← Quay lại trang sách

Chương 4

TIẾNG tù và của ông Năm Súng túc lên từng hồi, dưới bến đò, kêu gọi hành khách từ các xóm xa lên chợ tỉnh, đã đánh thức Hà Anh. Trời đã hừng đông, bóng đêm tan dần, ánh sáng bắt đầu hiện lên qua các chấn song.

Hà Anh ngồi dậy, bước xuống giường. Nàng sửa các em nằm cho ngay ngắn, kéo mền đắp cho chứng rồi ra nhà ngoài, chóng liếp cửa. Xóm chợ nhộn nhịp vì dân ở các xóm đã tụ tập mua bán. Những con đò dọc đưa họ từ những ấp hẻo lánh về đây. Những hình ảnh ấy rất quen thuộc với Hà Anh, từ hơn một năm rồi, nhưng sáng nay, nàng lại thấy vui thích lạ.

Bầu trời sáng hẳn lên, không khí mát rượi. Tiếng chim khách gọi nhau trên hàng cây trứng cá, ngoài bờ sông, làm cho Hà Anh chú ý và nhớ lại buổi chiều hôm qua, mình đã ngồi bên Thọ. Tự dưng, Hà Anh quay nhìn sang nhà người con trai dễ mến đó. Cửa sổ phòng chàng vẫn còn đóng kín. Hà Anh mỉm cười một mình rồi ngước nhìn bầu trời xanh quang đãng. Nàng muốn hát lên, những bài ca quen thuộc như ngày xưa, mỗi sáng đến học đường.

Từ lâu, Hà Anh ít sống cho riêng mình. Bừng mắt dậy là nàng phải lo buôn bán, chăm sóc việc nhà cho đến tối. Tâm hồn nàng chất chứa nhiều buồn thương về gia đình, về cuộc sống. Tuổi thanh xuân của nàng qua mau và Hà Anh cảm thấy quanh mình toàn là u tối. Nhưng buổi sáng hôm nay, trời xanh tươi đẹp, tiếng chim ca rộn rã như thúc giục, khuyến khích nàng vui ca hát, xua tan những nỗi buồn thường chất chứa trong lòng. Cảnh vật như mời gọi nàng hãy trở lại yêu đời.

Hà Anh thấy như mùa xuân về trên nền trời xanh, trên cỏ cây hoa lá. Tự dưng nàng muốn được đứng giữa cảnh trời rộng bao la, cho tâm hồn khoáng đạt. Nàng nhớ đến những ao rau muống ngoài cánh đồng với những đọt non tươi tốt.

Hà Anh ra nhà sau lấy cái rá nhỏ rồi đi về phía ruộng.

Bờ đất nhỏ dẫn ra cánh đồng xa, sương mù hãy còn vương trên lớp cỏ. Chân Hà Anh xóa tan những hạt sương lóng lánh, lõm xuống thành hình. Nàng bước đi trong không khí mát lạnh buổi bình mình, lòng rạng rỡ như ánh sáng chân trời đông. Hai bên bờ, nhiều đóa hoa dại mọc vươn lên cao, khoe màu sắc lạ và rung rinh trong gió sớm nhẹ nhàng. Những đám mạ còn non, màu xanh vàng rực rỡ, trong ánh nắng, làm tươi sáng một vùng rộng. Đâu đó dưới khe đất nứt, tiếng dế gáy muộn vang lên thanh tao và nó im đi khi có tiếng chân của Hà Anh. Chim hót chào ngày trên những cành cây cao, gieo sự vui vẻ linh động buổi sáng.

Hà Anh bước nhanh hơn, lòng nàng phơi phới như cảnh tươi sáng ngoài đồng rộng. Trong hồn nàng khúc nhạc êm dịu như trổi lên và nàng tưởng chừng mình đang nhảy múa tưng bừng trong điệu nhạc đó. Sự vui sướng lạ lùng tràn ngập trong tim nàng, gây cho nàng niềm hân hoan khó tả. Nàng yêu mọi vật quanh mình và muốn được như chim bay lượn trong bầu không khí đó. Nàng mang tâm trạng khác thường vì thoáng nhận được ở mình sự sống mới mẻ đang bừng dậy. Nàng không còn cô độc trong tình cảm và không còn muốn sống trong u tối.

Từ chiều hôm qua, nàng đã thấy sự khác lạ đó đến với mình và đêm rồi nàng lại náo nức lạ lùng. Trong mọi sự êm dịu tự nhiên hiện đến với nàng đều có hình ảnh Thọ, chàng thanh niên có gương mặt dễ mến và tư cách đáng yêu.

Hà Anh chợt đứng dừng lại. Từ xa ba bốn người đang đi tới, vai mang súng. Đúng là mấy người lính trong đồn Tây! Họ cũng vừa nhìn thấy Hà Anh nên bước mau hơn. Hà Anh lo sợ vô cùng. Thường ngày, nàng vẫn gặp họ lui tới trong xóm chợ, nhiều khi cũng có ghé quán của nàng uống nước nhưng chưa lần nào nàng gặp họ giữa đồng không như vầy...

Nàng muốn trở lui, nhưng nhìn lại xóm nhà đã xa quá rồi. Trống ngực đánh thình thình, nàng nghĩ đến chuyện không may sẽ xảy tới cho mình. Mấy người lính thân binh đã đến gần Hà Anh và người đi đầu vọt cất tiếng:

— Cô Hà Anh! Đi đâu sớm vậy?

Hà Anh ngó thấy thầy Năm thông ngôn thì vững lòng hơn. Người nầy đã tới nhà nàng mấy lần và xem chừng rất lễ phép đối với cha nàng.

Thiếu nữ nghiêm nghị đáp:

— Dạ... Tôi đi hái rau muống.

Thầy Năm thông ngôn cười với nàng rồi nói:

— Trời lạnh lắm! Cô dám lội xuống nước sao?

Mấy người lính đi theo viên thông ngôn cười hềnh hệch. Hà Anh lúng túng đáp:

— Dạ… dám chớ. Tôi quen rồi.

Viên thông ngôn đến sát bên nàng nói:

— Thôi cô khỏi mắc công! Để tôi biểu họ hái giùm cho.

Rồi Năm Quýnh quay sang mấy người lính thân binh nói:

— Hái đọt rau muống giùm cô đây lát về tôi cho thuốc.

Mấy người thân binh liền theo lệnh viên thông ngôn, nhảy xuống mương hái đọt rau. Hà Anh muốn chận họ lại, nhưng không biết làm sao? Nàng bẽn lẽn cúi mặt khi thấy mấy người thân binh cứ nhìn mình mỉm cười, như có ẩn ý gì?

Năm Quýnh chợt bảo Hà Anh:

— Hái một hồi, cô ôm về không hết đâu!

Hà Anh ấp úng:

— Làm mất công ‘‘mấy ông’’ đó quá! Thầy Năm...

Năm Quýnh chận lời nàng:

— Cô thiệt kỳ. Mấy tháng nay, tôi tới chơi nhà, mà cô cứ kêu bằng thầy hoài. Thiệt tôi buồn hết sức! ‘‘ Thầy bà’’ gì? Chỗ anh em...

Hà Anh nhận thấy Năm Quýnh cố tình làm thân với mình, nên mỉm cười nói:

— Dạ hổng dám rồi! Thầy Năm là người chức phận. Dưới xếp đồn là tới thầy, tôi phải giữ lễ phép chớ. Gia đình tôi về Cái Muối nầy ở được là nhờ ơn thầy.

Năm Quýnh rất sung sướng trước những lời tâng bốc của Hà Anh, nhưng vẫn làm bộ như không màng:

— Có gì đâu! Được giúp đỡ cô là tôi mừng rồi.

Năm Quýnh ghé sát tai Hà Anh để nói những lời đó. Thiếu nữ giữ ý, lùi lại một bước, nhưng bờ đê đất sụp, nàng chới với muốn lọt xuống mương. Viên thông ngôn gặp dịp, chụp lấy tay nàng kéo lại. Hà Anh ngã nhào vào mình anh ta, cái rá rớt xuống vũng bùn. Mấy tên thân binh cười rộ lên. Hà Anh xấu hổ gượng dậy, nhưng Năm Quýnh vẫn ôm chặt lấy nàng, nói liên miên:

— Có sao không, Hà Anh?

Thiếu nữ vùng mạnh thoát khỏi hai cánh tay cứng rắn của hắn. Nàng vừa mắc cở vừa giận. Bây giờ thì Hà Anh đã đoán hiểu phần nào hậu ý không tốt của viên thông ngôn.

Năm Quýnh lại bước tới gần nàng, toan nắm tay, nhưng Hà Anh phản đối ngay:

— Thầy Năm... Đừng...

Năm Quýnh nhìn thấy đôi mắt long lên có vẻ dữ tợn hơn bao giờ hết thì không còn dám suồng sã nữa. Mấy tên thân binh đã lên hết trên bờ đê và cứ nhìn nhau cười. Năm Quýnh hơi ngượng, quay sang mắng chúng:

— Mấy anh cười cái gì? Đừng giỡn với tôi nghen?

Bọn thân binh lặng trang, không dám hó hé nữa. Họ sợ Năm Quýnh vì anh ta rành tiếng Pháp và hãm hại họ rất dễ dàng. Hắn ghim ai thì sớm muộn gì cũng thót mét với Tây xếp đồn để tìm những cớ rất nhỏ trừng phạt họ.

Sáng nay, Năm Quýnh dẫn họ đi tuần ở trong ruộng bất ngờ gặp Hà Anh. Đã lâu, bọn thân binh đều biết viên thông ngôn si mê ‘‘con xẩm’’ ở ngoài bến chợ, nhưng chưa có dịp tỏ tình, nên khi Năm Quýnh biểu họ hái rau muống giúp Hà Anh, không một ai dám từ chối. Họ làm thế là để lấy lòng Năm Quýnh. Ấy vậy mà vẫn bị anh ta mắng. Bọn thân binh ức lòng lắm nhưng vẫn lặng thinh. Hà Anh đã lượm cái rá lên và chỉ còn muốn bỏ chạy vào nhà.

Năm Quýnh vụt bảo mấy người lính:

— Sao đứng như trời trồng vậy? Rau muống của cô ấy đâu?

Mấy người kia chợt nhớ ra, đem đọt rau muống hái được, bỏ vào rá cho Hà Anh. Thiếu nữ không biết nên từ chối hay nhận lấy?

Năm Quýnh ngó nàng rồi bảo mấy tên thân binh:

— Mấy anh vác súng về đồn! Tôi về sau...

Bọn kia hình như hiểu ý Năm Quýnh vội vã đi ngay. Hà Anh càng rung sợ hơn, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh.

Nàng bảo Năm Quýnh:

— Cám ơn thầy Năm! Thôi tôi cũng về đây.

Năm Quýnh cười mơn:

— Coi... Còn sớm mà! Mặt trời mới lên.

— Dạ, tôi còn phải dọn hàng, để bán nữa thầy.

Nói xong Hà Anh rảo bước. Năm Quýnh lẻo đẻo theo sau và bắt chuyện:

— Hà Anh giỏi quá! Một mình làm việc nuôi hết cả nhà.

Hà Anh lắc đầu gượng cười:

— Tại nghèo biết làm sao thầy! Chẳng lẽ để em út nó đói?

Năm Quýnh đi sát bên nàng, cất giọng thân mật:

— Nhiều đêm đi tuần thiệt khuya, thấy Hà Anh còn thức may vá quần áo cho các em rồi tính sổ sách, tôi cảm động quá hà! Cái cảnh của cô không khác gì tôi hồi cha mới chết. Phải lo cho một bầy em.

Hà Anh nhìn anh ta, bớt sợ hãi hơn. Nàng dễ xúc động trước người đồng cảnh ngộ. Năm Quýnh cũng hiểu là mình không nên hấp tấp trước cô gái Trung Hoa kia. Anh ta dò biết từ lâu Hà Anh thuộc vào gia đình khá giả, có học thức, nên không dám dở cái trò sàm sỡ như đối với các cô gái khác trong làng. Đi bên cạnh Hà Anh, mùi thơm da thịt của nàng như toát ra thoang thoảng, lòng Năm Quýnh rạo rực khác thường, nhưng anh ta vẫn cố dằn xuống. Mọi khi thì phải biết: Năm Quýnh sẽ dụ dỗ cô gái nào hắn thích đến chỗ vắng vẻ ôm đại người ta. Nhiều cô non dạ yếu lòng phải thất thân với hắn rồi ngậm miệng luôn cho đỡ xấu hổ. Đối với Hà Anh, Năm Quýnh chưa dám dở cái trò tồi bại đó! Mấy tháng nay, hắn lân la tới làm quen với ông Ban Phánh, khi thì hầu một ván cờ, lúc lại ngồi vấn thuốc rê hút, nói chuyện năm châu, bốn biển.

Tiếng Việt Nam của ông Ban không được là bao, nên cuộc đàm thoại giữa hai người hết sức khó khăn. Năm Quýnh nghe tiếng được tiếng mất nhưng cũng cố lắng tai nghe. Miễn sao được ở kề cận bên Hà Anh là hắn mãn nguyện rồi!

Và lần hồi, tuy không bao giờ nghe được trọn câu nói của Ban Phánh, nhưng Năm Quýnh cũng đoán hiểu được sự đam mê của ông ta trong lúc thiếu thời: thuốc phiện!

Đi gần tới mương vườn, Hà Anh vụt đứng lại bảo Năm Quýnh:

— Thầy Năm...đi trước đi.

Năm Quýnh ngạc nhiên ngó nàng:

— Sao vậy?

— Dạ...thầy Năm đi trước đi mà.

Năm Quýnh chợt hiểu là Hà Anh sợ dân làng nhìn thấy rồi đàm tiếu, nên cười nói:

— Tôi hiểu ý cô rồi! Không sao đâu? Chẳng ai dám nói gì đâu? Hà Anh cũng biết tôi nói với Xếp đồn một tiếng là nhà của họ tan hoang ngay.

Thiếu nữ nghiêm sắc mặt không đáp. Lời nói của Năm Quýnh đã tạo một khoản cách thật xa giữa nàng và hắn, Năm Quýnh không hiểu được những ý nghĩ trong đầu nàng, vụt nắm lấy tay Hà Anh kéo đi. Hà Anh vung tay ra, nói lớn:

— Thầy Năm... Làm gì vậy?

Năm Quýnh sững sờ không dè ‘‘con xẩm’’ nầy lại giữ ý tứ ghê đến thế. Mặt anh ta tái xanh rồi gượng cười:

— Cô... không ưa tôi thiệt sao? Cũng không hề gì? Trong làng nầy chưa có ai ghét tôi đâu.

Hắn nói xong bỏ đi một nước. Hà Anh đứng trông theo, trống ngực còn đập thình thình. Những lời sau cùng của Năm Quýnh, như có ý đe dọa. Nàng đứng trên bờ đê một lúc, chờ cho Năm Quýnh khuất mình trong xóm, mới cất bước theo sau.

Mặt trời đã lên cao, ánh nắng gay gắt. Một ngày oi bức bắt đầu. Mồ hôi rịnh dài trên vừng trán của Hà Anh. Tâm hồn nàng đang thảnh thơi bỗng xáo trộn vì những âu lo thường xuyên trong thời nhiễu loạn. Sáng nay, nàng đã thấy rõ tình ý của Năm Quýnh đối với mình. Xem chừng hắn muốn đi tới chớ không phải chỉ chọc ghẹo suông thôi đâu. Nàng nhớ lại sự có mặt gần như thường xuyên của Năm Quýnh trong nhà mình mà thêm lo... Cha nàng xem chừng ưa thích hắn ta lắm! Đêm qua, lúc ở ngoài Xóm Chùa trở về, ông còn bảo nàng với giọng vui vẻ:

— Thầy Năm thông ngôn tốt lắm! Tốt lắm...

Rồi ông lại lấy đàn ra sân khảy lăn tăn, một khúc cổ ca miền núi. Nghe tiếng đàn reo vui, nàng biết cha đang thỏa mãn một sự gì đó? Hà Anh càng thêm lo lắng, nhưng vẫn chưa hiểu Năm Quýnh đã làm gì mà cha cho là người tốt?.

Hà Anh đã vào đến xóm chợ. Nàng qua ngang nhà Thọ, gặp lúc chàng đang xách nước tưới trầu. Chàng xoay trần, mồ hôi nhễ nhại, thân thể rắn chắc cân đối. Hà Anh quay mặt nhìn đi nơi khác, tự nhiên đôi má đỏ bừng lên. Thọ không để ý thấy nàng nên cử tiếp tục làm việc. Dung từ nhà trong đi ra vọt kêu to lên:

— Chị Hà Anh! Đi đâu đó?

Thọ nghe tiếng em cũng quay lại. Hà Anh bẽn lẽn cúi đầu chào Thọ rồi bước lại bên rào, bảo Dung:

— Mình vừa ra ngoài đồng hái rau muống.

— Thích quá vậy! Sao không gọi người ta đi với. Chị xấu quá hà!

Hà Anh và Thọ cùng cười trước vẻ hồn nhiên của Dung. Hà Anh đáp.

— Mình đi sớm lắm! Lúc ấy hình như Dung còn ngủ. Cửa còn đóng kín...

Dung chận lời nàng:

— Cửa đóng thì gọi! Tại chị không muốn rủ người ta mà. Dung giận chị rồi đó.

Nàng làm ra vẻ phụng phịu khiến Hà Anh càng lúng túng, không biết nói sao? Thọ đâm ra tội nghiệp cô ta, nên đỡ lời bảo em:

— Dung lạ thật! Ngủ cho trưa rồi còn trách người ta.

Dung lườm anh nói:

— Ai ngủ trưa? Anh hay em? Người ta thức nấu nước cho má uống hồi trời chưa sáng. Thấy anh còn ngủ nên tội nghiệp không mở cửa đó.

Thọ lắc đầu ngó Hà Anh như ngầm bảo nàng: Con bé nầy ngụy biện ghê lắm! Đến tôi cũng chịu thua nó!

Hà Anh cười, liếc mắt nhìn Dung nói:

— Thôi mình xin lỗi Dung! Hôm khác đi tôi sẽ gọi...

Nàng vụt im bặt, khi thấy Năm Quýnh đứng ở chỗ tiệm hớt tóc nhìn qua như dò xét. Thọ chú ý thấy gã đàn ông đó từ lúc Hà Anh mới dừng lại trước cổng nhà mình, nhưng chưa tiện hỏi Dung.

Cái nhìn xách mé của anh ta làm chàng khó chịu. Hà Anh chợt bảo Dung:

— Mình về nấu cơm! Xin phép anh...

Nàng cúi chào Thọ. Thọ và Dung cùng cười gật đầu. Hà Anh vừa đi khuất vào nhà, Dung ngó sang tiệm hớt tóc, rồi hỏi nhỏ:

— Anh có biết ai đó chăng?

Thọ cúi xuống múc nước, hỏi lại em:

— Ai? Anh thấy hắn nhìn vào nhà mình từ nãy giờ lận. Đang định hỏi em.

Dung quay mặt vào trong nhà cho tên kia không để ý, rồi đáp:

— Năm Quýnh đó! Hắn làm thông ngôn trong đồn. Dữ lắm giết người như chơi.

Thọ liếc mắt nhìn qua bên kia đường, thấy tên nọ vẫn chăm chú ngó mình thì nói nhỏ:

— Thông ngôn thì quyền hành gì mà giết người?

Dung nói nhanh:

— Ở chỗ hẻo lánh, như làng mình dễ lắm anh ơi! Cứ phao đại là Việt Minh thì Tây khỏi cần xét xử. Bắn bao nhiêu cũng không ở tù.

— Ghê thế kia à?

— Năm Quýnh nầy tàn ác mà dê nữa! Bọn Tây trong đồn rất tin cẩn y. Em mà không nói được tiếng Pháp thì cũng chết với nó mấy mươi đời vương!

Thọ lại ngó sang tiệm hớt tóc, Dung gắt anh:

— Thôi! Đừng dòm nó Năm Quýnh ưa gây sự lắm. Nhờ bác Hội Đồng dặn dò Tây xếp đồn, nhà mình bà con với bác không thì cũng có chuyện lôi thôi với nó rồi.

Máu thanh niên trong người Thọ như bừng sôi lên trước câu chuyện em vừa nói. Một tên thông ngôn mà cũng làm hung thần được thì lạ thật? Thọ bảo em:

— Khôn hồn thì hắn đừng chạm tới anh!

Dung lo sợ nói:

— Đừng anh! Có gì cũng phải nhịn nhục hắn. Em dặn trước đó. Năm Quýnh ác lắm, không công khai hại được mình, hắn sẽ thầm lén.

— Mình có tội gì phải sợ!

— Không có tội, nó cũng lén bắn chết được như thường. Nhiều người đã chết về tay hắn đó...

Thọ bực tức nói:

— Chẳng ai đi tố cáo sao?

Dung thở ra lắc đầu:

— Ai dám làm chuyện đó! Đợi ở tỉnh xét tới thì nó sẽ giết cả nhà. Em nói ở dưới nầy ghê lắm. Anh đừng tưởng như ở Sài gòn mà lầm không có luật pháp gì cả!

Thọ lắc đầu nói:

— Anh hoàn toàn không dè có chuyện đó!

Bên chỗ tiệm hớt tóc, tên thông ngôn đã bỏ đi từ lúc nào. Thọ vừa ngó lên thì thấy Năm Súng, Ông lão chèo đò, đang đi qua, vẻ mặt không được tự nhiên.

Thọ gọi to lên:

— Chú Năm! Bữa nay không đi Cái Bè sao?

Năm Súng tự tiện xô cổng nhà chàng, rồi bước vô nói:

— Hôm nay nghĩ một bữa. Nầy cậu Ba...

Nhưng chợt thấy Dung ông ta lặng thinh.

Thọ hỏi ngay:

— Gì vậy chú Năm?

Năm Súng liếc nhìn Dung rồi nói:

— Cậu có mích lòng gì với thầy Năm thông ngôn không?

Thọ ngơ ngác, lắc đầu:

— Không! Tôi có quen biết anh ta đâu mà mích lòng?

Năm Súng nhìn ngược, nhìn xuôi như sợ có ai rình rập rồi nói nhỏ:

— Thầy Năm vừa mới hỏi cậu đó.

Dung lo sợ hỏi tới:

— Hỏi gì chú?

— Thầy hỏi cậu đi đâu lâu nay mới về hả?

Ý thẩy muốn nói cậu đi theo kháng chiến.

Thọ hơi giựt mình, nhưng bình tĩnh được ngay. Dung nói nhanh:

— Nói bậy hoài. Người ta đi học trên Sài gòn mà.

Năm Súng gãi tai nói:

— Thì cô cũng biết Năm Quýnh mà! Hễ thấy lạ mặt là nghi ngờ. Tui nói cậu Ba đi học ở Sài gòn về, thầy cười bĩu môi, tỏ ý không tin. Bị vậy mà tui tưởng cậu đây làm gì mích lòng thẩy chớ.

Thọ nhớ đến những chuyện riêng tư của mình thoáng nét âu lo, nhưng cũng ráng bình tĩnh bảo Năm Súng:

— Không đâu chú Năm. Tôi đâu có làm mích bụng ai?

Dung cũng nói:

— Nhà nầy chú biết mà! Chẳng hề gây sự với ai bao giờ.

Năm Súng chợt hỏi:

— Nầy! Hôm về tới giờ cậu Ba có vô bót trình diện chưa?

Thọ lắc đầu cười:

— Chưa chú Năm! Định hôm nào đã...

— Trời ơi! Đâu có được. Vô trình diện liền đi. Đừng để họ có cớ làm khó cậu mà. Tui nói thiệt cậu Ba đừng giận: thầy Năm thông ngôn hễ ghét ai thì khó lắm đó!

Thọ đã quen với cái không khí tự do ở Sài gòn nên nói:

— Nhưng tội có làm gì mà sợ chú Năm.

Dung sợ anh nói lỡ lời, Năm Súng học đi học lại với người khác có hại nên chận lời:

— Anh... Mình nên giữ đúng luật! Lát nữa anh vào bót trình diện là xong... Xếp bót cũng nhã nhặn lắm.

Năm Súng gật đầu:

— Cô Tư nói phải đó. Cậu nên vô bót trình diện đi. Cũng nên làm quen với thầy Năm cho đỡ.

Thọ hơi ức lòng nhưng cũng mỉm cười cho Năm Súng khỏi nói lải nhải nữa. Chàng thoáng thấy bóng Hà Anh lấp ló bên khung cửa sổ nhà nàng. Dung cũng nhìn sang nhà bạn ra chiều nghĩ ngợi lung lắm.

Năm Súng cười bảo hai anh em:

— Đời giặc khổ lắm! Mình là dân mà cậu. Chịu đủ trăm bề...

Rồi ông ta ra cửa rào, Thọ bước theo nói:

— Cám ơn chú Năm. Tôi mới về nên còn lạ, ít lâu sẽ quen dần.

Hai người cùng cười. Dung chờ Năm Súng đi khuất mới bảo Thọ:

— Em hiểu tại sao Năm Quýnh không ưa anh rồi?

Thọ quay lại hỏi:

— Sao vậy?

Dung hất hàm về phía nhà Hà Anh nói:

— Tại ‘‘người đẹp Trung Hoa’’ đó?

— Hà Anh!

Dung kéo anh vào nhà nói:

— Năm Quýnh đeo đuổi Hà Anh ghê lắm! Nhưng chẳng được chị ấy lưu ý tới. Hôm nay hắn bắt gặp Hà Anh nói chuyện với anh nên sinh lòng ghen tức.

Thọ chưng hửng nói:

— Mà anh với Hà Anh có gì đâu?

Dung cười:

— Không có gì nhưng... ‘‘cảm tình’’ chút thôi.

— Kìa, anh có bày tỏ cảm tình hồi nào mà em nói vậy?

Dung vẫn cười:

— Ai nói anh? Hà Anh chớ! Do đó mà Năm Quýnh đã xem anh như kẻ tình địch đáng ngại nhứt...

Thọ đưa hai tay lên trời:

— Khổ quá! Đương không rồi bị thù ghét một cách lảng nhách.

Dung ngó anh như dò xét, rồi nói:

— Chưa chắc! Không oan cho anh đâu!

Thọ cũng có cảm giác mang máng như thế, nhưng chàng nạt đùa em:

— Dung! Đừng nói bậy nà! Lỡ Hà Anh nghe thấy sẽ giận anh em mình.

Dung vẫn tươi cười phá anh:

— Em chỉ nói cho anh nghe thôi, làm sao Hà Anh biết được? Trừ phi anh...

Thọ quá giận nói lớn:

— Dung! Em không được...

Thiếu nữ cười vang lên chạy thẳng vào nhà sau. Thọ nhìn theo lắc đầu. Dung đã mười chín tuổi rồi, nhưng vẫn không bỏ được tánh trẻ con.

Chàng bước lại bên cây khế, lấy khăn lau mồ hôi, đôi mắt nhìn sang nhà Hà Anh. Lời nói của Dung càng tô đậm thêm tình cảm giữa chàng và người thiếu nữ Trung Hoa đó!

Thọ chợt chú ý thấy có người xuất hiện trong khung cửa sổ nhà Hà Anh, người đó là Năm Quýnh chớ không ai khác.

Anh ta chăm chú nhìn Thọ, vẻ bất mãn rõ rệt. Thọ cúi xuống để tránh đôi mắt thiếu tình cảm đó... Lần đầu tiên trong đời, chàng cảm nhận lờ mờ có người thù oán mình vì một chuyện không đâu.

Thọ đang ngủ say, vụt choàng tỉnh khi nghe tiếng dộng cửa rầm rầm. Chàng ngồi nhổm dậy, đã nghe tiếng Dung gọi nhỏ:

— Anh Thọ... Anh Thọ...

Trong nhà đều tắt hết đèn, nên chàng không biết em đang đứng đâu? Chàng bước xuống giường hỏi mau:

— Gì vậy em?

Dung đã đến sát bên chàng tự lúc nào:

— Họ kêu cửa nãy giờ, nhưng mẹ và em không lên tiếng. Cửa nhà mình có muốn phá cũng không vô được...

Thọ hỏi:

— Mẹ đâu?

— Đang ở trong phòng. Họ bảo là lính trong bót nhưng em nghi ăn cướp quá...

Bỗng ở bên ngoài có tiếng nói:

— Xếp bót tới rồi đó! Mở cửa hông, tại nầy bắn đại vào nhà nghen.

Dung chợt nghe tiếng Tây quát tháo trong đêm khuya. Nàng nắm chặt tay Thọ:

— Đúng là lính bót rồi anh! Chết cha. Phải mở cửa, không nó bắn thiệt đó.

Thọ không quen với cảnh sống ở làng quê, nên việc nào cũng theo ý em. Chàng chưa kịp nói gì thì Dung đã lôi chàng chạy ra ngoài. Bà Chủ Thân từ buồng trong, cầm đèn đi ra, run giọng nói:

— Thọ, Dung... Đúng là lính ở trong bót mà. Có xếp bót đi theo nữa kìa. Mở cửa coi họ hỏi gì?

Thọ vội vàng đến bên cửa. Bên ngoài có tiếng Năm Quýnh nói lớn:

— Bà Chủ ơi! Xếp muốn hỏi thăm vài việc, sao bà không chịu mở cửa...

Bà mẹ vội hối Thọ:

— Mở đi con!

Dung đưa tay như muốn ngăn anh, rồi lại thôi vì nàng biết có chống cự cũng vô ích. Tự nhiên, nàng linh cảm một chuyện không hay sẽ xảy đến cho gia đình... Thọ vừa mở chốt cửa, lính thân binh đã ùa vào vây chặt lấy chàng. Người Pháp Xếp bót lườm lườm nhìn Thọ, hỏi Năm Quýnh:

— Có phải tên nầy không?

Năm Quýnh biết anh em Dung đều rành tiếng Pháp, nên vội đáp:

— Dạ họ mạch như thế! Nhưng đây là gia đình bà Chủ quen thân với ông Hội Đồng bên Phước Định. Chỗ quen lớn cả.

Dung vụt cất tiếng hỏi Xếp bót:

— Có việc gì nửa đêm ông vây nhà tôi...

Xếp bót đã mấy lần nói chuyện với Dung nên rất trọng nàng. Ông ta nói ngay:

— Có người tố cáo trong nhà cô chứa Việt Minh?

Dung sợ toát mồ hôi, nhưng cũng hỏi gằn lại:

— Ai cáo?

Xếp bót liếc nhìn Năm Quýnh rồi đáp:

— Đó là chuyện bí mật không nói ra được!

Rồi ông ta hất hàm về phía Thọ, hỏi Dung:

— Người nầy là ai?

Dung đáp:

— Anh ruột tôi vừa ở Sài gòn về!

Xếp đồn lắc đầu:

— Cô nói dối! Học ở Sài gòn về sao trốn lánh?

Thọ cất tiếng hỏi:

— Tôi trốn lánh bao giờ?

Nghe Thọ nói tiếng Pháp trôi chảy, xếp đồn cũng hơi nể, nhưng cũng nói:

— Không trốn tại sao anh không vô bót trình diện với tôi? Luật ở đây, không thể chứa người lạ mặt quá mười hai tiếng đồng hồ...

Thọ chưa kịp đáp thì Dung đã lên tiếng:

— Ông Jean... gia đình tôi là người kỳ cựu trong làng nầy và ông cũng đã từng biết nhiều rồi. Sao lại có sự làm khó nhau thế nầy?

Năm Quýnh từ nãy giờ vẫn lặng thinh. Hắn nghe Thọ và Dung trả lời cứng rắn với xếp bót thì hơi ngán, nhưng là kẻ nhiều cơ mưu, hắn nói xen vào:

— Cô Dung! Tụi tui còn lạ gì nữa! Nhưng tại họ mạch với Xếp bót như thế, ông ấy phải đích thân ra đây. Đứng trên phương diện luật pháp thì cậu anh của cô đã phạm tội rồi. Để về bót tôi liệu cho.

Thọ ngó thẳng vào mặt Năm Quýnh, hiểu rõ dụng tâm của hắn, nên ức lòng hỏi ngay:

— Sao lại về bót?

Cả hai người đều dùng tiếng Pháp nên xếp đồn bực tức trước thái độ ngang ngạnh của Thọ.

Ông ta nói ngay:

— Tôi mời ông về đồn vì ông không đến trình diện. Mà chỉ có Việt Minh mới trốn lánh chúng tôi.

Thọ cãi lại ngay:

— Không! Tôi là học sinh ở Sài gòn mà! Giấy tờ tôi đủ...

Năm Quýnh sáng mắt lên ngay:

— Cậu là học sinh hả? Tại sao lại về nhà? Phải cậu dự vào cuộc bãi khóa Trần văn Ơn không? Hả?

Đúng là hắn ‘‘ xem mặt mà bắt hình dung’’, nhưng Thọ đã có tịt thì sợ hãi lắm. Chàng cố bình tĩnh đáp:

— Không!

Năm Quýnh cười nham hiểm:

— Không thể nào được! Cậu qua mắt tôi sao nổi! Tháng nầy là tháng học trò đang học, tự nhiên sao cậu bỏ về nhà nghỉ. Bãi khóa vì trò Ơn mà! Thế còn chối không phải Việt Minh.

Rồi viên thông ngôn quay sang Xếp đồn nói:

— Đây chắc cũng là tay quan trọng mới bỏ Sài gòn về đó. Tùy xếp định liệu!

Thực sự tên Jean, Xếp đồn Cái Muối cũng chẳng hiểu ất giáp gì về những vụ biểu tình, bãi khóa ở Sài gòn, nhưng trước thái độ ngang ngạnh của Thọ và những lời đề quyết của Năm Quýnh, hắn liền ra lịnh:

— Đưa về bót!

Thọ thấy mình đã lâm vào ngỏ bí nên quay lại nhìn mẹ, nhìn em. Bà Chủ sợ lắm! Bà đã nghe anh Hai của Thọ nói nhiều về hoạt động của chàng lúc ở Sài gòn, nên nài nỉ Năm Quýnh:

— Cậu Năm! Cậu ở trong làng nầy biết tôi nhiều mà. Đời nào con tôi làm Việt Minh! Cái nhà thờ của ông Ngoại sắp nhỏ còn cho nhà nước đóng bót mà...

Năm Quýnh thuộc vào dân hạ tiện trong làng, gặp thời nhiễu nhương thì lên mặt. Trước lời nài nỉ của bà mẹ Thọ, cũng làm bộ gãi tai:

— Việc nầy khó lắm! Tại người ta mạch tôi biết nói sao? Xếp đích thân ra tới đây, bà biểu tôi cản thế nào được...

Dung tức giận lắm! Nàng biết dư chuyện nầy do Năm Quýnh bày biểu hết, nhưng bây giờ hắn làm bộ.

Nàng bước đến bên anh, bảo xếp đồn:

— Ông Jean! Đây là một vụ phao vu! Ông không xét kỹ, bắt oan anh tôi sao? Ông không nên làm mất hòa khí giữa gia đình tôi với ông. Bác Hội của tôi cũng là bè bạn với ông Chủ tỉnh mà.

Tên Jean đã bị mất giấc ngủ vào lúc nửa đêm, trong lòng đang bực bội, giờ nghe giọng nói có vẻ thách đố của Dung, hắn trừng mắt:

— Cô dọa tôi hả?

Dung vẫn cứng cỏi nói:

— Không! Tôi là dân thường, hai tay không, làm sao dám dọa ông! Tôi nói lẽ phải mà nghe vậy thôi. Anh tôi là học sinh ở Sài gòn làm sao theo Việt Minh được.

Năm Quýnh sợ mưu kế của mình bị Dung phá vỡ, nên cười nhạt bảo Xếp đồn:

— Học sinh bây giờ ghê lắm! Họ làm náo động cả Sài gòn suốt tháng nay đó Xếp. Tôi tin là cậu nầy bị động, chạy về đây. Nếu Xếp không tin đánh điện hỏi xem.

Bà Chủ không hiểu tên Năm nói gì, nhưng Dung và Thọ đều ngó hắn với đôi mắt căm hờn. Thọ nhớ lời Dung nói hồi sáng:

— ‘‘Anh bị Năm Quýnh oán vì Hà Anh đó!’’

Bây giờ, chàng mới thấy rõ nhận xét của em rất đúng. Năm Quýnh cố tình muốn nhốt mình mà.

Xếp đồn bảo Dung:

— Tôi lấy làm tiếc phải giữ đúng luật. Anh cô bị người ta mạch là Việt Minh trốn về, tôi phải mời về bót điều tra! Nếu không phải sẽ thả ra ngay...

Dung toan nói thêm, nhưng Thọ đã chận lại:

— Thôi Dung! Em không cần phải nói nữa. Năm Quýnh cười nham hiểm:

— Có thế chớ! Mình dám làm dám chịu, đừng thèm xin xỏ ai.

Thọ cố dằn lòng ngó xuống. Chàng chỉ còn muốn phóng tới, thoi vào mặt hắn thôi. Nhưng nếu chàng hành động như thế, bọn lính sẽ nổ súng vào đầu ngay, rồi không chừng mẹ và em cũng không yên được.

Chàng bảo mẹ:

— Má đừng lo cho con! Dung... trông chừng, săn sóc má.

Dung nghẹn lời, nhưng cố gắng để khỏi bậc thành tiếng khóc:

— Anh yên tâm.

Xếp đồn ngó Dung, rồi quay gót, bọn lính dẫn Thọ ra cửa. Bà Chủ òa khóc, Dung ôm chặt lấy mẹ gọi nhỏ:

— Mẹ...

Tên Năm Quýnh đi sau cùng, vẻ vun văn, vút vắt thật đáng ghét. Chúng vừa ra khỏi nhà thì bà Chủ đã gục xuống:

— Trời ơi! Làm sao bây giờ Dung? Anh Ba mầy...

Dung cũng ngồi xuống bên mẹ, mặc cho nước mắt tuông trào. Nàng đã cố gắng hết sức mình mới thốt ra được những lời rắn rỏi đó, trước mặt Xếp đồn. Nàng lắc đầu nói:

— Con cũng không biết làm sao bây giờ? Năm Quýnh cố tình hại anh Thọ mà...

Bà mẹ ngạc nhiên hỏi:

— Sao vậy? Xưa nay mình có gây thù kết oán gì với nó đâu?

Dung nhớ đến chuyện Hà Anh, nhưng không muốn cho mẹ biết, chỉ thêm lo buồn. Thực ra, nàng không dè Năm Quýnh hành động tức khắc như vậy. Mới hồi sáng nầy, hắn hỏi thăm Thọ thì tối đến cho vây nhà ngay! Hắn ra tay nhanh quá, anh em nàng đối phó sao kịp?

Bà Chủ thấy con gái không trả lời, liền hỏi tiếp:

— Sao vậy hả Dung?

— Con không rõ nữa, nhưng thấy rõ hắn cố tình buộc tội anh Thọ mà.

— Hay có ai mạch anh Ba mầy biểu tình, bãi khóa ở Sài gòn?

Dung lắc đầu:

— Không! Chẳng ai rành những chuyện đó đâu. Năm Quýnh đoán mò mà...

Bà Chủ lại khóc:

— Mò gì? Nó nói trúng quá, chắc thằng Thọ khó toàn thân! Phải chi cứ để nó ở Sài gòn. Anh Hai mầy sợ cho nó cũng bằng hại nó...

Dung lắc đầu bảo mẹ:

— Má đừng khóc nữa. Để tính lại xem!

Nàng chợt nhớ đến ông Hội Đồng, ba của Mai, nên bảo mẹ?

— Má à! Hay con qua Phước Định cầu cứu với bác Hội.

Bà mẹ sáng mắt lên:

— Ờ phải rồi. Để mẹ đi cho. Phải nhờ bác Hội can thiệp giùm! Trời, tao quên mất.

Bà đứng lên sửa soạn đi thì Dung chận lại:

— Khoan đã má! Còn thiết quân luận mà. Đi họ bắn chết! Cũng gần sáng rồi...

Bà Chủ ngồi xuống:

— Trời ơi! Đây tới sáng chắc thằng Thọ bị muỗi cắn chết.

Dung thở dài không đáp lời mẹ. Bị nhốt tới sáng thì có nhầm gì. Nàng chỉ sợ chúng giam anh nàng lâu hơn nữa thôi.

Có tiếng động ở ngoài rào, hai mẹ con nhìn nhau lo sợ. Chợt có người gọi:

— Chị Dung ơi, chị Dung...

Dung nghe rõ tiếng Hà Anh thì đứng lên ngay.

Bà mẹ lo sợ hỏi:

— Ai vậy con?

Dung liên đáp:

— Chị Hà Anh, để con ra xem...

Nàng bước ra cửa thì Hà Anh đã vào trong vòng rào! Gió đêm thổi lành lạnh.. Dung chạy ra hỏi:

— Chị! Gì đó...

Hà Anh đã đến sát bên nàng, run giọng nói:

— Anh Thọ... bị bắt rồi hả!

Dung gật đầu hỏi lại:

— Sao chị biết?

— Tôi nghe lính gọi cửa! Cả chợ đều thức. Lúc dẫn anh đi. Tôi có thấy nữa...

Dung cảm động, khi thấy rõ tấm lòng của Hà Anh đối với anh mình. Năm Quýnh bắt Thọ như nhổ cây gai trước mắt, để cho Hà Anh chỉ còn nghĩ tới hắn thôi. Hắn có dè đâu, làm thế càng thắc chặt thêm tình cảm giữa hai người mới chớm yêu nhau.

Hà Anh chợt hỏi bạn:

— Bây giờ tính sao hả Dung?

Dung thở dài nói:

— Bối rối quá chị! Má chỉ khóc... Em mới định cho bác Hội Đồng hay, liệu bác có giúp được gì không?

— Ông Hội Đồng bên Phước Đinh hả?

— Dạ! Bác ấy có quen với Chủ tỉnh Vĩnh Long, thế nào Xếp bót cũng nể tình...

— Nhưng liệu ông ta chịu giúp anh Thọ không?

Dung mau mắn nói:

— Giúp chớ! Anh ấy có thể là… là...

Rồi Dung im bặt. Nàng định nói ‘‘ Thọ có thể là con rể của ông Hội’’, nhưng chợt nhớ Hà Anh cũng yêu anh mình nên không thốt được nên lời.

Hà Anh ngạc nhiên hỏi:

— Sao Dung? Anh ấy...

Dung đành nói:

— Bác Hội thương anh Thọ lắm! Nghe chuyện nầy, bác không bỏ qua đâu...

Hà Anh lặng thinh ngó Dung. Nàng biết bạn giấu giếm mình một chuyện gì đó, nhưng không tiện hỏi ngay.

Một lúc nàng hỏi Dung:

— Họ lấy cớ gì bắt anh Thọ hả chị?

— Họ nói có người mạch anh Thọ là Việt Minh. Vì anh Thọ không khai báo nên xếp đồn mới nghi ngờ...

— Việt Minh gì mới ở Sài gòn về!

Dung nói:

— Năm Quýnh cố tình hãm hại anh Thọ nên bày điều đặt chuyện, chớ có ai mạch đâu! Chị không hiểu tại sao hắn muốn bắt anh Thọ ư?

Hà Anh ngơ ngác:

— Không! Tại sao vậy?

Dung thấy cần cho Hà Anh biết rõ điều đó:

— Tại Năm Quýnh yêu thương chị! Hắn hại anh Thọ chỉ vì sợ mất chị thôi...

Hà Anh nhìn sửng Dung, đôi mắt chớp lia, rồi cúi mặt nói:

— Không! Không lẽ! Trời ơi! Tại tôi sao?

Nàng dứt lời quay mặt chạy ra phía rào. Dung chạy theo nắm lấy tay bạn:

— Hà Anh! Làm gì vậy?

Hà Anh ôm mặt khóc, không nói gì cả! Dung ôm sát vai bạn hỏi nhỏ:

— Gì vậy chị?

Hà Anh nghẹn ngào:

— Tôi không dè cớ sự như thế! Vậy là chính tôi đã hại anh Thọ.

Dung che miệng bạn:

— Không! Hà Anh nói thế không phải. Tôi đâu có ý trách Hà Anh. Anh Thọ cũng mến Hà Anh vậy?

Người thiếu nữ Trung Hoa vụt ngẩng lên hỏi:

— Dung nói sao? Anh Thọ...

— Ảnh mến Hà Anh lắm! Tôi có bảo phải dè dặt với Năm Quýnh, ảnh lại không nghe... Lúc sáng, hắn thấy Hà Anh nói chuyện với anh Thọ, thì có vẻ phiền lòng nên mới nghĩ cách hãm hại đó.

Hà Anh không nói gì thêm, vẻ mặt đăm chiêu nghĩ ngợi. Nàng nhớ lại những lời Năm Quýnh đã nói hồi trưa, lúc vào quán uống nước đá.

— ‘‘ Tôi thương Hà Anh, quí trọng Hà Anh! Nếu không được thương lại tôi thù dai lắm...’’

Nàng chỉ cười không trả lời vì tưởng đâu lời hắn nói chơi như những lần khác. Hồi xế trưa, lúc đò ở trên chợ về rồi nàng thấy Năm Quýnh lại lảng vảng tới nhà, ngồi uống nước với cha nàng. Lúc hắn ra về, còn trao cho một hộp giấy nhỏ, không biết đựng vật gì bên trong? Nàng thoáng thấy cha mỉm cười sung sướng, rồi lễ phép đưa Năm Quýnh ra cửa. Suốt buổi chiều, nàng không thấy cha ở nhà. Cho đến tối ông mới mò về, vừa đi vừa hát nho nhỏ. Nàng bận rộn dọn dẹp hàng quán trước giờ thiết quân luật, nên quên hỏi xem cha đi đâu?

Bỗng có tiếng em nàng gọi:

— A Chế...

Hà Anh giựt mình bảo Dung:

— Tôi hiểu rồi Dung. Tôi phải về nhà ngay. Sáng tôi qua... Tôi cũng mến anh... ấy lắm.

Rồi Nàng chạy vọt ra khỏi vòng rào. Dung đứng nhìn theo thở dài. Hà Anh dám thố lộ với nàng như thế, cũng là nhiều lắm! Dung lặng lẽ trở vào nhà trong lúc bà mẹ ra cửa đón:

— Gì vậy con?

— Chị Hà Anh hỏi thăm tin anh Thọ.

Bà Chủ lắc đầu:

— Tội nghiệp con bé cũng có lòng quá hả! Thôi má đi qua Phước Định nghen con. Trời cũng gần sáng rồi. Tao biểu con Năm đốt đuốc đi với tao.

Dung lo ngại:

— Hay để con đi với má!

— Khỏi cần! Con đi còn dễ bị hại hơn. Nhớ đóng cửa cho kỹ rồi ở nhà! Ai kêu cũng đừng mở.

Dung cất tiếng dạ thì thấy chị Năm ở phía sau vườn đốt đuốc đi ra. Chị Năm là người lân cận được mẹ nàng giúp đỡ rất nhiều, nên thường vẫn ở hết lòng với gia đình nàng.

Chị Năm ra tới nơi đã bảo Dung:

— Thằng Năm Quýnh khốn nạn lắm! Nó với chồng tôi là chỗ bè bạn năm xưa, bây giờ còn làm mặt lạ. Hôm nọ ảnh đau, bót biểu làm xâu, tôi nài nỉ cho ảnh nghỉ một kỳ, nó nhứt định không chịu.

Dung không nói gì, chỉ lắc đầu. Nàng biết dư tâm địa những đứa ‘‘ tiểu nhân đắc chí ’’ ấy lắm!

Bà Chủ bảo chị Năm:

— Thôi mình đi đi...

Chị Năm vâng dạ. Dung đưa mẹ ra tới ngoài rào. Bà Chủ dặn dò nàng thêm lần nữa:

— Nhớ đóng cửa nẻo cho kỹ càng nghe con.

Dung gật đầu:

— Má yên lòng. Con biết mà...

Hai người đã ra khỏi cổng rào, ánh đuốc bừng sáng trong trời đêm. Dung nhìn theo mẹ, đến khi bà khuất mình theo mấy đám cây. Nàng trở vào nhà, khép cửa cài then cẩn thận. Tòa nhà trống vắng lạ lùng. Chiếc đồng hồ trên vách nhà nổi lên một âm điệu buồn thảm...

Dung gục đầu trên thành ghế, ôm mặt khóc. Nàng thấy rõ điều này: tai ương của chiến tranh không hề tha thứ một ai!

Bọn thân binh dẫn Thọ xuống chiếc cầu ván bấm đèn bin ra hiệu cho bên bót chống ghe qua. Năm Quýnh và tên Xếp bót còn đứng trên bờ đưa mắt nhìn dáo dác, tay ghìm súng, chỉ chực nhả đạn! Gió lạnh từ sông Cái thổi vào khiến Thọ rùng mình. Chàng quay đầu nhìn lại: ngôi trường tiểu học vẫn còn trơ ra đó, thi gan cùng năm tháng và khói lửa chiến tranh. Mấy lần cháy tiêu rồi được dân làng xây cất lại. Nơi đó, chàng cũng đã mài đũng quần trong thời tuổi nhỏ!

Có tiếng Năm Quýnh hỏi:

— Bộ tụi nó ngủ hết rồi sao? Kêu lớn lên...

Tên thân binh đứng gần Thọ hét lớn:

— Thình ơi... Chống ghe qua! xếp về nè... Thình...

Một tên khác cất giọng ‘‘ì’’ nghe vang dội cả đêm khuya. Tên Xếp bót thích ý cười ha hả, cả bọn cũng cười theo. Riêng Thọ vẫn lầm lì nghĩ đến thân phận của mình. Tòa nhà mà bọn lính Tây đóng bót có xa lạ gì với chàng đâu.

Đó là ngôi nhà thờ của ông Ngoại Thọ, một người giàu có nhứt vùng. Từ hồi chiến tranh tới giờ, quân Pháp tự động chiếm đóng ngôi nhà và xây đắp phòng tuyến xung quanh. Ngày còn nhỏ, Thọ vẫn thường theo mẹ về thăm Ngoại và cùng các anh em con cậu, con dì nô đùa trước sân gạch. Chàng nhớ rõ ông Ngoại có nuôi hai con trăn rất lớn ở trong bồn đá có rào dây kẽm.

Có tiếng sào khuấy nước rồi một chiếc ghe lường từ bên kia sông chống sang. Năm Quýnh thét hỏi:

— Bộ mầy ngủ quên hả Thình?

Có người lên tiếng ở giữa sông:

— Dạ đâu có thầy Năm.

— Không ngủ quên sao rọi đèn hiệu không hay? Xếp ổng hâm bỏ tù mầy đó...

Thình chừng như quá sợ, lấp bấp:

— Thầy Năm làm ơn nói giùm. Tại nước rút nhanh quá nên ghe mắc cạn, mình tui đẩy muốn ứ hơi.

— Đừng có nói láo! Sao mầy không lên tiếng? Thình cập sát ghe vào chiếc cầu ván rồi nói:

— Dạ có chớ thầy, nhưng bị gió ngược đàn chỗ khác. Xếp đi tôi đâu đám giỡn thầy Năm!

Thình vụt im bặt, trố mắt nhìn Thọ. Nó là cháu gọi ông Năm Súng chèo đò bằng cậu, nên rất rành gia cảnh của Thọ.

Nó hoàn toàn không dè, Xếp bót đi ra chợ là để bắt Thọ. Nó nhủ thầm:

— ‘‘Trời đất! Bộ hết người sao nhè bắt cậu nầy!’’

Chính Năm Súng đã cho nó biết Thọ ở Sài gòn về mấy hôm nay: nó chưa kịp đi thăm thì chàng đã bị bắt vào đây.

Trước kia Thình có ở chăn trâu nhà Thọ nữa nên nó rất thân với chàng. Thường khi nó với Thọ vò đất bắn giàn thung cả ngày trời. Trong lòng nó rất mến Thọ! Chưa bao giờ nó có ý nghĩ Thọ thân với những người kháng chiến, đừng nói chi đến chuyện làm Việt Minh. Thọ cũng rất ngạc nhiên khi thấy Thình làm bạt-ti-dăn trong bót nầy. Nhưng vốn dè dặt và sợ liên lụy cho nó, Thọ vẫn làm lơ, quay nhìn nơi khác.

Trong khi đó, Năm Quýnh nói Xếp bót mấy câu đỡ đầu cho Thình rồi bảo bọn lính:

— Thôi đưa xuống ghe đi! Còn chờ gì nữa?

Một tên bạc-ti-dăn xô Thọ bước xuống lường ghe. Thình vẫn trố mắt nhìn chàng. Năm Quýnh liếc nó rồi hỏi:

— Làm gì đứng nhìn hoài vậy Thình? Mầy quen nó hả?

Thình hoảng hồn cầm chặt cây sào, chống ghe ra:

— Dạ… đâu có thầy Năm! Thấy anh nầy mặt quen quen.

Năm Quýnh lạnh lùng:

— Việt Minh đó! Mầy nhìn anh em với nó đi rồi vô khám ngồi luôn thể.

Thình cười hề hề:

— Thầy Năm nói chơi kỳ quá!

Bọn thân binh cười rộ lên khiến tên Xếp đồn không hiểu gì hết, ngơ ngác hỏi Năm Quýnh:

— Chuyện gì vậy?

Năm Quýnh thuật lại lời nói của tên Thình, Xếp bót cười lên ha hả, bọn thân binh lại được dịp cười theo.

Thọ thẫn thờ nhìn lên nóc nhà thờ của ông ngoại. Chàng không ngờ mình lại bị giam giữ ở nơi mà trước kia đã từng chứng kiến bao cảnh yên vui của gia đình. Chiếc cầu đúc, ông ngoại chàng làm thật xa ra ngoài sông để cho ca nô của ông dễ đậu vẫn còn trơ ra đó! Ánh đèn pha trong bót rọi thẳng xuống đầu cầu khi ghe vừa cập bến. Cột cầu và lan can gãy bể nhiều nơi vì vết đạn chiến tranh. Thọ thở dài cúi xuống nghĩ đến những tang thương của của cuộc đời. Bọn thân binh lũ lượt lên thang. Năm Quýnh qua ngang mặt chàng nói:

— Bảnh trai quá ha! Chắc con gái mê nhiều lắm!

Thọ nhìn anh ta, cười nhạt:

— Thì ra vậy!

Năm Quýnh kéo chàng lại hỏi:

— Mầy nói sao?

Thọ bĩu môi:

— Chưa có gì chứng chắc tôi có tội, anh đừng xấc láo rồi hối hận!

Năm Quýnh đưa bá súng lên nhưng không hiểu nghĩ sao lại buông xuống.

Thình lo sợ vô cùng trước những lời Thọ nói, nhưng trong lòng không khỏi khâm phục thái độ bình tĩnh của chàng. Năm Quýnh đi sát bên Tây Xếp đồn, nói gì không rõ. Một lúc vào đến trong sân, hắn quay lại bảo bọn thân binh:

— Đưa nó xuống nhà kho luôn đi.

Thình hết hồn nhìn Thọ. Hai tiếng nhà kho nghe thật giản dị, nhưng chất chứa biết bao cực hình. Đó là nơi chúng khảo tra đánh đập những người yêu nước, chống thực dân và cũng là nơi buộc dân lành bao tội trạng tày trời! Thọ mới được mời về đây đã phải xuống nhà Kho thì đủ thấy dã tâm của Năm Quýnh. Hắn biết dư sáng mai đây thế nào ông Hội Đồng cũng qua can thiệp. Nếu Thọ không có tội thì thế nào ổng cũng gỡ ra cái một. Bởi vậy mà Năm Quýnh quyết làm cho Thọ mang tội mới nghe. Hắn chỉ muốn tống Thọ ra khỏi làng nầy càng sớm càng tốt. Để chàng ở lại đây thêm ngày nào là hắn không yên bụng ngày đó. Riêng Thọ, nào biết đâu những sự nguy hiểm đang chờ mình. Chàng cứ ngang nhiên theo bọn lính đi thẳng vào nhà kho. Chừng ngó thấy những dụng cụ để khảo tra đánh đập, Thọ mới nhủ thầm: lần này “lãnh đủ’’ rồi. Chạy ô mồ mắc ô mả!

Bọn thân binh đẩy Thọ té ngồi ở góc phòng rồi đi ra hết. Năm Quýnh chưa khởi sự khảo tra mà muốn làm cho Thọ phải bị căng thẳng thần kinh. Thọ đoán hiểu dụng ý của hắn, nên liên miên nghĩ đến những chuyện khác.

Chàng nhớ tới anh Hai mình trước tiên, một người anh mà từ khi chàng còn nhỏ dại, đã phải thay cha đùm bọc gia đình. Quan niệm sống của anh chàng là làm thế nào cho được an thân, đừng gây khổ cho mẹ trong lúc tuổi già! Vì quá lo xa, nên thấy Thọ dính líu vào các vụ biểu tình, bãi khóa trước cái chết anh dũng của Trần văn Ơn, anh Hai lấy áp lực gia đình buộc Thọ về nhà, nghỉ học ít lâu. Ý anh muốn Thọ dứt liên lạc với các bạn học sinh và tránh sự dòm ngó của Công an Liên bang Pháp. Nhưng rồi thì Thọ có được yên thân đâu? Chàng thấy rõ điều nầy, trong thời buổi chiến tranh, muốn sống yên thân là điều không thể thực hiện được!

Thật sự, anh chàng làm sao dự đoán được những tai họa bất kỳ. Anh chỉ biết thương em và lo phòng xa tất cả những chuyện có hại. Chàng nhớ kỹ vào đệ nhị thế chiến, khi Đức mới chiếm Ba Lê thì anh Hai đã rục rịch lo chuyện rời bỏ Sài gòn để tránh giội bom. Anh lo xa với những lý luận mà ai nghe qua cũng thấy hợp lẽ. Nhứt là mẹ chàng, bà vẫn thường xem đứa con trai lớn như một người không bao giờ sai lầm. Hễ bà dùng đến tiếng: ‘‘Anh Hai mầy đã nói’’, thì nhứt định phải làm theo...

Lúc anh Hai bảo chàng về quê ở với mẹ, Thọ chỉ nói một câu: ‘‘Trong thời binh lửa nầy sự hiểm nguy đến với ta bằng một triệu con đường, mình có tránh một vài chỗ cũng chẳng ăn thua gì đâu anh!’’ Nhưng rồi, chàng cũng theo đúng ý muốn của anh. Và đây là hậu quả của sự phòng xa thái quá đó.

Nếu chàng ở Sài gòn đến ngày giờ nầy, chưa chắc đã lọt vào lưới công an Pháp.

Chàng nhớ tới lời một người bạn thân đã nói: ‘‘Gia đình mầy lạ quá! Chưa đánh với Tây đã nghĩ đến chuyện thua, phải làm gì rồi. Thế thì theo Tây đi, còn có con đường sống hơn!’’ Lúc ấy, Thọ giận bạn lắm và cãi lẫy xuýt đánh nhau; nhưng bây giờ, nằm đây, chàng mới cảm nhận lời anh ta chí lý. Đang chiến đấu gay go, lại nuôi trong lòng cái tinh thần chủ bại thì còn thắng ai được nữa? Chung qui cũng do sự cầu an của gia đình chàng mà ra. Rốt cuộc rồi, chàng cũng không tránh được cái cảnh bị bắt giam, bị tra tấn.

Thọ ân hận vô cùng, ân hận vì đã nghe theo những ý kiến quá bảo thủ của anh. Chàng thiếu tự tin nên mới rơi vào sự sai lầm đáng tiếc đó. Bây giờ thì đã trễ lắm rồi!

Có tiếng chân nhiều người rồi cánh cửa nhà kho vụt mở. Năm Quýnh cùng hai tên thân binh bước vào, trên tay hắn cầm một tờ giấy đánh máy sẵn.

Năm Quýnh đến trước mặt Thọ kéo ghế ngồi nói:

— Tôi làm sẵn tờ khai cho anh! Mình biết rành hết thì cần gì phải điều tra nữa. Vả lại, tôi không muốn để tụi nó đánh đập anh, coi không được. Chỗ tôi với cậu Hai cũng có quen biết mà. Đây anh đọc tờ khai xem có được không? Anh cứ ký tên vào là xong xuôi cả. Tôi hứa chẳng có thằng nào dám đụng tới cái lông chưn của anh.

Thọ ngó tờ giấy đánh máy rồi lại hỏi Năm Quýnh:

— Tờ khai gì?

— Thi đại loại những việc anh đã làm ở Sài gòn! Nào là biểu tình, bãi khóa, dính líu vào tổ chức học sinh chống chánh phủ!

Thọ lắc đầu:

— Tôi có làm gì đâu mà khai? Đương không các anh bắt tôi vào đây rồi ép phải khai như vậy sao được?

Năm Quýnh cười nhạt:

— Đừng cứng đầu nghe tụi! Bao nhiêu thằng đã chết mất xác ở ngay trong nhà kho nầy đó. Ở đây không có luật lệ gì hết. Không có tội cũng phải nói có. Chừng có tội hẳn hòi, tại nầy biểu không thì cũng không luôn. Luật lệ ở phòng tra là như vầy nè...

Hắn dứt lời cầm cây thước bảng lớn khỏ vào đầu Thọ một cái cốp! Máu nóng dồn lên mặt, Thọ chồm dậy, nhưng hai tên bạt-ti-dăn kia đã bước tới chọp lấy vai chàng:

— Đừng giỡn chớ bạn.

— Mầy đọng tới thầy Năm là nát xương.

Thọ nhìn Năm Quýnh với vẻ uất hận:

— Anh sẽ phải ân hận nhiều lắm!

Năm Quýnh chẳng dừng tay, vung thước bảng lên bổ vào đầu, vào vai Thọ:

— Mầy dọa hả? Tao đánh mầy và chẳng chút ân hận nào hết! Được hông?

Thọ tránh đòn, lùi ra phía sau. Hai tên bạt- ti-dăn phải chạy theo đà tay của chàng, cây thước bảng trên tay Năm Quýnh bổ nhầm vào lưng một tên.

Hắn kêu lên:

— Ái ui! Thầy Năm...

Năm Quýnh ngừng tay lại. Tên kia xôm tới thoi vào ngực Thọ:

— Đ. m. Tại mầy hết. Quánh chết mẹ mầy.

Hắn đá bung vào hông Thọ. Chàng chịu không nổi rũ xuống, đau đớn. Thình từ bên ngoài chạy vào gọi:

— Thầy Năm!

Chừng thấy Thọ bị đánh gục, nó không thốt nên lời. Năm Quýnh quay lại hỏi:

— Gì vậy mậy?

— Dạ Xếp gọi thầy!

Năm Quýnh ngó Thọ rồi cất tiếng:

— Mầy không chịu ký vô tờ khai nầy thì tụi nó đánh mềm! Mai ông Hội có qua can thiệp, mầy trở về nhà cũng hết sống...

Thọ ngước mắt nhìn hắn, căm hờn nói:

— Tôi vô tội! Các anh khảo tra như vầy còn chi là luật pháp?

Một tên bạt-ti-dăn nói:

— Thằng nầy lạ! Tao đã nói: ‘‘lọt vô bót nầy thì chả có luật pháp gì hết.’’ Cứ lải nhải hoài. Mầy chịu ký tên hay không?

Hắn cầm cây chày vồ đưa lên, thằng Thình tái mặt. Nó không biết làm thế nào để cứu Thọ, nên nhắc nhở Năm Quýnh:

— Thầy Năm! Xếp đợi ở trển. Coi chừng ổng giận...

Năm Quýnh gật đầu rồi bảo tên bạt-ti-dăn kia:

— Khoan đã mầy! Chờ tao trở lại.

Tên bạt-ti-dăn vừa hạ chày xuống thì Năm Quýnh đã bước ra cửa. Thình chạy theo sau, nói nhỏ:

— Thầy Năm! Biểu tụi nó đừng đánh cậu Thọ đó nữa thầy Năm,

— Sao vậy? Mầy cũng muốn can thiệp hả?

— Không phải! Nhưng đánh như vậy chưa chắc cậu ta đã chịu ký nhận mà mai đây ông Hội qua can thiệp được còn rắc rối to.

— Rắc rối gì mậy?

— Cậu Thọ, con bà Chủ, với gia đình ông Hội Đồng là chỗ thâm giao. Ông Hội thế lực mạnh lắm!

Năm Quýnh gật đầu:

— Tao dư biết chuyện đó. Nhưng thằng ấy nó nhận tội thì chả làm gì tao được?

Thình nói:

— Tui sợ cậu ta chẳng nhận tội mà bị đánh đập như thế, ông Hội không nhịn mình đâu? Ổng dựa hơi Chủ tỉnh thưa ra thì lùm xùm lắm.

Năm Quýnh bĩu môi:

— Mầy đừng giỡn chớ! Tại nó dợt từ đây tới sáng dù cho mình đồng da sắt cũng phải nhận tội. Học trò mà mậy, lầm lầm, lì lì như vậy chớ dợt sơ một hồi thì biểu sao nghe vậy!

Thình ngẫm nghĩ một lúc mới nói:

— Hay thầy Năm giao cậu ấy cho tui!

Đã gần đến phòng Xếp bót rồi, nhưng Năm Quýnh cũng ngừng lại hỏi:

— Chi vậy mậy?

— Tui dùng chỗ thâm tình biểu cậu ấy ký nhận tội, khỏi đánh đập nữa.

Năm Quýnh cười gằn:

— Nghĩa là mầy có quen biết với thằng Thọ đó?

— Dạ có chớ, trước tui có đi ở với bà Chủ. Thế nào tui cũng dụ cẩu được! Thầy đừng lo...

Năm Quýnh ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo Thình:

— Được rồi! Tao giao cho mầy đó. Nó không chịu ký mầy cũng đi luôn xuồng.

Thình mừng rỡ vâng dạ rồi chạy xuống nhà kho. Hai tên bạt-ti-dăn nhìn thấy nó trở lại, liền hỏi:

— Có gì chạy dữ vậy? Bộ lộn xộn hả?

Thình lắc đầu:

— Thầy Năm biểu mấy anh giao nó cho tui.

Hai tên bạt-ti-dăn nhìn nhau rồi hỏi:

— Chi vậy? Bộ không tra nó hả?

Thình không đáp, chụp tờ khai trên tay tên đứng gần nó, rồi nói:

— Đưa đây tui. Mấy anh khỏi lo nữa, tui lãnh trách nhiệm tên nầy.

Hai tên bạt-ti-dăn cũng buồn ngủ lắm rồi, nên gật đầu bảo Thình:

— Ờ... Thì giao cho chú mầy đó! Thầy Năm hại tụi tao thức muốn sáng đêm.

Nói xong, hai tên ấy ra khỏi nhà kho, bỏ mặc Thình ở đó! Thọ đã bớt đau nên ngồi sát vách mở mắt thau láu nhìn Thình. Chàng hình dung lại cậu bé hớt tóc cao, mặc quần đùi, lần đầu tiên được ông Năm Súng dẫn tới nhà chàng. Mấy ngày sau là hai đứa thân thiết với nhau ngay, nhờ Thình với chàng đều giỏi xử dụng giàn thung. Không có bầy chim dòng dọc nào gặp hai đứa mà thoát khỏi bị hạ năm, ba con.

Khói lửa bùng lên Thọ đi Sài gòn học và ở miết trên đó, thỉnh thoảng mới về nhà. Thình thôi ở nhà chàng, rồi tiếp tay chèo đò với ông Năm Súng. Hôm nay về nhà bận rộn nhiều việc, chàng chưa kịp hỏi thăm Thình. Bất ngờ lại gặp anh ta ở đây trong một hoàn cảnh trái ngang: Thình làm thân binh cho Pháp, còn chàng lại dính líu vào phong trào chống Pháp!

Thình chờ bọn thân binh kia đi xa, mới khép cửa nhà kho lại gọi nhỏ:

— Cậu Ba.

— Anh Thình đó hả?

Thình đi về phía chàng, nói:

— Dạ... Tui đây cậu!

Nó ngồi xuống bên Thọ nghẹn lời, không biết nói gì thêm, lúc nãy, thấy bọn thân binh sắp tra tấn Thọ, Thình điếng hồn, nên nảy ra ý kiến ‘‘hoãn binh’’ chớ nó cũng biết hễ Thọ ký tên vào mảnh giấy kia là có trời cứu. Thọ bỗng hỏi nó:

— Anh làm gì trong bót nầy!

— Dạ thì cũng làm lính thân binh như họ. Năm Quýnh làm khó dễ quá, tui phải vô đây mới được yên thân.

Rồi Thình hỏi lại Thọ:

— Còn cậu? Sao lại bị bắt?

Thọ thở dài nói:

— Tôi cũng chẳng biết tại sao nữa? Đang đêm Năm Quýnh dẫn Tây tới vây nhà bắt tôi.

— Mà cậu có làm gì không?

Thọ cũng chưa thật lòng tin Thình, nên nói:

— Đi học mà làm gì anh? Tôi nghi Năm Quýnh hại tôi là tại Hà Anh!

— Hà Anh nào? Con xẩm bán nước đá, ở ngoài chợ cũ đó hả?

Thọ gật đầu. Thình ngơ ngác hỏi thêm:

— Sao lại tại nó cậu? Năm Quýnh theo con nhỏ đó lâu rồi mà... Hay là cậu...

Thình ngập ngừng ngó Thọ không nói hết câu. Nó nghi ngờ chàng cũng yêu Hà Anh nên bị Năm Quýnh để tâm thù oán.

Thọ nói:

— Tôi với Hà Anh chẳng có gì hết!

Thình thở ra:

— Thằng Năm Quýnh nó ghen ác lắm! Cái vụ nầy, nó không hại được cậu thì cũng tìm cách khác để giết cậu. Nó ‘‘chó má’’ lắm. Ở trong làng nầy ai cũng biết...

Thọ nín lặng. Chàng thấy rõ hoàn cảnh của mình còn hơn Thình nữa. Thật vô lý hết sức. Làm những chuyện chống Pháp, đáng bị giam cầm, chàng trốn được về đây, bây giờ lại đi tù vì một lý do rất tầm thường. Chàng ngó mảnh giấy trên tay Thình hỏi:

— Anh lãnh lệnh của Năm Quýnh, buộc tôi ký vào mảnh giấy nhận tội nầy hả.

Thình ngó tờ tự khai lắc đầu:

— Không! Lúc nãy sợ tụi nó khảo tra đánh đập cậu, tôi làm liều. Chớ ký vào đây thì cậu nguy lắm. Năm Quýnh sẽ có lý do giam giữ cậu rồi đưa lên Vĩnh Long. Ông Hội có can thiệp cũng không kịp nữa.

Thọ nhìn Thình ái ngại:

— Nếu tôi không ký thì Năm Quýnh sẽ kiếm chuyện với anh?

— Có nhằm gì đâu. Cậu đừng lo, miễn cậu khỏi bị đánh đập thì thôi.

Có tiếng cười gằn ở trước cửa nhà kho:

— Tao nghi mầy đúng quá hả Thình? Mầy thông đồng với nó mà...

Đèn bấm chớp sáng lên, Thình và Thọ cùng bị chóa mắt, đưa tay lên che mặt. Năm Quýnh dẫn bọn thân binh ập vào. Rồi thì chỉ còn n