mua cho căn nhà ván thông ộp ẹp lợp tôn. Khi Phùng Xuân lên gặp nó thì thấy trước nhà có một xe nước mía. Cha con đang quay quần sống nhờ cái xe đó.
– Mầy hổng sợ cọp Cọng Sản sao? Mầy còn nuốm níu làm gì?
– Liên xô sụp rồi chắc cũng sắp tới phiên nó.
– Còn tao hông nghĩ vậy. Cọng Sản Việt Nam ác độc, thâm hiểm khôn lường hơn chắc nó sống dai. Nó giết đồng loại hông gớm tay thì nổi dậy chống nó hơi khó.
– Nhưng có ngày rồi nó cũng chết.
– Biết chừng nào mậy?
– Mầy đi Mỹ thì sướng cái thân mầy. Mầy sẽ sống một đời ly hương nơi xứ lạ quê người. Tớ nói thật với cậu nhen. Rút cuộc rồi cậu sẽ như Hồ công Trừng hay Lý Long Tường thôi. Tớ ở đây, đói tớ có nồi canh rau đay, có cà dầm tương tớ ăn. Có gì tớ sẽ nói bọn trẻ cái thời thanh bình đã qua. Nói mãi rồi chúng nó cũng biết mà!
– Tao cũng chưa biết cái xứ Mỹ xa xôi đó như thế nào nữa. Nhưng ra đi là chấp nhận vì ở đây con cái tao học hành hông được. Tụi nó học đến tú tài rồi khựng lại, đâu có tiến lên được. Riêng thằng con lai thì bị đì còn dữ hơn nữa.
“ Hà chính ư mãnh hổ” nên mỗi người phải liều mình ra đi. Biển Đông sóng gió hung hiểm, giết chết biết bao nhiêu mạng mà người Việt vẫn liều mình vượt biển cả.
Đành rằng tao sẽ nhớ xứ dừa của tao, nhớ Sài Gòn của tao. Nhưng ở đâu an cư lạc nghiệp là quê hương mình ở đó. Mầy nói tao như Hồ Công Trừng hay Lý Long Tường cũng phải, nhưng chỉ đời tao thôi. Con cháu tao ở thế hệ F2, F3, F4… thì hông như tao. Tụi nó sẽ hông bao giờ nhớ về quá khứ xa xôi và chúng nó sẽ coi nơi sinh ra, cưu mang tụi nó như là quê hương của tụi nó. Cái quê hương mình học trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã xa lơ xa lắc rồi mầy ơi!
Mầy đừng bao giờ sống trong quá khứ, sống trong kỷ niệm. Những thứ đó sẽ làm cho mầy sống dở chết dở trong đời sống. Mà có bao giờ có quá khứ, hiện tại và tương lai đâu mậy? Đó là ý niệm thôi. Không-thời gian trôi vùn vụt. Hãy nhìn về phía trước.Có cái gì tồn tại ở phía sau đâu mậy?
Bây giờ, Phùng Xuân cũng hông còn muốn đấu lý với thằng bạn đã có một thời cùng sống chết với mình. Mấy lần trước hai thằng tranh cãi sôi nổi về Chiêu Lỳ Phạm Thái. Sau một thời gian đi tù về, mỗi thằng có cái nhìn cuộc sống hiện tại khác đi. Hai đứa ngồi im lìm một hồi lâu. Đột nhiên Chúc đứng lên, đến cái bàn kế bên mang bát điếu ra.
– Mời bác!
Phùng Xuân nhìn Chúc, mĩm cười nghe giọng điệu Bắc Kỳ của nó. Hồi ở tù, hông có thuốc, quá thèm, Xuân đã thử một điếu, say lăn quay mòng mòng, chút nữa đút đầu vô bếp. Và còn bây giờ, Xuân đã bỏ hút từ lâu. Và nể tình thằng bạn lâu năm và hơn nữa, có lẽ chẳng khi nào gặp lại nó, Xuân kéo bát điếu về mình, ve ve viên thuốc… Và rồi vói lấy nang tre đốt cho cháy… Tiếng nước trong bình kêu ro ro. Phùng Xuân chưa kịp thả hơi dài tuôn ra thì đã thấy trời đất ngã nghiêng. Đâu đây văng vẳng tiếng Chúc ngâm nga(?)
Thế sự du du nại lão hà.
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận hãm anh hùng ẩm hận đa…
Đúng rồi… Đới nguyệt ma… Đặng Dung. Mài gươm dưới trăng sáng ngà! Đâu phải là trăng suông đâu! Mệnh nước nổi trôi, lúc thịnh lúc suy. Có một ngày, có người mài gươm vung lên giúp nước. Nước Việt gấm vóc sẽ huy hoàng.
Việt Nam năm 1966
Florida năm 2016
Lê Phùng Xuân
Lời cuối sách– Bản thảo và tài liệu bị mất, môi trường sống bị xáo trộn mấy bận, nên người viết phải viết đi viết lại nhiều lần. Vì thế thời gian kéo dài từ năm 1966 đến năm 2016 mới có thể viết xong.
– Một vài tên người trong truyện nếu có trùng tên là ngoài ý muốn của người viết.
– Phần viết về đời lính có nhiều chữ tục tĩu. Nếu bỏ, hông lột trần được hết đời sống của họ, nên giữ lại. Xin bỏ qua cho.