Chương 9
Cậu Rushworth đứng bên cửa đón người yêu kiều diễm của cậu, và chào mừng cả đoàn với sự ân cần phải phép. Trong phòng khách, họ được bà mẹ chào đón cũng thân tình như vậy, và tiểu thư Bertram có đủ mọi thứ xuất sắc mà bà mong ước. Sau cuộc chào hỏi, việc cần thiết đầu tiên là ăn, các cánh cửa mở toang đón họ qua một hoặc hai phòng trung gian, vào phòng ăn đã chọn, bữa ăn nhẹ dọn sẵn, phong phú và thanh lịch. Nói nhiều, ăn nhiều, và mọi sự diễn ra suôn sẻ. Lúc này, họ cân nhắc đến mục đích chính trong ngày. Cậu Crawford thích gì, chọn kiểu gì để tiến hành một cuộc khảo sát đất đai? Cậu Rushworth nói đến chiếc curricle[9] của cậu. Cậu Crawford thèm một chiếc xe có thể chở nhiều hơn hai người. “Tự tước đoạt ưu thế trong nhìn nhận và đánh giá của người khác có thể thành một điều ác, chưa kể làm mất niềm vui hiện tại”.
Bà Rushworth cũng đề nghị dùng chiếc chaise[10], nhưng lời đề nghị này được tiếp nhận như một sự sửa đổi, các cô gái không cười, cũng không nói năng gì. Tiếng đó, bà gợi ý muốn chỉ cho họ tòa nhà không còn như trước, và được hoan nghênh hơn, vì tiểu thư Maria Bertram hài lòng được trưng quy mô của tòa nhà, còn tất cả mừng vì có việc mà làm.
Cả tốp vui vẻ đứng dậy, được bà Rushworth chỉ dẫn, họ đi qua vô số căn phòng, tất cả đều cao ngất, nhiều phòng rất rộng, sàn sáng bóng, đồ đạc phong phú theo thị hiếu của dăm chục năm trước bằng gỗ gụ chắc nặng, nhiều gấm vóc Đamát, đá cẩm thạch, đồ thiếp vàng và chạm khảm, mỗi thứ đẹp một kiểu. Rất nhiều bức họa, ít cái đẹp, phần lớn là chân dung của gia đình, chẳng dính dáng gì đến ai ngoài bà Rushworth, bà phải mất công dạy dỗ lắm người quản gia mới nhớ nổi, và bây giờ gần như chỉ để phô trương cho tòa nhà. Vào dịp này, bà muốn khoe với cô Crawford và Fanny là chính, nhưng không thể so sánh sự chú ý của họ, vì cô Crawford đã nhìn thấy rất nhiều tòa nhà nguy nga và chẳng quan tâm đến một cái nào, nên hình như chỉ lắng nghe vì lịch sự, trong khi Fanny hầu như thích thú mọi thứ vì đều mới mẻ với cô, cô thành thật hào hứng với những điều bà Rushworth kể lể về gia tộc ở các thòi đại trước, sự thăng tiến và uy quyền của nó, những chuyến đến thăm của vua chúa và sự cố gắng trung thành của họ, bà rất mãn nguyện liên hệ mọi thứ với lịch sử hoặc kích thích óc tưởng tượng của cô bằng những hình ảnh trong quá khứ.
Vị trí của tòa nhà chắn cái nhìn toàn cảnh rất nhiều, từ bất cứ phòng nào, trong lúc Fanny và vài người khác lắng nghe bà Rushworth, Henry Crawford trang nghiêm nhìn ra cửa sổ và lắc đầu. Các phòng ở mặt tiền phía tây nhìn ra bãi cỏ đến đầu con đường trồng cây hai bên, nằm ngoài những hàng rào cao bằng sắt và nhiều cổng.
Càng thăm thêm nhiều căn phòng càng thấy chẳng có ích lợi nào khác ngoài việc đóng thuế cửa sổ[11], và thêm việc làm cho các cô hầu gái.
- Bây giờ, chúng ta sắp đến nhà thờ, - bà Rushworth nói, - nếu hợp thức chúng ta sẽ đi vào từ bên trên và nhìn xuống, nhưng vì chúng ta là chỗ bạn bè nên tôi sẽ đưa các cô cậu theo đường này, các cô cậu bỏ quá cho.
Họ bước vào. Fanny đã hình dung nó đồ sộ hơn là chỉ có một căn phòng rộng rãi hình chữ nhật để cầu nguyện, chẳng có gì nổi bật hoặc uy nghi hơn là vô khối đồ gỗ gụ[12], những nệm nhung đỏ thắm che kín phần trên các gờ cửa phòng tranh gia đình.
- Em thất vọng quá, - cô nói khẽ với Edmund. - Em không ngờ nhà thờ lại thế này. Ở đây chẳng có gì đáng tôn kính, chẳng có gì u sầu, chẳng có gì đẹp đẽ. Không có các gian bên, không có các khung cửa vòm, không có các câu chạm khắc, không cờ quạt. Không cờ quạt để “ngọn gió đêm của thiên đường thổi bay phần phật”. Chẳng có dấu hiệu gì “bên dưới có một quốc vương Scotland đang ngủ”[13], anh ạ.
- Fanny, em quên là tất cả những thứ này mới xây dựng lại gần đây, so với những nhà thờ cổ trong các lâu đài và tu viện làm sao được. Nhà thờ này chỉ dùng riêng cho gia đình. Anh cho là họ được chôn trong nhà thờ xứ đạo. Em có thể tìm thấy cờ quạt và các gia huy ở đấy.
- Em ngu quá không nghĩ ra, nhưng em vẫn thất vọng.
Bà Rushworth bắt đầu kể lể:
- Như các cô cậu thấy, nhà thờ này được sửa sang dưới thòi vua James Đệ nhị. Trước đó, theo như tôi biết, các ghế dài chỉ là những tấm ván, và có lý do để cho rằng các tấm vải lót, nệm của bục giảng kinh và ghế của gia đình toàn bằng vải màu tía, còn bây giờ không hẳn là thế. Đây là một nhà thờ đẹp, và thuở xưa được sử dụng liên miên cả sáng lẫn chiều. Trong ký ức của nhiều người, các buổi cầu kinh do các giáo sĩ địa phương chủ trì. Nhưng ông Rushworth quá cố đã cho ngừng.
- Mỗi thế hệ có những đổi mới riêng, - cô Crawford nói và mỉm cười với Edmund.
Bà Rushworth đến nhắc lại bài thuộc lòng với cậu Crawford, còn Edmund, Fanny và cô Crawford túm tụm lại với nhau.
- Thật đáng tiếc, - Fanny nói, - vì đã bỏ một tục lệ. Nó là một phần giá trị của thời xưa. Nhà thờ và vị giáo sĩ có một cái gì đó tiêu biểu cho một tòa nhà lớn, vói những ý tưởng của ông ta về những điều mà một gia đình nên làm! Cả gia đình tập hợp thường xuyên để cầu nguyện là hay lắm chứ!
- Quả thực là rất hay! - Cô Crawford vừa nói vừa cười to. - Chắc hẳn những người đứng đầu gia đình phải mất nhiều công sức bắt cả đám đầy tớ cả trai lẫn gái bỏ công bỏ việc và mọi niềm vui để cầu nguyện ở đây hai lần một ngày, trong lúc chính họ lại bịa ra đủ cớ để vắng mặt.
- Đấy chỉ là ý nghĩ của Fanny về một cuộc tập hợp của gia đình thôi, -Edmund nói. - Nếu ông bà chủ không tham dự, chắc hẳn tục lệ này hại nhiều hơn lợi.
- Dù sao đi nữa, nó cũng an toàn hơn để mặc mọi người tự xoay sở lo liệu lấy trong những việc như thế này. Ai cũng thích làm theo cách của mình, chọn lựa thời gian và cung cách cầu nguyện cho mình. Bắt buộc đi lễ, nghi thức, kiềm chế, quy định thời gian, nói chung đây là một việc kinh khủng, và chẳng ai thích: nếu những người đức hạnh đã quen quỳ và ngáp trong gian phòng đó, có thể thấy trước rằng trong thời gian đó những người đàn ông và đàn bà có thể nằm rốn thêm mươi phút trên giường, khi thức giấc đầu đau nhức, không còn cơ nguy bị đày xuống địa ngục, vì nhà thờ đã mất rồi, họ sẽ nhảy múa vì vui mừng và ghen tị. Các vị không thể hình dung sự miễn cưỡng của các hoa khôi thời trước của nhà Rushworth đã nhiều lần sửa chữa nhà thờ này? Các phu nhân Eleanor và Bridget cứng nhắc với bề ngoài mộ đạo, nhưng trong đầu đầy những thứ khác hẳn, nhất là khi viên giáo sĩ tội nghiệp không đáng để mắt đến, và trong những ngày ấy, tôi hình dung các cha xứ rất thấp kém so với bây giờ.
Trong giây lát, cô không được ai trả lời. Fanny đỏ mặt và nhìn Edmund, nhưng cảm thấy giận vì bài diễn thuyết; cậu cần một chút hồi tưởng trước khi nói:
- Trí tuệ sinh động của cô khó mà nghiêm túc ngay cả trong các vấn đề tôn giáo. Cô đã phác cho chúng tôi một bức hoạ vui và không thể nói là không nhân bản. Hẳn tất cả chúng ta phải cảm thấy có nhiều lúc khó tập trung suy nghĩ như chúng ta mong muốn; nhưng nếu cô cho đây là việc thường xuyên, có thể nói, sự non nớt đã thành một thói quen vì bị bỏ lơ, và có thể mong đợi gì ở những lời cầu nguyện riêng tư của những con người đó? Cô cho rằng những suy nghĩ đó có thể dung thứ, chúng tha hồ lang thang trong một nhà thờ rồi tập họp trong phòng kín ư?
- Vâng, rất có thể. ít nhất họ cũng có hai khả năng vì lợi ích của họ. Sẽ đỡ nhãng trí vì bên ngoài, và sẽ không phải cố gắng lâu.
- Tôi tin là một đầu óc không tự đấu tranh với bản thân trong một hoàn cảnh nào đó, sẽ thấy nhiều thứ để nhãng trí trong hoàn cảnh khác. Tác động của địa điểm và của tiền lệ thường dễ khuấy động những tình cảm tốt đẹp hơn cả lúc bắt đầu. Tuy vậy, tôi tin rằng buổi lễ càng kéo dài, thỉnh thoảng rất khó để tập trung tư tưởng. Người ta mong nó không như thế, nhưng tôi đã rời Oxford đủ lâu nên quên mất những lễ cầu nguyện ở nhà thờ ra sao rồi.
Trong lúc câu chuyện này trôi qua, những người khác trong nhóm rải rác khắp nhà thờ, Julia muốn biết sự chú ý của cậu Crawford với chị gái, bèn nói:
- Nhìn cậu Rushworth và Maria kìa, họ đang đứng sát bên nhau, y như cuộc hôn lễ đã xong. Họ chẳng hoàn toàn có bộ điệu của cuộc hôn lễ đó sao?
Cậu Crawford cười sự mặc nhận của mình và tiến thẳng tới chỗ Maria, cậu khẽ nói chỉ để mình cô nghe thấy:
- Tôi không thích nhìn thấy tiểu thư Bertram ở gần ban thờ như thế đâu.
Giật mình, theo bản năng cô dịch ra một, hai bước, nhưng trong giây lát trấn tĩnh lại, cô giả vờ cười và hỏi cậu, tiếng không to hơn:
- Nếu anh ta nhường cô ấy?
- Tôi e rằng tôi sẽ rất lúng túng, - cậu trả lời với vẻ đầy ý nghĩa.
Julia nhập bọn với họ và trêu:
- Xin lấy danh dự mà thề, thật tiếc là nó không diễn ra ngay lập tức, giá chúng ta có giấy đăng ký chính hiệu, vì tất cả đã tụ tập ở đây rồi và chẳng có nơi nào trên đời ấm cúng và dễ chịu hơn. - Nói xong cô cười vang về việc hơi bất cẩn, khi bắt được nhận thức của cậu Rushworth và mẹ cậu, và phơi bày chị cô cùng những tiếng thì thầm tán tỉnh của người tình, trong khi cứ mỗi lần bà Rushworth nói đến việc cử hành chuyện vui nhất với bà, cô đều nở nụ cười với thái độ đàng hoàng rất phải phép.
- Giá anh Edmund đã thụ phong rồi nhỉ! - Julia kêu to và chạy tới chỗ cậu đang đứng cùng cô Crawford và Fanny, - Edmund thân mến, giá bây giờ anh được phong chức, anh có thể trực tiếp cử hành hôn lễ. Thật chẳng may, anh chưa được thụ phong, còn cậu Rushworth và Maria đã sẵn sàng rồi.
Một người quan sát vô tư sẽ rất khoái chí khi thấy vẻ mặt của cô Crawford lúc Julia nói. Trông cô gần như kinh hoàng vì ý nghĩ mới mẻ cô vừa nhận được. Fanny thấy thương cho cô. “Cô ấy sẽ đau khổ biết chừng nào vì lời vừa nói ra”, ý nghĩ ấy lướt qua đầu cô.
- Phong chức ư! - Cô Crawford nói, - kìa, vậy anh sắp là mục sư?
- Đúng thế, tôi sẽ nhận chức ngay sau khi cha tôi trở về, chắc là vào dịp Giáng sinh.
Cô Crawford trấn tĩnh, nước da cô hồng lại và chỉ đáp:
- Nếu tôi biết trước, tôi sẽ nói đến chiếc áo thày tu kính trọng hơn, - rồi cô chuyển chủ đề.
Ngay sau đấy, ngôi nhà thờ chìm trong yên lặng và sự tĩnh mịch bao trùm nó quanh năm, chỉ hãn hữu lắm mới bị gián đoạn. Tiểu thư Bertram bực cô em gái, bèn dẫn đường và tất cả dường như cảm thấy họ ở đấy thế là đủ.
Lúc này họ đã xem hết phần thấp hơn của tòa nhà, và bà Rushworth, chưa bao giờ chán việc này, bắt đầu tiến đến cầu thang chính, định đưa họ qua khắp các căn phòng bên trên nếu cậu con trai không can thiệp, e rằng không đủ thời gian.
- Nếu như, - cậu nói, phần nào khẳng định hiển nhiên mà nhiều người sáng suốt hơn không hẳn lúc nào cũng tránh được, - chúng ta thăm ngôi nhà quá lâu, chúng ta sẽ không có thời gian thăm phong cảnh bên ngoài. Bây giờ đã quá hai giờ, và chúng ta sẽ ăn cơm lúc năm giờ.
Bà Rushworth nghe theo, việc thăm nom đất đai vườn tược với ai và như thế nào được xôn xao bàn tán, bà Norris bắt đầu thu xếp cho các xe ngựa, còn đám thanh niên hào hứng được ra khỏi cửa, xúi nhau mở cánh cửa ra các bậc dẫn thẳng xuống khu đất đầy cây bụi và mọi thứ hấp dẫn của khu vườn, người bốc đồng, người thèm không khí và tự do, tất cả ùa ra ngoài.
- Có lẽ bây giờ chúng ta rời nơi này, - bà Rushworth nhã nhặn tiếp nhận lời gợi ý và đi theo họ. - Có những cây cối đẹp nhất của chúng tôi, và có nhiều con gà lôi kỳ dị.
- Xin hỏi, - cậu Crawford vừa nói vừa nhìn quanh, - liệu chúng tôi có thể tìm được gì ở đây, trước khi đi xa hơn không? Tôi nhìn thấy sự hạn chế của một lời hứa hẹn vĩ đại. Cậu Rushworth, chúng ta sẽ triệu tập cả nhóm trên bãi cỏ này chứ?
- James, - bà Rushworth nói với con trai, - mẹ tin sự hoang vu sẽ là điều mới mẻ cho cả nhóm. Các tiểu thư Bertram vẫn chưa bao giờ nhìn thấy một nơi hoang dã.
Không có lý do phản đối, nhưng một lúc sau hình như vẫn chưa ai động đậy hoặc đi xa. Tất cả bị cây cỏ và lũ gà lôi thu hút ngay từ đầu, và vui vẻ tản ra. Cậu Crawford là người đầu tiên tiến tới, kiểm tra mọi thứ ở đầu kia ngôi nhà. Bãi cỏ được một bức tường cao bao quanh, chứa khu vực quan trọng nhất, một bãi chơi bóng gỗ, xa hơn là một sân hiên dài để dạo chơi, các chấn song sắt rào phía sau, bao quát quang cảnh trên đầu họ ở các ngọn cây của vùng hoang vu kế bên. Đây là một chỗ tốt để chê bai. Cậu Crawford có tiểu thư Bertram và cậu Rushworth theo sau, và lát sau những người khác bắt đầu hình thành các nhóm nhỏ. Ba người này thấy cuộc bàn bạc sôi nổi trên thềm của Edmund, cô Crawford và Fanny, hình như cô hòa vào họ rất tự nhiên, và sau một lúc ngắn ngủi tham dự vào những tiếc nuối và trở ngại của họ, cô rời họ và đi dạo tiếp. Ba người còn lại là bà Rushworth, bà Norris và Julia vẫn ở mãi phía sau. Với Julia, ngôi sao may mắn của cô sáng không lâu, cô đành sát vai với bà Rushworth và cố kiềm chế bước chân nôn nóng vì bước đi chậm rãi của bà ta, trong lúc dì cô tình cờ gặp bà quản gia ra ngoài cho lũ gà lôi ăn, bèn nấn ná lại đằng sau trò chuyện với bà ta. Tội nghiệp Julia, người duy nhất trong chín người khá bất mãn với cả nhóm, lúc này đang trong tình trạng tự' hành xác, khác hẳn với cô Julia hớn hở trên ghế xà ích. Được nuôi dạy phải giữ lễ độ như một bổn phận, khiến cô không thể bỏ chạy. Trong lúc mong tự chủ nhiều hơn, cô thầm xem xét những người khác để nhận thức rằng nguồn gốc của sự đúng đắn không tạo thành phần cốt yếu cho nền giáo dục của cô, mà chỉ làm cô khổ sở.
- Hôm nay nóng không thể chịu nổi, - cô Crawford nói lúc họ đến một chỗ rẽ vào sân hiên, và lần thứ hai kéo cánh cửa ở giữa, mở vào vùng hoang dã. -Có ai trong chúng ta ghét sự thoải mái đâu? Nơi đây là một khu rừng nhỏ xinh đẹp, nếu có người vào được trong đó. Giá cánh cửa này không khoá thì thích biết bao! Nhưng lẽ tất nhiên là ở những nơi rộng như thế này, phải khoá chặt rồi, người làm vườn là những người duy nhất có thể muốn đến đâu tuỳ ý.
Song le, cánh cửa lại không khoá, và cả bọn vui sướng chui qua, để ánh sáng ban ngày chói chang lại đằng sau. Nhiều bậc lớn dẫn họ vào chốn hoang vu, một nơi rộng chừng hai mẫu tây trồng cây gỗ, chủ yếu là thông và nguyệt quế, nhiều cây sồi đã đẵn, và tuy bố trí quá đều đặn, cảnh tối tăm và bóng cây cùng vẻ đẹp tự nhiên ngang ngửa với bãi chơi bóng gỗ và sân hiên. Mọi người cảm thấy khoẻ hẳn ra và trong một lúc chỉ bước đi và thán phục. Cuối cùng, sau một lúc ngừng ngắn, cô Crawford bắt đầu:
- Vậy là anh sẽ làm mục sư ư, anh Bertram? Tôi thực sự ngạc nhiên đấy.
- Sao cô lại ngạc nhiên? Chắc cô cho rằng tôi dành cho một nghề nào đấy, và đoán rằng tôi không là luật sư, quân nhân, cũng không là thuỷ thủ.
- Rất đúng, nhưng tóm lại, tôi chẳng đoán định gì hết. Anh biết đấy, nói chung một người bác hoặc người ông thường hay để lại tài sản cho người con trai thứ.
- Một thói quen đáng ca ngợi, - Edmund nói, - nhưng không phải ai cũng thế. Tôi là một ngoại lệ, là người phải tự lo liệu cho mình.
- Nhưng sao anh lại làm mục sư? Tôi nghĩ rằng luôn có những người trẻ nhất, trước mặt có nhiều lựa chọn.
- Thế cô tưởng nhà thờ không bao giờ được chọn sao?
- Không bao giờ là một từ ảm đạm. Nhưng không bao giờ trong cuộc trò chuyện còn có nghĩa là không thường xuyên, tôi cho là thế. Nhưng vì sao lại làm việc trong nhà thờ kia chứ? Nam giới thích nổi bật trong nhiều lĩnh vực, có thể rất khó khăn mới đạt được, nhưng không phải trong nhà thờ. Mục sư là người tầm thường.
- Sự tầm thường trong câu chuyện có nhiều cấp độ của nó, cũng như không bao giờ vậy. Mục sư không thể kiêu căng trong lời nói hoặc ăn mặc. Người đó phải tập hợp được quần chúng, hoặc tạo ra không khí bằng y phục. Nhưng tôi không thể gọi việc đó là tầm thường, vì mục sư có trách nhiệm trong mọi việc quan trọng nhất của con người, xét về mặt cá nhân hoặc tập thể, tạm thời hay vĩnh viễn, là người có trách nhiệm bảo vệ tín ngưỡng và đạo đức, vì vậy cung cách phải mang lại ảnh hưởng. Không ai ở đây có thể gọi vị trí ấy là tầm thường. Nếu con người ở địa vị ấy lơ là bổn phận đầy ý nghĩa như đãO nói ở trên và lạc bước khỏi chỗ thì không nên xuất hiện.
- Anh đang phóng đại tầm quan trọng của mục sư hơn thường ngày tôi từng nghe, hoặc hơn mức độ tôi nhận thức. Con người không nhìn thấy ảnh hưởng và ý nghĩa nhiều trong xã hội, làm sao có thể đòi hỏi họ thỉnh thoảng nhìn nhận mình đang ở đâu? Làm sao có thể thuyết giảng mỗi tuần hai lần dù cứ cho là toàn những bài đáng nghe, cứ cho là người thuyết giáo có khả năng hơn cả Blair[14], làm mọi việc như anh nói, chi phối cả đạo đức lẫn tập tục của một giáo đoàn lớn trong phần còn lại của tuần? Người ta chỉ mường tượng một mục sư qua việc giảng đạo của ông ta mà thôi.
- Cô đang nói về London, còn tôi nói đến cả nước nói chung.
- Tôi hình dung thủ đô là một ví dụ khá hợp lý cho các nơi khác.
- Không, tôi trông mong vào sự cân đối giữa đạo đức với sự đồi bại khắp vương quốc này. Chúng ta không nên nhìn vào các thành phố lớn làm đại diện cho đạo đức tốt nhất. Không chỉ ở đấy, vì những con người đáng kính thuộc bất cứ loại nào cũng có thể làm những việc tốt nhất, và chắc chắn không chỉ ở đấy, các mục sư mới có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Một nhà thuyết giáo giỏi sẽ được nhiều người nghe theo và ngưỡng mộ, nhưng bài thuyết giảng hay chỉ cho thấy vị mục sư đó có ích trong giáo xứ của ông ta và trong vùng lân cận, noi giáo xứ và cả vùng nằm trong tầm hiểu biết tính cách riêng của ông ta, quan sát được phẩm hạnh của ông ta, mà ở London hiếm khi có trường hợp như thế lắm. Giới tăng lữ chìm trong đám đông giáo dân. Họ được đông đảo người dân biết đến chỉ vì là nhà thuyết giáo. Còn ảnh hưởng cung cách của họ đến quần chúng thì, cô Crawford ắt là hiểu lầm tôi, hoặc cho là tôi định gọi họ là những người toàn quyền về phép lịch sự, là người điều chỉnh sự tao nhã và tinh tế, là người thành thạo các nghi thức sinh hoạt. Những cung cách mà tôi nói đến, có lẽ nên gọi là hạnh kiểm thì đúng hơn, là kết quả của những phép tắc tốt đẹp. Tóm lại, ảnh hưởng của các học thuyết đó là bổn phận truyền dạy và khuyên bảo của họ; và tôi tin rằng nó có ở khắp mọi nơi, ở khắp phần còn lại của đất nước dù có giới tăng lữ hoặc không.
- Nhất định rồi, - Fanny nói, sốt sắng và nhẹ nhàng.
- Xem kìa, - cô Crawford kêu to, - anh đã hoàn toàn thuyết phục được cô Price rồi đó.
- Ước gì tôi cũng có thể thuyết phục cô Crawford.
- Tôi không nghĩ anh muốn thế, - cô ta nói với nụ cười tinh quái, - lúc ban đầu tôi chỉ rất ngạc nhiên biết anh có ý định nhậm chức. Thực ra anh họp với việc tốt hơn thế. Anh thay đổi ý định đi. vẫn chưa quá muộn mà. Hãy đi vào ngành luật.
-Vào ngành luật! Nghe dễ như lúc tôi nói đi vào vùng hoang vu vậy.
- Giờ anh lại sắp nói về luật như một thứ mờ nhạt, không thích hợp nhất của cả hai, nhưng tôi chặn trước anh, hãy nhớ rằng tôi đã chặn trước rồi đấy nhé.
- Xin cô đừng vội vàng phản đối, ngăn cản tôi nói ra một lời hóm hỉnh, vì hóm hỉnh là ít nhất trong bản tính của tôi. Tôi là người rất thực tế, nói năng mộc mạc và có khi dò dẫm ở ranh giới một cuộc đối đáp đến nửa giờ mà vẫn chưa bật được ra lời.
Tiếp theo là im lặng hoàn toàn. Ai cũng trầm ngâm. Fanny là người đầu tiên phá vỡ:
- Tôi nghĩ có lẽ tôi mệt vì cứ đi mãi trong khu rừng xinh đẹp này; Đến cái ghế tiếp theo, nếu các vị không khó chịu, tôi sẽ rất mừng được ngồi nghỉ một lát.
- Fanny thân mến, - Edmund kêu lên, ngay lập tức kéo cánh tay cô vào trong tay cậu, - anh thật vô tâm! Anh mong là em không quá mệt. Có lẽ, - cậu quay sang cô Crawford, - người đồng hành kia của tôi sẽ ban cho tôi vinh dự được khoác tay cô.
- Cảm ơn anh, nhung tôi không mệt tí nào. - Tuy nói thế, song cô vẫn khoác tay cậu; Hài lòng vì cô làm thế, và lần đầu tiên cảm thấy sự tiếp xúc ấy khiến cậu hơi nhãng Fanny. - Cô hầu như không chạm vào tôi, - cậu nói. - Cô làm tôi thấy mình chẳng có ích tí nào. Sức nặng của cánh tay phụ nữ khác hẳn với của đàn ông chứ! Ở Oxíòrd, tôi rất quen với việc một người bạn nam dựa vào tôi suốt dọc phố, và nếu so sánh cô chỉ nhẹ như một con ruồi.
- Tôi không mệt thật mà, chính tôi cũng lấy làm lạ, vì ít nhất chúng ta cũng đi bộ khoảng một dặm trong rừng rồi. Anh nghĩ sao?
- Chưa đến nửa dặm, - câu trả lời của cậu thật kiên quyết; vì cậu vốn không ưa cách đo khoảng cách hoặc tính thời gian theo kiểu yểu điệu thục nữ.
- ô! Anh không tính chúng ta rẽ ngoặt biết bao nhiêu lần. Chúng ta đi theo con đường rất quanh co, còn khu rừng chắc chỉ dài nửa dặm theo đường thẳng, vì từ lúc rời con đường lớn, chúng ta vẫn chưa nhìn thấy đầu kia.
- Nhưng nếu cô nhớ, trước khi rời con đường lớn đó, chúng ta đã nhìn thẳng vào đầu kia rồi. Chúng ta đã nhìn toàn bộ khung cảnh và thấy khu rừng khép lại bằng nhiều cổng sắt, nó không thể dài hơn một Mông[15].
- Chao ôi! Tôi chẳng biết gì về những Mông của anh, nhưng tôi tin chắc cánh rừng rất dài; chúng ta đã lượn quanh co hết vào lại ra từ lúc vào rừng, vì thế lúc nói chúng ta đã đi chừng một dặm là tôi nói theo hiểu biết của mình thôi.
- Chính xác thì chúng ta mới vào đây có mười lăm phút, - Edmund nói và chìa đồng hồ ra. - Cô cho là chúng ta đi bộ bốn dặm một giờ ư?
- Thôi thôi! Xin đừng công kích tôi bằng cái đồng hồ của anh. Đồng hồ lúc nào chẳng quá nhanh hoặc quá chậm. Tôi không thể để đồng hồ sai khiến.
Thêm vài bước, đã hết cuộc dạo chơi họ đang nói tới; Họ đứng lại, ẩn dưới bóng cây râm mát và nhìn qua hàng rào thấp vào trang viên, là một cái ghế dài kích thước thoải mái cho cả ba ngồi xuống.
- Anh e rằng em quá mệt, Fanny, - Edmund nói lúc quan sát cô, - sao em không nói sớm hơn? Nếu em kiệt sức, sẽ là một ngày giải trí tồi tệ cho em. Mọi tập luyện đều làm cô ấy chóng mệt, ngoài việc cưỡi ngựa, cô Crawford ạ.
- Anh tệ quá, để mặc tôi mê mẩn con ngựa của cô ấy suốt cả tuần qua! Tôi thật xấu hổ vì anh và bản thân mình, nhưng việc đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa.
- Thái độ ân cần và quan tâm của cô khiến tôi càng nhận ra sự sao nhãng của tôi. Dường như cô lưu tâm đến lợi ích của Fanny hơn tôi.
- Song tôi không lạ khi cô ấy mệt mỏi lúc này; vì chẳng nhiệm vụ gì buồn chán hơn những việc chúng ta làm sáng nay: chiêm ngưỡng một tòa nhà đồ sộ, lang thang từ phòng này sang phòng khác, căng mắt vểnh tai nghe những điều chẳng ai hiểu, thán phục những thứ chẳng ai quan tâm. Tóm lại, đấy là công việc nhàm tẻ nhất trên đời, và cô Price đã nhận thấy thế, tuy cô ấy không biết như vậy.
- Tôi sẽ nghỉ ngơi chút ít, - Fanny nói, - ngồi dưới bóng mát trong một ngày đẹp trời và ngắm nhìn cây cỏ xanh tươi là sự tĩnh dưỡng hoàn hảo nhất.
Ngồi được một lát, cô Crawford lại đứng dậy:
- Tôi phải đi thôi, - cô nói, - nghỉ ngơi làm tôi đâm mệt. Tôi đã phải nhìn qua cái hàng rào thấp đến kiệt sức. Tôi phải đi qua cái cổng sắt kia và ngắm cảnh, nếu không thì không thể nhìn cho rõ được.
Edmund cũng rời ghế:
- Cô Crawford, nếu cô nhất quyết tìm con đường đi dạo, cô sẽ thấy rằng nó không thể dài nửa dặm hoặc một phần tư dặm.
- Đây là một quãng dài, - cô nói, - Thoáng nhìn tôi đã thấy thế.
Cậu vẫn tranh luận với cô, nhưng vô hiệu. Cô không muốn tính toán, cũng không muốn so sánh. Cô chỉ mỉm cười và quyết đoán. Sự khăng khăng của cô vô cùng lôi cuốn, và họ thích thú đối đáp với nhau. Cuối cùng, họ thỏa thuận sẽ cố gắng xác định kích thước khu rừng bằng cách đi dạo thêm một chút nữa. Họ sẽ đến tận đầu kia của khu rừng, theo con đường họ đã vào (là một con đường tản bộ xanh tươi, thẳng tắp ven hàng rào thấp), và có khi rẽ vào một đường mòn theo hướng khác, có lẽ sẽ giúp được họ, và sẽ trở lại trong vài phút. Fanny nói cô đã nghỉ ngơi và lẽ ra cũng nên đi, nhưng không thể đi nổi. Edmund giục cô ngồi nghỉ tại chỗ, sốt sắng đến mức cô không thể cưỡng lại và cô ngồi lại trên ghế, vui sướng nghĩ đến sự chu đáo của người anh họ, nhưng cũng rất tiếc mình không khoẻ hơn. Cô nhìn theo cho đến lúc họ rẽ ở chỗ ngoặt và lắng nghe cho đến khi các âm thanh của họ lặng hẳn.
[9] Loại xe ngựa nhẹ, hai bánh, thường đóng hai ngựa sóng đôi. - ND.
[10] Loại xe ngựa kín mui, từ hai đến bốn chỗ ngồi, xà ích ngồi trên lưng một trong những con ngựa kéo. - ND.
[11] Luật thuế ban hành năm 1695 và bãi bỏ năm 1851, đánh thuế nhà theo số lượng cửa sổ. - ND.
[12] Vì nhà thờ này sửa sang thời James II, nên kiểu này là lỗi thời. Ở nước Anh, đến thế kỷ 19 không còn dùng gồ gụ làm đồ nội thất nữa. - ND.
[13] Trích trong Bài ca của người hát rong cuối cùng (1805) của Walter Scott. - ND.
[14] Hugh Blair (1718 - 1800) là một học giả và là nhà thuyết giảng Scotland, đã có năm tập bài thuyết giáo được xuất bản nhiều lần vào cuối thế kỷ 18. - ND.
[15] Fulông: Đơn vị chiều dài bằng một phần tám dặm Anh, khoảng 201 m. - ND.