← Quay lại trang sách

PHẦN CUỐI

Phùng Xuân đứng trước nhà. Chàng lấy tay đẩy mạnh cửa cổng. Ván đóng xiêu vẹo, nhiều miếng mục sút ra. Lá mận rụng đầy sân. Cửa nhà bỏ trống. Chàng bước vô nhà. Nền gạch bông hông còn nữa, bị cạy bung lên, trơ ra những dề xi măng loang lỗ. Ghế ngồi gãy chơn, ngã chổng gộng. Cửa tủ sách sút bản lề bung ra. Sách trong tủ nằm lọn chọn, mất bìa ngã tứ tung. Quần áo bày tùm lum trên bàn, góc giường. Một con gà mái, đang chui rúc trong đống mùng mềm, thấy bóng Xuân đi vô, vội vàng tung cánh bay lên, kêu quang quác rồi cục tát vang nhà.

Đứa con gái chạy lên, trố mắt nhìn cha mình tưởng như người xa lạ từ đâu tới với bộ quần áo xám.

– Em đâu rồi con?

Tới chừng đó, đứa con gái mới biết là Ba mình ở tù về, nhưng hơi ngỡ ngàng với hai chữ “CẢI TẠO” ở sau lưng. Lối xóm hay được chạy tới hỏi thăm. Và đứa con nhỏ từ đâu ù về nhìn người tù đã biệt tăm từ lúc nó còn bé. Nó nhìn Ba nó, miệng cười chúm chím. Nó hông rõ mặt Ba nó vì lúc đi thăm nuôi, nó còn nhỏ. Hơn nữa 20 phút gặp mặt làm sao nó nhớ nỗi ông tù đó…

Xuân đi xuống nhà dưới. Con heo đang ủn ỉn ủi từng miếng xi măng bể bung lên. Nó quậy qua quậy lại rồi nằm ịch xuống trong đám bùn lầy lội. Chén bát để xô bồ xô bộn, chưa kịp rửa. Vòng ra bên nhà, bầy gà nhảy nhót trên cành cây táo, cục tát om sòm.

– Chừng nào mẹ và anh Ken về.

– Con hổng biết. Tối lắm mẹ mới về.

Sau giờ dạy học, bà Xuân còn phải chạy vạy đổi bán đủ thứ mới bù đấp nuôi nổi ba người con. Đồng lương “dứt cháo” sau năm 1975 hông nuôi được một người chớ đừng nói chi tới hai. Đã vậy lâu lâu còn phải bỏ dạy đi làm “công tác thủy lợi”, xẻ kinh để “nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa” biến “sỏi đá thành cơm”. Cơm đâu hổng thấy, chỉ thấy ăn độn, ăn bo bo. Mẹ con đói rã họng.

Tháng 04 năm 1975, Ken đang học lớp ba. Sau khi “giải phóng”, nhà trường “xã hội chủ nghĩa” có nhiều thay đổi. Học trò được xếp theo nhiều “diện”. Thành phần con “Mỹ-Ngụy” và thành phần “con lai đế quốc Mỹ” được xếp hạng chót, hông có quyền lợi gì hết.

Học được một năm, thằng Ken hông muốn đi học nữa. Mới đầu, bà Xuân đưa nó đến trường. Hiệu trưởng xếp nó vào “diện con lai đế quốc Mỹ”, hông được ưu tiên, nhưng nhờ “cách mạng khoan hồng, chiếu cố” nên cũng tạm thời xét nhận. Nhưng nó có học được đâu. Học trò trong trường lêu lêu nó là con “đế quốc”, hông chơi với nó. Hồi trước năm 1975 đâu có cái trò đó. Cũng tại chế độ mới nhìn nó với con mắt tội phạm nên xã hội ruồng bỏ nó.

Nó học cũng khá giỏi nhưng hông được giấy khen, hông được đeo khăn quàng đỏ. Nó buồn, bỏ học. Bà Xuân năn nỉ hoài nó hông chịu tới trường. Đâu muốn để con mình dốt, nhưng bà biết làm sao bây giờ. Con lai bao giờ cũng bị “đối xử phân biệt” Hở miệng ra là: “ Ê!thằng con đế quốc”. Rồi cuối cùng, bà Xuân cho nó đi học vá xe được hơn tháng. Xong bà tìm mua cho nó bộ đồ vá xe đạp. Ngày ngày sáng ra, nó bày đồ nghề ở đầu ngõ, gõ lộc cộc được ít hôm. Đám con nít ngày nào cũng tới phá, chọc ghẹo nó.Có hôm có đứa nghịch ngợm liệng một bịch cứt vào chỗ nó làm. Nó nhịn hổng được nên xảy ra đánh lộn. Công an khu vực xử ép nó, nó khóc. Biết cho nó làm cái gì bây giờ? Đi bán vé số? Nó sẽ lang thang tối ngày đầu đường xó chợ cùng đám du thủ du thực bắt chước nhiều tính xấu. Bà hông đành để con như vậy dù nó là con nuôi. Thằng Ken coi chớ hiền tánh, hông như người ta tưởng. Bà nuôi dạy nó từ nhỏ, bà biết tánh nó nên bà rất thương nó. Nhờ người quen, bà xin được cho nó chạy xe ba gác phụ giao xi măng, tôn… ở tiệm bán đồ xây dựng.

Buổi cơm sum họp chỉ là trứng và rau lang luộc. Và là bữa ăn ngon miệng nhứt của Xuân từ mấy năm nay. Có đủ mùi vị của nước mắm, của cơm dù là cơm độn.“Gạo tổ” đầy bông cỏ được cấp phát hông đủ ăn phải mua thêm ở ngoài. Lúc trước có khi độn thêm củ mì và khoai lang. Bây giờ vẫn còn “ngăn sông”. Hàng hóa hông được đem đi từ tỉnh nầy sang tỉnh khác. Tệ nạn buôn bán chui đầy dẫy. Quản lý thị trường mặc sức mà bắt bớ. Và lẽ tất nhiên, đút lót xảy ra. Lần lần VC học được nhiều thói xấu của một xã hội quản lý kém hiệu quả.

– Anh Lang! Đi bán cá dạo hả?

– Ông thầy! Lâu rồi hông gặp. Ra tù hồi nào vậy ông thầy? Tui ở tù lớn. Ông thầy ở tù nhỏ. Ông thầy thấy đó. Tui bị mất một chơn. Hồi trước 1975 có tiền phụ cấp. Tui sống cũng khoẻ. Sáng còn có cà phê cà pháo. Mấy “anh ba giải phóng” vô. Tui mất hết trơn hết trọi, hông còn đồng ten nào. Buổi sáng, thậm chí kiếm hổng được một ly xây chừng, chớ đừng nói đến một cái ca phé nại. Lúc đầu, tui đi thồ than từ Bình Dương về bán lại. Cũng kiếm được chút cháo. Nhưng mà bị bắt hoài, riết rồi mất vốn. Xoay qua thồ lu. Mỗi lần đi hai cái, lời được một cái. Nhưng rồi cũng hông xong. Bị bắt quá. Bỏ nghề. Bây giờ đi bán cá phụ bà xã mới nuôi được đám con. Tụi nó bị bắt đi làm thủy lợi hoài ông thầy ơi. Hổng biết xẻ kinh làm cái giống cha gì mà mười năm nay vẫn cứ đói nhăn răng.

– Còn Ni đâu?

– Nó với tui đánh trận Chà Rày, vùng Tam Giác Sắt. Hai thằng hăng quá, bị mìn. Nó tan xác.Tui mất một chơn. Khi tỉnh dậy ở Cọng Hoà, biết nó chết, tui khóc cả buổi. Tội nghiệp. Hai thằng sống chết có nhau. Lúc ông thầy đi rồi, tụi tui lang bang. Thằng Ni nó nói ông thầy đi sao hổng kéo tụi mình theo?

– Tui đi qua bên chỗ khác. Đâu kéo hai anh đi theo được. Nói thiệt, thời tui làm trung đội trưởng và đại đội trưởng là cái thời tui thích nhứt. Tụi mình được gần gủi sát bên nhau, chia sẽ ngọt bùi nhiều hơn. Sống gần được anh em, tui biết tính tình từng thằng một.

– Biết tụi em quá nên ông thầy nhốt chuồng cọp hoài!

– Lúc đó mấy anh say xỉn quá thì phải nhốt cho đỡ quậy, chớ nếu hông, mấy cha phá làng phá xóm ai mà chịu nổi.

– Nghĩ vậy chớ hồi còn trẻ, coi mà vui hén ông thầy! À, mà ông thầy còn nhớ cô Xuân Hồng hôn?

– Cô Xuân Hồng nào?

– Ông thầy mau quên. Bồ của ông thầy ở quán ba cô Tư Hà đó. Đêm mà tụi em quậy ở đó.Ông thầy xuống rồi ông thầy rước cổ dià đó.

– Ờ ờ. Cổ tên là Loan. Bạn cũ. Sao?

– Ủa. Vậy chớ ông thầy hổng biết hả? Cổ đi về BếnTre thăm ba má cổ, bị mìn VC chết rồi.

– Sao anh biết? Chắc hôn? Hồi nào?

– Sau khi hành quân ở Hát Dịch về, tụi em tới quán nhậu, mấy con nhỏ làm ở đó nói.

– Hôm nào tui với anh đi thăm vợ con anh Ni. Gia đình nó sống có đỡ hôn?

– Đỡ gì ông thầy ơi. Bả sống dở chết dở với mấy “ông cách mạng”.Mới đầu nghe lời ngon ngọt mấy ông nội đó, bả bỏ nhà ở Cầu Sơn, ngã ba Hàng Xanh, đi vùng kinh tế mới. Ở một thời gian chịu hổng thấu, đói lên đói xuống xính vính. Mẹ con đùm túm dắt nhau về. Nhà bị mấy anh ba vô chiếm. Thưa gởi lên phường lình xình cả năm trời mới lấy lại được nhà. Bây giờ, bả bán cá ngoài chợ với đứa con gái lớn như con vợ tui. Còn mấy thằng con trai, có đứa chạy ba gác, có đứa vác đồ mướn ở chợ Bà Chiểu.

– Tội nghiệp. Con đông quá làm sao nuôi nổi. Tui nhớ hồi đó, sau khi anh và Ni có hai con rồi, bà xã mấy anh hông còn đi theo nữa. Tui cũng ít cho các anh đi phép mà sao bây giờ có cả bầy vậy?

– Thì tụi em dù. Ông thầy đâu có biết. Vừa hành quân về, bỏ ba lô súng đạn, đeo xe đò Nam Thành về Sài Gòn rồi sáng lên sớm. Vợ lính mắn đẻ lắm ông thầy ơi. Rờ đụng giường là nó có bầu rồi! Ở ngoài đơn vị, nhậu nhẹt say sưa, phá làng phá xóm chớ cũng trung thành với bà xã tụi em lắm chớ bộ.

– Ủa? Chớ hồi đó mấy anh nói mấy anh rành mấy ổ đĩ lắm mà! Hổng nhớ là tui hỏi mấy chỗ đó ở đâu, mấy anh nói ở chỗ đó đó. Mấy anh còn nói: L… lạ bằng một tạ vàng, và dạy tui những câu rượu nói trời ơi đất hỡi!

– Tụi em xạo với ông thầy chơi vậy mà. Thằng Ni nó nói với em ổng hỏi vậy chớ có đời nào ổng mò tới đó đâu. Tướng ổng hiền tổ mẹ! À, ông thầy lấy ít cá về ăn. Ông thầy coi bộ còn te tua hơn em nữa. Đi ở tù có lâu hông? Có mấy ông đi lâu, bà xã ở nhà đi lấy chồng khác.

– Lấy chồng khác lo làm ăn nuôi con cái thì có sao đâu. Chớ đi tù VC biết chừng nào mà về. Tui hông lấy cá của anh đâu. Anh đã nghèo, đông con tui lấy sao đành. Bà xã tui đi dạy học cũng có chút đỉnh.

– Nói như ông thầy nghe cũng được đi. Nhưng mà đàng nầy bả lấy chồng cán bộ, bộ đội. Rồi ông đó đi tù về bị bả đì xất bất xang bang. Bả tố cáo nào là ổng còn âm mưu “phản cách mạng”, lấy hình Hồ Chí Minh đem xuống xỏ đui hai con mắt, đêm đêm nghe đài VOA, BBC… Ổng chạy xe ba gác bị làm khó làm dễ, bị phạt liên miên. Rút cuộc bỏ xứ mà đi hay vượt biên, hổng biết nữa? Mà giáo chức bây giờ là “dứt cháo”, có cái gì đâu mà ăn ông thầy.

– Thì cũng có.“Nhu yếu phẩm” chia ở trường phần nhiều là loại hông tốt. Có người hổng ăn, bán rẻ lại, bả mua về ăn cũng được. Nếu coi đi coi lại, có thể bán được thì đem bán kiếm lời.

Lúc mới về, vợ tui đã nuôi hai con heo. Ngày ngày bỏ mấy cái thùng nhỏ ở chỗ bán hủ tiếu, phở. Họ đổ nước cặn thừa vô đó. Tui đem về nấu với cám hoặc bí rợ vụn cho mấy con trư ăn.Nhờ đó tui có số tiền để xoay qua làm nghề khác.

Xập tiệm rồi đâu có gì, chỉ còn hai bàn tay trắng. Thằng Bé, công an khu vực, bước vào nhà tui, đi từ trước ra sau thấy trống bốc. Nó nhìn lên mái tôn giống như cái rổ quảo. Nó nói nhà “ Thiếu Tá Ngụy” sao mà nghèo tổ mẹ. Vậy mà nó còn hành tui. Cứ hai ba hôm, khoảng một hai giờ khuya, vợ chồng con cái đang ngủ ngon giấc, nó cùng mấy thằng phường đội, gõ cửa rầm rầm, ào vô xét nhà, tự do đi từ trên xuống dưới, vạch mùng, ngó kẹt tủ. Mình thì hông sao, đã quen cái cảnh đó rồi. Chỉ tội mấy đứa con, đang ngủ mơ mơ màng màng, hoảng hốt giựt mình thức dậy, ngó quanh ngó quất hổng biết chuyện gì.

Bây giờ, mình chưa phải là công dân nữa. Mình đâu có phải là dân đá cá lăn dưa, đứng đầu cầu thổi ống tiêu đâu mà họ coi mình như là đồ rác rưới trong cái xã hội nầy. Họ có quyền dày xéo, mạt sát mình thậm tệ. Đến nỗi, một thằng công an còn con nít, mặt búng ra sữa, uống một vài chai lade Sài Gòn, gặp tui, chỉ vào mặt, hét lên:“ Ê, mầy là thằng Thiếu Tá Ngụy hả mậy!”. Anh coi có được hôn? Tui giận run lên. Xém chút xíu là tui ăn thua đủ với nó rồi. Nhưng nghĩ lại còn vợ con tui, nên tui nắm chặt hai bàn tay, nén giận. Suy cho cùng cũng hông phải tại nó. Tại cái chế độ VC thối tha sản sinh ra những con người vô đạo đức.

Tui thương vợ tui. Vợ của một người lính chiến, luôn luôn sống xa nhà, hông bao giờ biết được đời sống người lính ở đơn vị chiến đấu như thế nào. Anh cũng đã thấy đó, thời gian tui ở đơn vị với các anh, ít có khi nào anh gặp vợ tui ra thăm tui. Thảng hoặc chỉ có kỳ nghỉ hè, bả ra thăm tui một vài bữa, rồi lại phải trở về lo dạy thêm.

Có khi gặp xui, vợ lính ra thăm chồng bị VC đột kích. Cô vợ bị trúng đạn chết. Như vợ của thằng bạn tui tên Nguyễn Bá Lai.Vợ nó ra thăm nó ở LongĐiền, Bà Rịa. Bị VC tấn công bất thình lình lúc gần sáng. Cô vợ đâu biết nhào ra hố cá nhân, nên bị tử thương.Anh thấy mấy bà vợ lính khổ sở chưa?

Tui đi lính, hông biết việc nhà như thế nào, chỉ một mình bả lo quán xuyến nhà cửa. Còn bả cũng chẳng biết việc nhà binh như thế nào? Cấp bậc lính tráng ra sao, bả bù trất. Tối ngày, tui ở ngoài đơn vị chỉ lo hành quân. Bù đắp vào chỗ trống là cùng mấy thằng làm sương sương vài ba chung đế hay rượu nếp than với khô mực cho hết ngày. Đôi khi có mấy thằng phát chứng: đánh phé. Rồi còn còn tệ hơn, có thằng phản bội vợ nhà: hoang đàng đĩ điếm hay cặp bồ cặp bịch với các cô gái trẻ… mê lính chiến trận? Anh cũng như tui. Nghĩ lại mình thương vợ mình trong thời gian đó quá, phải hôn anh? Thành thử, mình đi ở tù, vợ nhà có bỏ mình đi lấy chồng khác thì cũng là đáng cái đời mình. Trách họ làm chi!

– Ông thầy còn khổ hơn tui. Tui chỉ đi “học tập tại chỗ có ba ngày” rồi về sống với vợ con. Lúc ông thầy đi ở tù, ở ngoài nầy, tui cũng có nghe phong phanh mấy ổng tuyên bố là: “nhà chúng nó chúng ta ở, vợ chúng nó chúng ta lấy, con cái chúng nó chúng ta sai, còn bản thân chúng nó chúng ta đày lên rừng sâu nước độc cho chúng nó chết lần chết mòn.”

– Có thiệt vậy à? Sao anh biết nhiều dữ vậy?

– Nghe nói có chiến dịch “Hoa Hồng gì đó để dụ dỗ mấy bà vợ mấy ông thầy bỏ chồng lấy cán bộ.” đó ông thầy. Ờ! Tui biết nhiều là nhờ lúc thồ than và lu. Tui gặp mấy ông sĩ quan đi tù về cũng thồ lu và than như tui. Gặp nhau, bàn tới bàn lui đủ thứ chuyện của mấy anh ba nầy, nên ai cũng biết ráo trọi.

– Tui hông biết chiến dịch đó. Nhưng trong số bạn bè của tui, có nhiều người bị vợ bỏ lấy chồng cán bộ.

– Tui là lính trơn nên cũng đỡ hơn ông thầy, nhưng cũng hông thoát cảnh đói meo. Mấy ổng làm cho đời sống dân chúng vô cùng khốn đốn.

– Anh đã vậy. Tui chắc vợ con tui ở nhà còn tệ hơn. Tui về thấy bả cạy gạch bông bán, sợ tụi nó lấy nhà. Hông có tiền mua xăng, mua vỏ xe. Rồi chiếc HonDa cũng bán. Ôi thôi, cái gì bả bán được là bán.

Lại thêm cái tệ nữa là tủ sách nhà tui. Hổng biết mấy thằng ôn dịch “đả đảo văn hóa đồi trụy”có biết tiếng Anh tiếng U gì hổng biết mà tụi nó vô nhà tui, tụi nó bươi mấy cuốn sách vạn vật có hình người trần trụi đem ra đốt mẹ nó hết. Rút cuộc vợ tui hoảng quá đem sách nhúm lửa hết trơn.

– Nhà cửa ông thầy vậy. Chớ sau “giải phóng”, mấy thằng chả ở trong rừng về ùn ùn kéo lên Sài Gòn lo chiếm mấy căn nhà của mấy người di tản chạy bỏ lại. Nhiều nhà ngon lắm đó ông thầy! À, ông thầy, tui nghe nói có chương trình Mỹ sẽ rước hết tù cải tạo, hông hiểu có vậy hôn ông thầy? Nếu có đi qua Mỹ, ông thầy đừng quên em út nhen ông thầy!

Cái nhà lụp xụp của Ngô Ngọc Lang ở sâu tuốt trong hẽm của đường An Dương Vương. Từ đầu ngã ba Mũi Tàu, chạy xe đạp vô, gặp cái chợ chòm hổm đông đúc. Phùng Xuân hỏi thăm lần hồi, quanh đi quẹo lại hai ba cái “suỵt”, rồi tới một cái vũng đầy sình rác mới đến nhà sàn của “thằng lính quậy”. Nó đứng trước cửa đợi từ lúc nào. Xuân cẩn thận bước nhè nhẹ trên những miếng ván thông cũ. Cái nhà trống bốc, hông có vách ngăn. Quần áo, mùng mền, chiếu gối để bừa bãi, mỗi nơi một cái. Hai ba đứa còn nhỏ nheo nhóc ngồi trơ mắt ra nhìn Xuân. Bây giờ hông còn lade la diếc gì hết. Hai thầy trò ngồi nhâm nhi hai ly trà nước đỏ đậm lạt nhách lạt nhơ, mơ màng nghĩ ngợi…

Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 khoảng vài tháng, toàn bộ gia đình ông Sáu Xe dời lên Sài Gòn. Năm Lân lúc trước là cán bộ nội thành, còn bây giờ là ủy viên văn hoá của thành phố Hồ Chí Minh. Sáu Trân lúc trước hông hiểu học y tá từ lúc nào, bây giờ đang “học chuyên tu” để trở thành y sĩ. Sau khi trở thành y sĩ, nàng hy vọng học thêm một lớp “chuyên tu” khác thì sẽ được cấp bằng bác sĩ? Năm Lân được cấp phát cho một “căn hộ”rộng ở đường Phan Thanh Giản đủ chỗ ở cho cả gia đình. Sau khi “giải phóng”, nhà cửa bị bỏ trống rất nhiều. Phần đông là nhà của những gia đình di tản, và sau nầy vượt biên hay đi vùng kinh tế mới, nên Đảng và Nhà Nước “nghiệm thu” những căn nhà đó cho cán bộ có công với “cách mạng”. Sáu Trân cũng vậy, nàng có một căn nhà ở đường Tô Hiến Thành.

Phùng Xuân đang đạp xe lang thang ở khu chợ Trương Minh Giảng. Mấy ngày hôm nay, chàng mong gặp được các thằng bạn cũ để hỏi có thêm việc gì làm khá hơn hông?

– Vân! Em đang làm gì ở đây?

Vân đứng im lặng, đang tính quay xe HonDa, nhưng bị Phùng Xuân chặn ngay đầu xe gắn máy, nên nàng hông lui được. Cũng giống như những người cán bộ VC, họ hông muốn “liên hệ” những bạn bè, bà con có dính líu tới chế độ “Mỹ-Ngụy”. Bây giờ họ là thành phần cách mạng tiến bộ nên hông muốn chơi và gặp mặt bà con thân thuộc dính líu tới “Mỹ Ngụy”. “Mỹ Ngụy” bây giờ như bọn phong cùi, ghẻ lỡ, nên tránh xa. Vợ Ngụy hông xài. Con Ngụy hông được đi nghĩa vụ quân sự… Chị hai của Phùng Xuân đã nói với chàng rằng: “ Cơ khổ, Sáu Quảng và Năm Khuỷnh hể thấy bóng dáng mình là tụi nó làm ngơ đi tuốt luốt hoặc ngó chỗ khác. Còn giỗ quảy mình mời tụi nó. Mấy thằng mắc dịch đó có bao giờ tới đâu. Kẹt con tao dính mác Mỹ-Ngụy hông được lên lớp 10, nên tao mới hạ mình cầu cạnh nó để xin cho con nhỏ được đi học nữa. Sáu Quảng bây giờ làm lớn lắm. Trưởng Ty Thông Tin Văn hoá ở Tỉnh Bến Tre đó mầy. Chỉ cần nó viết mấy chữ trên tờ giấy nhỏ đưa tao cầm về cho ông Hiệu Trưởng trường huyện Giồng Trôm là con nhỏ được lên lớp 10 liền”.

Phùng Xuân chưa bao giờ gặp mặt mấy người đó. Có đi ra khỏi Sài Gòn được đâu. Từ lúc đi ở tù về, ba ngày Xuân phải cầm sổ ra trình diện phường một lần. Mỗi tuần Xuân cùng toán dân phòng thay phiên nhau canh gác đêm trong khu vực phường. “Anh chưa có quyền công dân. Anh ráng làm tốt.“ Cách mạng” sẽ cho anh mau được phục hồi quyền công dân ”. Mình có bán nước đâu mà mất quyền công dân?

– Tui đang đi chợ, tính mua vài thứ lặt vặt. Anh tránh cho tui đi để người ta ngó coi kỳ lắm.

Xuân biết cô ta trả lời nhát gừng nên hông buồn hỏi thêm. Xuân biết thân phận mình.Và chàng hông nhắc gì đến chuyện ngày xưa. Chuyện của Xuân và Vân ở cánh đồng Mỹ Nhiên giờ đã xa lơ xa lắc rồi. Nhắc mà làm gì? Nhắc để ăn bòn lại mối tình sôi nổi của một thời trai trẻ bồng bột mà người đối diện hiện đang ở một giai cấp khác. Một giai cấp thắng cuộc chiến nầy. Xuân ráng xuống nước vì chàng cần biết về Khanh.

– Em cho anh biết Khanh hiện giờ ở đâu?

– Hai vợ chồng chị Năm tui đang ở Mỹ Tho.

– Làm gì ở dưới? Sao hổng về trên nầy có việc tốt hơn hôn?

– Ở dưới làm trưởng phòng thương nghiệp, có sướng hơn hông? Thôi tui đi nhen.

Vân vọt nhanh như chớp, sợ Xuân níu kéo lại, hỏi nơi Vân ở? Xuân ngao ngán thở dài. Con người gì mà trở quẻ mau thế. Mới ngày nào, dưới ánh trăng suông, toan tính nhiều thứ, vậy mà bây giờ quên mất hết. Chỉ còn có Loan. Hông hiểu anh Lang nói vậy mà có đúng hôn? Bây giờ làm sao về Bến Tre?Thế nào cũng phải dẫn thằng Ken về Cái Bông…

Con đường Sài Gòn- Bến Tre, khoảng 90 km.Từ Bến Tre về Cái Bông độ 20 km. Tất cả là 110km. Phùng Xuân nhẩm tính làm thế nào đạp xe đi từ khuya thì mình mới có hy vọng đến Cái Bông giữa trưa.

Từ bốn giờ sáng hai cha con đã đèo nhau đi.Trời còn tối. Sao đầy như những viên ngọc trai. Chòm Venus nằm ngã nghiêng khêu gợi giữa bầu trời.

Thằng Ken còn trẻ, khỏe nên hai chơn nó đạp lia lịa. Xe đi vùn vụt trong đêm tối. Thỉnh thoảng vài chiếc xe đò ngược chiều, pha đèn sáng trưng. Ken hông thấy đường, vội tắp sát vô lề có đá lổm chổm. Hai cha con suýt té. Đạp xe đường khuya thiệt nguy hiểm. Phùng Xuân cũng biết vậy. Nhưng, đi xe đò, hai cha con đi về hông kịp trong hai ngày. Xuân lên xin phép về quê thăm gia đình. Suy nghĩ như thế nào, chủ tịch phường Nguyễn văn Sương cho được từng ấy ngày. Ráng mà đi cho kịp. Phùng Xuân còn tính lúc về ghé qua Vang Quới tìm gặp dì chín Mạo và thăm thằng Thương.

Tiền đâu có nhiều để đi xe đò. Hơn nữa đi xe đò chầu chực mua vé lâu lắm. Còn vé chợ đen thì hông mua nổi cho hai cha con. Thời gian mua vé xe bằng thời gian mình đạp xe qua khỏi Long An.

Đoạn đường Bến Tre về Cái Bông là đoạn đường gian nan. Đã hơn mười mấy năm rồi mà đường sá vẫn còn bệ rạc, chưa sửa được một đoạn nào hết. Chỉ đổ toàn đất đỏ lên, vá víu tạm bợ, nên mỗi lần xe đò chạy qua là bụi hồng bay mù mịt. Quần áo, đầu cổ của hai cha con như bị nhuộm phẩm đỏ. Phải mất một thời gian để phủi, để khịt khẹt cho ra hết màu bột đỏ đóng đầy hai lỗ mũi. Mà đâu phải chỉ có xe đò. Xe lôi, xe gắn máy cũng tạo nên vầng mây đỏ phủ kín con đường. Ở những khu có vườn tược hay cây cối, hai cha con dễ núp hơn. Còn gặp đoạn đường trống ngoài đồng ruộng thì hông thể tránh né vào đâu được. Cho nên đến gần trưa khi họ đến Cái Bông, quần áo và mình mẫy giống như hai con gà xước vùi mình trong cát.

Phùng Xuân đứng nhìn vào khoảng đồng không mông quạnh giữa trưa nắng chang chang. Một thời yêu đương nông nỗi và bồng bột của tuổi trẻ đi qua. Phùng Xuân nhớ lại từng cử chỉ, lời nói đối đáp của con Tư Én còn quê mùa, cục mịch. Con Lon còn thơm mùi rơm rạ, nắng khét của đồng trũng ngập nước. Lời đối đáp bốp chát lúc Xuân giúp cổ thay đồ khi cổ bị bịnh sau cây mưa dông trong đêm khuya. Và những lời tình tự ngây thơ của cô gái đồng quê vừa mới lớn lên đã thương bồng bột chàng trai học sinh thành thị. Loan đã cho Xuân thứ quí nhứt trong đời mà hông nuối tiếc. Trong thời gian ở đồng Mỹ Nhiên, cả ba người con gái phút chốc đi qua đời Xuân, có lẽ Loan yêu Xuân nhiều nhứt. Và có phải như vậy hôn? Và nếu Loan hông có bầu, nếu Loan hông rời xa ngôi làng nầy, nàng cũng sẽ bị cuốn hút vô vòng xoáy của chiến tranh. Nàng cũng sẽ trở thành một cô du kích VC. Và nàng cũng sẽ quên Xuân như Khanh và Vân vậy thôi. Có phải hôn? Phùng Xuân hông hiểu được?

Cái vòng xoay vần của thiên nhiên như là một điều bí ẩn hông ai có thể cắt nghĩa được. Đâu có ai nhìn thấy được tương lai và đâu có ai kéo ngược quá khứ. Và cũng hông có hiện tại. Hiện tại chỉ là một cột mốc con người đặt ra. Khoảng không-thời gian trôi vùn vụt, hông giới hạn, đi vô một màn đen tối kềm hãm sự hiểu biết của con người. Những lời giải thích chỉ là ý nghĩ vu vơ làm cho sự tin tưởng sai lệch.

– Con có muốn tới nhà của mẹ con thăm ông bà ngoại hông?

Hỏi là hỏi vậy, chớ Xuân hông hiểu cha mẹ Loan là như thế nào, biết hai ông bà có muốn gặp thằng cháu lai “đế quốc Mỹ” nầy hôn? Hơn nữa họ sẽ truy ra Xuân là người đã ngủ với Loan, làm con gái họ mang bầu phải bỏ xứ mà đi. Đó là điều nguy hiểm cho Xuân. Họ có thể làm khó dễ Xuân đủ mọi chuyện. Nhưng Phùng Xuân chấp nhận để cho Ken biết mặt ông bà ngoại của nó một lần.

Tìm nhà của ông Sáu Lục rất dễ dàng, nhưng dân trong làng chăm chú đến thằng nhỏ lai nhiều hơn. Khi họ đến nhà của Loan, ba con bốn con cờ tây chạy ra sủa inh ỏi.

– Thằng lai nầy là thằng nào? Chú mầy nói nó là con của con Tư Én. Nhà tui hông có ngữ “con lai đế quốc Mỹ” đó. Con Én nó hông phải dòng họ nhà tui. Thứ đồ con gái hư, bỏ nhà đi lấy Mỹ.

– Còn anh là ai? Sao anh biết cái nhà nầy của chị Tư Én. Anh quen với chỉ hồi nào? Chỉ chỉ cho anh quê chỉ ở dưới nầy hả? Chắc anh thân thiết với chỉ lắm hả?

Phùng Xuân ậm ừ. Sau đó chàng cố gắng nói cho họ nghe mình quen Loan ở tuốt ngoài Long Khánh. Cổ gởi gắm đứa con lai cho mình để về quê thăm nhà. Và rồi hông trở lại để gặp thằng Ken.

– Mà sao tới bây giờ cậu mới dẫn nó dìa đây? Hơn mười năm rồi.

– Dạ thưa bác gái. Cháu hông có dịp dẫn nó về đây.

Đôi mắt ông Sáu Lục ngó Xuân săm soi. Còn người thanh niên, mà Phùng Xuân biết chắc là Út Thèm ngày xưa, lừ hai con ngươi như muốn ăn tươi nuốt sống chàng và Ken. Xuân biết họ hông bao giờ nhận thằng Ken là cháu họ. Xuân chào họ rồi buồn bã xin ra về.

Phùng Xuân vừa ra đến đầu làng. Hai người mặc đồ công an đã đúng chờ sẳn, mời Xuân và Ken về đồn. Họ cầm giấy tờ của Phùng Xuân, lật qua lật lại, coi tới coi lui. Họ nhìn thằng Ken một hồi lâu.Sao họ thù ghét Ken đến như vậy?

– Anh mới vừa đi cải tạo dià?Anh còn trong thời gian quản chế, sao anh đi ra khỏi thành phố được. Còn thằng lai Đế quốc Mỹ sao hông có gì tờ gì hết ráo trọi?

– Dạ. Nó chưa đúng tuổi lấy chứng minh nhân dân. Có giấy chủ tịch phường cho cha con tui đi phép hai ngày.

– Thằng đó bự con vậy mà chưa có giấy tờ gì hết. Khai gian tuổi hả?

Rồi, họ hông nói gì thêm, cứ lẳng lặng đút giấy tờ vô ngăn kéo bàn. Mọi người đi ra ngoài. Xuân và Ken đứng đợi. Rất lâu. Một người công an trở vô, báo cho Xuân biết là chàng bị tạm giữ đêm nay. Đến sáng mai sẽ có người giải quyết. Xong họ đưa hai cha con qua một căn phòng trống bốc. Hông ai trở vô. Hai cha con đành ngồi bệt xuống đất.

Nắng chiều tắt lần. Và trời đột nhiên tối sầm. Mây đen từ hướng Tây Nam kéo đến. Một lát sau tiếng nổ rôm rốp từ trên máy tôn vang dội xuống. Cây mưa ào ào như lấy gào tát nước. Mái nhà dột nát. Nước mưa tuôn xuống. Nền đất lầy lội.

Tội nghiệp thằng Ken nôn náo. Nó có vẻ đói bụng và khát nước. Họ đã lấy tất cả. Vắt cơm trộn muối đậu ăn trong ngày, mì gói, đồ phụ tùng vá xe đạp và cái bi đông nhựa nhà binh. Bà Phùng Xuân chuẩn bị rất kỹ. Mọi thứ được bỏ vô cái túi đeo lưng. Xuân hy vọng họ sẽ trở lại giao cho hai cha con những vắt cơm. Và hông chắc gì họ đưa lại, vì đã xế chiều. Chắc họ bỏ đói hai cha con đêm nay.

Trời tối lần. Đàn muỗi bắt đầu kéo đàn cò.Mới đầu, thằng Ken giơ tay đập lia lịa, nhưng một lúc sau hông nghe nó đập nữa. Nó mệt mỏi, dựa đầu vô gốc cột ngủ ngon lành. Xuân hông hiểu chừng nào hai cha con mới được thả. Xuân nghĩ chắc là có lịnh từ gia đình ông Sáu Lục, vì lúc chiều, khi hỏi thăm nhà của Tư Én, dân làng hỏi lại Xuân có phải muốn tìm nhà ông Bí Thư xã hông? Nếu đúng như vậy thì hông biết bao giờ họ thả mình ra?

Mưa đã tạnh từ lâu. Căn phòng hông có đèn đuốc gì ráo. Trời tối om. Muỗi e e như tiếng ong bầu kẹt dĩa ( Trò chơi con nít: bắt ong bầu bỏ trên đít thùng thiếc, xong lấy dĩa nhỏ dằn lên. Ong bầu phát ra liên tục tiếng kêu e e.). Hông biết đường đâu mà đập. Một ánh trăng đầu tháng yếu ớt lung linh theo tàu lá dừa, lọt qua khe cửa, đong đưa qua lại trên nền đất ướt. Trăng suông như ngày xưa ở đồng Mỹ Nhiên? Một ngày qua mệt mỏi. Phùng Xuân chán nản nằm bệt xuống nền đất ướt. Qua khe ván chàng nhìn thấy những cây bần tỏa rực đom đóm. Chàng nhớ lại căn nhà lá đơn sơ dọc bờ rạch. Những cây bần đầy đom đóm vào những ngày hông trăng. Đom đóm thi nhau đốt đèn, lấp la lấp lánh cùng những vì sao trên trời, sáng rực cả một khúc rạch.

– Cậu có quen biết con Tư Én phải hôn? Cậu nói thiệt đi. Hồi nẫm, nó ở trong đồng với cậu phải hông? Vậy bây giờ cậu có biết thằng con đó ở đâu hôn?

Bà Sáu Lục hạch hỏi Phùng Xuân. Bà vô phòng rất sớm, có lẽ đi theo các người đi chợ. Nhìn vẻ mặt của bà hông có vẻ gì hung dữ, Phùng Xuân đành thiệt lòng nói rõ mọi chi tiết của chàng và Loan. Bà ngó thằng Ken, cháu ngoại lai mỹ, có vẻ hơi ái ngại. Bà đưa tay vuốt tóc nó. Bà trả lại cái túi đeo lưng.

– Hai cha con bây đi rút, giờ tới sáng ra khỏi Giồng Trôm nhen. Có gì để qua lo.

May là Ken còn sức. Hơn nữa nó sợ bị bắt lại. Nó đạp vùn vụt. Trời hửng sáng. Họ đã tới Bình Chánh. Qua khỏi Lương Quới, đường lầy lội. Hôm qua, trời mưa. Bùn đỏ bám vô bánh xe, hông chạy được. Thằng Ken vác chiếc xe đạp trên vai đi một mạch tới Mỹ Lồng. Đến bến ghe, hai cha con xuống tắm và rửa sạch bùn bám đầy nghẹt vè xe. Xong họ tìm một gốc cây me lớn, ngồi nghỉ. Lục lọi trong túi còn lại chút cơm vắt, Phùng Xuân chia cho con một chút. Tội nghiệp cho con. Về quê mẹ mà bị nhốt và trốn chạy. May nhờ có bà ngoại còn chút thương tình, chớ nếu hông, hai cha con chắc hổng biết khi nào họ thả ra…

Tới ngã ba Thới Lai, họ quẹo con đường đến Vang Quới. Mặt trời đứng bóng. Nắng chói chan. Ken bước xuống mương ruộng múc đầy bi đông nước rồi tu ừng ực. Họ hông còn đồng xu dính túi. Số tiền ít ỏi mang theo đã bị lấy mất sạch. Phùng Xuân hy vọng tìm được nhà dì chín Mạo. Chỉ còn cách đó mới có được chút cơm dằn bao tử cho qua cơn đói.

– Cơ khổ! Tui đợi chờ cậu hơn chục năm nay rồi. Mấy lần về đây, con Én nó cứ nhắc tới cậu hoài. Nó nói khi nào cậu tới thì đem cái áo sơ mi sọc rằn đưa gởi lại cậu. Hồi trước nó nuôi thằng Thương, có lúc nó đem cái áo nầy túm thằng nhỏ mấy bận, rồi ngồi khóc một mình.

– Rồi thằng Thương bây giờ ra sao rồi dì?

– Mấy năm sau nầy, con Én nó lấy chồng nên ít khi về thăm con. Tao đâu coi chừng coi đổi nó nhiều được.Nó lớn lên cặp bè cặp bạn rồi vô trong bưng theo mấy ổng. Nghe nói bây giờ nó làm “giáo dục” gì trong quận sáu ở ChợLớn.

– Tính ra giờ nó cũng khoảng trên hai mươi.

– Chắc đâu đó. Lúc con Én qua tao ở, cái bụng còn nhỏ xíu. Nó ốm nghén mà nó còn giấu tao. Hóa ra bây “lẹo tẹo” với nhau lúc ở trong đồng. Nó nói với tao nó thương bây lắm nên mới trao thân gởi phận cho bây. Mà bây giờ con Én ra sao rồi bây có biết hôn? Có lúc nó về thăm tao nó nói có chồng Mỹ. Nó nói hông biết đời nào gặp được bây. Nó cho tao nhiều thứ lắm: quần áo, đồ hộp, bánh kẹo ngon lắm. Còn đưa thêm tiền để nuôi thằng Thương nữa. Rồi nó bặt tin từ dạo đó đến nay, cũng hơn chục năm. Tao nghĩ nó sau 1975 nó theo chồng về Mỹ.

– Dì hổng biết hả? Loan bị mìn VC ở gần Giồng Trôm chết lâu lắm rồi, đâu năm 66 hay 67 gì đó. Còn đây là Ken, đứa con với người chồng Mỹ.

– Trời đất! Vậy tao nghi oan cho nó.

Dì chín Mạo khóc mùi mẫn. Bả bù lu bà la kể lể đủ thứ chuyện về Loan trong thời gian nàng ở với bà. Nước mắt hoà với nước mũi chảy thấm ướt cái khăn rằn bà vắt vai. Ken đứng gần bà Mạo. Bà lấy tay vuốt tóc nó. Những sợi tóc quăn màu ngà ngà dài ra theo mỗi lần bà vuốt tóc Ken. Rồi bà nắm tay nó, nhắc lại đủ điều về Loan. Thỉnh thoảng bà nhìn nó rồi ngó bộ dạng thằng con lai, bả có vẻ ngạc nhiên sao mà nó giống Mỹ quá.

– Con Én nầy nó sao khổ vậy. Nó mà còn sống, hổng biết hai thằng con nầy có hợp nhau hôn? Mà bây có về trên đó, tìm gặp được thằng Thương thì đừng cho hai anh em nó biết nhau nghe chưa? Cách mạng hông ưa mấy thằng con lai nầy…

Con đường trở về thấy sao mà nặng nề và xa hun hút. Cây cối hai bên đường tiêu điều. Cảnh vật khác xa khi trước. Cồn Phụng hông còn rộn rịp. Đám nhà tu trốn quân dịch của ông tu sĩ kỹ sư Nguyễn Thành Nam đã bị giải tán. Ông Đạo Dừa gầy gò ốm yếu, có lần ra tranh cử Tổng Thống vào năm 1967, ôm ấp mơ mộng hão huyền đòi ra gặp Hồ Chí Minh để thương thuyết hoà bình!! Sau năm 1975, bị VC cho đi tù rồi chết ở khám Cần Thơ (?).

Hông hiểu ông có lý thuyết gì mới lạ mà John Steinbeck đến thăm cồn Phụng vào năm 1968. Bây giờ chiếc thuyền Bát Nhã của ông, lúc trước ổng nói dùng nó để làm nơi gặp gỡ hai nhà lãnh tụ Nam Bắc, bị VC kéo về Bến Tre làm nhà hàng nổi! Chớp mắt đấy mà đã hơn 20 năm. Cửa Đại bây giờ có thêm một cái cồn nhỏ, nhỏ nhú nhú tít mù xa.

Phùng Xuân hông thấy thành phố MỹTho còn có một chút gì thân thuộc với mình như khi xưa. Con đường chạy bên hông dinh Tỉnh Trưởng ngang nhà Yvette hông còn nữa. Chắc trước sân ngôi nhà của Yvette giờ là những vồng khoai mì, những luống rau muống, những đám rau lang. Chủ nhơn mới chắc có lẽ “tận dụng” miếng đất để “cải thiện” đời sống trong thời buổi khó khăn hiện nay.

Đâu rồi những chùm bông đại rơi đầy sân cuốn tròn theo con trốt! Người xưa giờ ở tận trời Tây, con đùm con mang, chắc hông còn nhớ đến vị nước sông ở cầu tàu trước dinh tỉnh trưởng! “Ờ, hén, mình. Rồi mình chắc chắn sẽ trở lại Mỹ Tho. Sao lại chỉ có mình mình? Còn con mình nữa chứ mình!”. Tiếng nói của Yvette như ngân dài gần suốt hai mươi năm qua, vang vang trong lỗ tai Phùng Xuân.

Chàng hối Ken chạy mau tránh khỏi những con đường mang nhiều kỷ niệm. Mau mau về Sài Gòn đi con.Mình đi lâu lắm rồi.Chàng trình bày rõ ràng lý do về trễ. Hông có chuyện đó đâu. Anh đào đường mương dài hơn 100 mét vòng quanh chợ và một tuần canh gác dân phòng.

Phùng Xuân thầm nghĩ: Làm sao tìm gặp được Thương. Hông dễ gì mò lên chỗ công an làm việc. Kiếm cớ để gặp nó, chàng cầm lá đơn xin đi dạy học lên quận.

– Anh nộp xin đi dạy học? Anh vừa đi học tập cải tạo về hả?

– Thưa… anh…!

– Anh hông được quyền gọi tôi bằng anh. Anh nhờ ơn cách mạng khoan hồng tha cho về sớm. Anh chưa phải là một công dân. Anh phải nói với tôi: “Thưa cán bộ, nghe chưa”?

– Dạ. Thưa cán bộ. Tui đi học tập cải tạo về hông có việc làm. Hồi trước tui có đi dạy học.

– Cách mạng hông có xài ngụy quân ngụy quyền. Tư tưởng anh chưa “đã thông”. Anh chưa có quyền công dân. Chúng tôi hông có lịnh cho các anh đi làm trong các cơ quan cách mạng.

– Dạ. Xin phép cán bộ cho tui hỏi. Cán bộ có phải người Bến Tre hôn?

– Anh hỏi làm gì? Tính điều tra tui hả?

– Dạ. Hông. Tui thấy cán bộ hao hao giống người tui quen ở Vang Quới. Nhà bà chín Mạo đó cán bộ. Bả có người cháu gọi bả bằng bà Chín, tên là Trần Anh Thương. Và tui cũng biết cô Loan-Tư Én-, má của cháu Thương nầy nữa.

Người cán bộ ở phòng Giáo Dục quận 6 nhìn trân trân Phùng Xuân một lúc.

– Hông. Tui hông có ở Bến Tre. Tui cũng hông biết bà chín Mạo và bà tư Én nào nào hết. Anh nhận lầm rồi. Tui nhắc lại cho anh biết một lần nữa. Tui hổng có quen biết các loại người ngụy quân như anh, làm tay sai đế quốc mỹ, chống lại nhân dân, có tội trời hông dung đất hông tha… Anh đừng có nhận bá vơ như vậy nghe chưa?

–!!!???

Phùng Xuân ngán ngẫm, lật đật đứng dậy chào người cán bộ(? sic), cố ngăn giọt nước mắt ưá trào ra. Ôi! Sao chủ nghĩa Cộng Sản biến con người đến mức độ tàn nhẫn như vậy? Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm đày đọa biết bao nhiêu người ở miền Bắc. Bây giờ đến miền Nam phải chịu tai ương thù hận, cốt nhục tương tàn. Sau cuộc chiến năm 1975, biết bao gia đình ly tán chia rẽ vì một người bên nây, một người bên kia. Biết bao giờ hàn gắn được…???

Xuân mệt nhọc bước xuống cầu thang. Chắc hông bao giờ Ken và Thương có thể gặp nhau và bắt tay chào hỏi mừng rỡ. Loan có sống lại thì cũng hổng hàn gắn được tình thương của hai đứa con. Và nàng sẽ sống làm sao?

Buổi trưa bến xe Chợ Lớn đầy nhung nhúc người. Và xe tới bến. Rồi xe đi. Hông bao giờ ngớt. Cuộc sống có nhiều cơ cực vì ngăn sông cấm chợ, nhưng người ta cố tìm đủ mọi cách luồn lách để mà sống. Chỉ có cái là đi buôn lậu.Họ tìm mọi cách qua mặt quản lý thị trường. Giấu hàng đủ mọi nơi trong xe chở khách, mọi chỗ trong thân người. Đút lót, quà cáp khi qua mỗi trạm.

– Mừng! Mừng! Anh đi đâu đây?

– Trời ơi! Ông thầy còn sống hả?

– Chết hồi nào đâu? Còn sống nhăn răng đây.

– Vậy mà sau năm 1975, tui ở miền Tây, người ta đồn Sư Đoàn 18 bị banh ta lông ở trận Long Khánh hết rồi. Tui nghĩ chắc ông thầy cũng hông chạy đâu khỏi. Rồi ông thầy đi cải tạo có lâu hông?

– Đủ nếm mùi tù VC. Bây giờ anh làm gì?

– Đang làm lơ xe đò. Xe lúc nầy vô quốc doanh ráo trọi thành thử đói lắm. Xe tui chạy chui. Tui phải bán thêm thứ khác đủ nuôi mấy đứa nhỏ và thằng cháu nầy.

– Thằng cháu nầy con của ai?

– Con của con Mận đó ông thầy!

– Cổ ra sao rồi. Chồng cổ chết rồi hả?

– Em tui có chồng con gì đâu! Đầu năm đó, Mận ở Long Khánh về. Mấy tháng sau thì cái bụng nổi lên chình ình. Ở nhà hỏi: có chửa với ai. Em tui hổng nói. Mặt mày buồn so. Tới kỳ sanh đẻ xong rồi ở vậy nuôi thằng nầy cho đến trọng tuổi thì bị ban cua chết. May là lúc đó tui đổi về gần nhà nên mang thằng nhỏ dìa nuôi cho đến bây giờ. Nó theo tui phụ lơ kiếm chút đỉnh sống qua ngày. À, mà ông thầy, ngộ nghen! Lúc nghe tin đồn Sư Đoàn 18 bị thua trận, em tui buồn rũ rượi. Ngày ngày, Mận nó đốt nhang khấn vái hoài.

Phùng Xuân giựt mình ngó qua thằng nhỏ cũng cở trạc tuổi hai mươi. Từ năm 1966, 1967 đến giờ cũng tròn trèm hai mươi năm. Nó có vẻ cũng hao hao giống mình. Mà biết có phải con mình trong cái đêm hôm mình say rượu hông? Chàng bán tín bán nghi ngó nó một hồi lâu.

– Ông thầy làm cái gì nhìn thằng Phùng dữ vậy? Bộ nó giống ông thầy lắm hả?

Phùng Xuân thót mình quay lại, ngó thấy Mừng chum chím cười. Xuân đoán Mừng nghi ngờ điều gì. Cái gì cũng có thể được, nhưng có cái hông có thể được? Sao cuộc đời nhà binh mình đa đoan nhiều quá vậy? Xuân gây buồn phiền cho bao nhiêu người? Từ lúc mới ra đơn vị đã nhìn thấy Hiền chết ngay trước mặt mình. Chuyện của Mận có phải tại mình hông? Cái hông thể biến thành cái có thể. Thằng Phùng đang trờ trờ trước mặt mình đây mà! Xuân có nên nói thiệt câu chuyện đã xảy ra cho Mừng nghe hôn? Mà chắc gì Mừng tin. Nó đâu có nghĩ là em mình dám làm điều đó. Có khi nó còn nghĩ ngược lại. Ông thầy coi em tui như gái qua đường, chơi rồi bỏ. Như thế lại càng khổ cho mình nữa. “Làm sao đây hở cô Mận? Tui đành có lỗi với cô. Dù sao cũng cám ơn cô. Những ngày tháng nằm kế bên võng của cô, nghe những bài ca vọng cổ mùi mẫn của cô cũng làm cho tui đỡ buồn. Tình yêu thời chiến tranh của cô quá bồng bột, hông tính toán. Thiệt tình tui hông ngờ được”.

Phùng Xuân theo Mừng đi vô sâu một ngõ hẽm. Quẹo tới quẹo lui nhiều lần rồi họ vô một căn nhà rộng. Khoảng ba bốn người đang tuôn thuốc lá từ trong người ra. Người mập ù bây giờ trở nên ốm tong teo.Một người cụt một chưn đang ngồi trên ghế, lấy từng điếu thuốc lá dấu trong ống chưn giả, rồi vỗ vỗ và vuốt lại cho ngay thẳng. Đầu kia, trong góc khuất, một cô gái còn trẻ, tự nhiên cổi bỏ hai ba lớp áo.Sáu bảy cây thuốc Jet bó vòng quanh người tuôn xuống, lộ thân mình trắng ngần dầm dề mồi hôi. Rồi sau đó cô bé thò tay vào sâu trong bụng, lần xuống háng và bắp vế, lần lượt lấy thêm bốn năm cây thuốc nữa. Xong, cô gái bận áo lại, lấy hai tay chẻ đôi mái tóc rối lại cho suông sẽ. Hông ai nói ai một lời. Đầu nậu nhìn những cây thuốc lá mà họ tin chắc là những cây thuốc thiệt chứ hông phải giả, chậm rải đếm tiền đưa cho những con buôn lậu. Thuốc điếu thì rẻ hơn thuốc cây. Nhưng buôn thuốc cây thì cũng năm ăn năm thua. Rủi bị quản lý thị trường bắt thì kể như mất vốn. Người cụt một chưn trên kia là anh thương binh VNCH. Sau năm 1975, hông còn tiền phụ cấp nữa, nghèo đói, hông có nghề ngỗng, hông biết làm gì. Bây giờ chỉ biết buôn lậu cò con, bỏ từng điếu thuốc vào ống chưn giả, kiếm cơm sống qua ngày.

– Tui đạp xe cà tàng cà tàng từ Củ Chi xuống đây, ngày một bận, chung lại cũng được 5 gói Jet. Làm sao mà để nguyên gói được, nên phải nhét từng điếu vô ống chưn.

Còn cô gái buôn đường dài, từ Tây Ninh xuống đây. Mỗi ngày theo chuyến xe, chủ ăn chịu với công an, quản lý thị trường.Gần tới trạm, chủ ngừng xe, con buôn xuống, luồn vô trong xóm.Họ đi đường tắt ra lộ cái. Chủ xe đón họ ở đầu kia. Cứ thế mà lần lượt đến ChợLớn.

Thuốc lá là chất bắt mùi nhanh chóng. Để lâu trong ống chưn giả có mùi tanh. Dấu trong nách, háng, thuốc bắt nặng mùi mồ hôi. Dìm trong thùng mắm ruốc, thuốc có mùi thum thủm. Thuốc bán mùi trở nên lạt nhách. Dân sành hút luôn luôn cho là thuốc giả.

Những người Tàu Chợ Lớn là những người biết cách làm ăn trong mọi trường hợp. Họ luồn lách qua đủ ngõ ngách để buôn bán trong cái xã hội chủ nghĩa man rợ nầy. Từ những viên kẹo nhỏ đỏ đỏ xanh xanh cho đến những phụ tùng xe hơi, xe Honda, xe đạp…, họ đều có. Những chuyến hàng to lớn lọt qua công an đều là xuất xứ từ Chợ Lớn. Chợ Kim Biên là một thí dụ rõ ràng. Ai dẹp được nó?

Phùng Xuân lùng xục mọi nơi trong Chợ Lớn. Những điếu thuốc vấn bằng tay làm bằng lá đu đủ hay lá khoai mì phơi khô tẩm hoá chất mua từ chợ Kim Biên rồi thêm chất dẫn cháy bằng diêm sinh đến những lò sản xuất cà phê đủ loại bằng bắp, đậu nành từ rẻ đến mắc. Thuốc Mai giả cũng có. Jet, Hero giả cũng có. Cái gì họ cũng có. Tại sao vậy?

Những người VC hông phải là những nhà quản lý kinh tế giỏi, nhưng họ tự kiêu, hông chịu sử dụng những nhân viên chế độ cũ. Xã hội miền Nam rối ren như nồi canh hẹ. Thành phần trí thức lần lượt bỏ đi. Dân chúng bắt đầu ra biển, đi đường bộ tìm đường trốn thoát. Nguyễn Ngọc Tiền và Nguyễn văn Nghiệp vượt biển mấy lần đều hông thoát. Mỗi lần đi là mất mấy cây vàng và có khi bị tù lại. Ngọc Tiền mấy lần thất bại về trốn ở nhà Phùng Xuân. Xong rồi lại vượt biên nữa. Có nhiều người lần lần mất hết của cải. Và cũng có nhiều người làm mồi cho cá hoặc bị hải tặc giết chết. Để cho bọn “Mỹ-Ngụy” tiêu vong hết, họ sẽ dễ dàng chiếm dụng tài sản của bọn “bán nước” đó. Có phải đó là chánh sách của họ hông?

Thiếu Tá Tuệ, bạn tù cũ, có hôm dẫn đến nhà Xuân một thanh niên nói năng lưu loát. Biết Phùng Xuân hông có cây nào để vượt biên. Nếu Xuân chịu vượt biên một mình, “Mật Trận” sẽ lo liệu hết, với điều kiện anh sẽ ở lại làm việc cho “Mật Trận”. Xuân nghĩ đây là một tổ chức gì? Một tổ chức giả hiệu của VC để gài người bắt cho hết những lực lượng đang nổi dậy chống đối có liên lạc với Mặt Trận Liên Hiệp của Trần văn Bá. Tin tức thầy cũ Hồ Thái Bạch và Trần văn Bá bị tuyên án tử hình ngày 08 tháng 01 năm 1985. Phùng Xuân ra đi một mình bỏ vợ con lại trong nhà tù to lớn. Có đành lòng hông? Xuân từ chối. Ở lại để khổ cực có nhau còn hơn vướng vào cái bẫy kia.

Tù cải tạo bây giờ rơi xuống tận cùng đáy xã hội nên trở nên là thằng mạt rệp. Những thằng “tù cải tạo” nầy tìm mọi cách để sống còn trong cái “nhị thiên đường” cộng sản. Họ làm đủ nghề. Thằng làm khí đá, thằng làm bột mì, thằng làm bánh in, thằng giữ xe đạp, thằng làm yaourt, thằng chạy xích lô, thằng chạy ba gác…