Chương 1 (3) TIẾT 2. NHẬN THỨC LUẬN PHẬT GIÁO
Nhận thức luận là khoa học về nhận thức. Tồn tại là khách quan, nhận thức là chủ quan. Cho nên trong triết học tùy từng trường phái mà nhận thức khách quan khác nhau. Chân lý là sự kết hợp giữa chủ quan và khách quan. Tùy chủ quan khác nhau mà chân lý được nhận thức khác nhau: chân lý tương đối, nói theo ngôn ngữ Kant là "Vật cho ta" (chose pour soi) chứ không phải "Vật tự nó" (chose en soi). Trong nhận thức luận Phật giáo thể hiện điều đó rất rõ.
Trong vấn đề Nhận thức luận Phật giáo cũng như trong vấn đề Bản thể luận trên đây và vấn đề Giải thoát luận sau đây, tôi chủ yếu muốn tìm hiểu tư tưởng của Thích Ca Mầu Ni hay nói một cách khác của thời kỳ trước Đại Thừa. Tôi không đi sâu vào các lý luận Đại Thừa. Cho nên trong chương Bản thể luận chủ yếu nghiên cứu về duyên khởi luận mà Phan Văn Hùm và J. Takakusu gọi là Nghiệp cảm duyên khởi, K. Taiken gọi là duyên khởi luận Phật giáo nguyên thủy. Tôi không đi sâu vào các thuyết Đại Thừa như thuyết A lại da thức, Chân Như... tuy vẫn trích dẫn và viết đôi dòng đơn giản ngắn ngủi.
Trong chương Nhận thức luận cũng chỉ nhằm tìm hiểu phương pháp nhận thức của Thích Ca Mầu Ni để quan sát Sinh-Lão-Bệnh-Tử của Con Nguoi từ đó đưa ra Tứ diệu đế.
Dưới đây dẫn Phan Văn Hùm, nhưng tôi chỉnh chữa lại chính tả theo hiện nay cho người đọc dễ hiểu. Ví dụ: Thật = thực, bổn = bản v.v...
Phan Văn Hùm viết:
"II. Nhận thức luận.
Bất kỳ cái triết học nào, xứng đáng danh hiệu ấy, cũng có vũ trụ luận, cũng có nhận thức luận cho nó. Triết học nào lìa nhận thức luận ra, là phải chịu cái số kiếp ngừng trệ lại, không nảy nở ra được" (Luận Tùng, tập I, trang 78). Triết học Ấn Độ vẫn có nhận thức luận hẳn hoi. Phật giáo chịu ảnh hưởng nhiều trong đó.
Khảo về nhận thức luận, nhà triết học khảo những vấn đề: bản nguyên của tri thức, giới hạn và hiện thực của tri thức, bản chất của tri thức. Riêng về xứ Ấn Độ trong nhận thức luận lại còn có nhân minh luận.
1. Bản nguyên của tri thức. Triết học phương Tây luận về bản nguyên của tri thức, phân ra hai phái. Một cho rằng bản nguyên của tri thức là ở nơi tiên thiên (apriorisme), một cho rằng bản nguyên của tri thức là ở nơi kinh nghiệm (empirisme).
Cũng gọi về bản nguyên của tri thức, triết học Ấn Độ gọi là tri lượng. Ở đây cũng cho tri thức là do hai nguồn mà ra. Một là thánh giáo lượng, một là hiện lượng với tỷ lượng. Thánh giáo lượng là nguồn tri thức của thần linh mách cho (như kinh Veda). Thuyết này tức là một loại với thuyết tiên thiên. Hiện lượng, hay là chứng lượng, là chỉ tri thức do giác quan thân chứng mà phát sanh. Tỷ lượng, là chỉ tri thức do lý trí ta tỷ giáo (so sánh. NDH) mà phát sinh. Sánh với triết học phương Tây, thuyết hiện lượng về (và? NDH) tỷ lượng giống như thuyết kinh nghiệm.
Phái Mimansa chủ trương lục lượng. Một là hiện lượng (pratiyaksâta), tức như évidence trong triết học Tây phương. Hai là tỷ lượng (anumana). Ba là thí dụ lượng (upanâma), tức là analogie, như muốn biết con bò rừng ra sao, lấy con bò nhà mà thí dụ. Bốn là nghĩa chuẩn lượng (arthapatti) tức signification, như nói: pháp vô ngã, thì chuẩn định mà biết rằng: pháp vô thường. Năm là thánh giáo lượng (sabda). Sáu là vô thể lượng (abhâva): chữ abhâva nghĩa là vắng mặt (absence). Như thấy trời không mây, đoán biết là đất ruộng phải khô.
Phật giáo nối dõi theo triết học trước nó, cũng luận về bản nguyên của nhận thức. Nhưng nó lược lại, chỉ giữ lại hai cái hiện lượng và tỷ lượng mà thôi. Trong hai cái lượng này, lại cho hiện lượng là hơn hết. Xem như Thế Thân bảo rằng: "Chứng lượng bất thành, tỷ dụ thành ngôn giai thất". Chứng lượng tức là hiện lượng, cho biết một câu nói ấy có cái khí vị vô thần luận, phá tan thánh giáo lượng của Bà la môn.
Chủ trương hiện lượng và tỷ lượng là hai cái bản nguyên của nhận thức, do nơi Trần Na (Jina bodhisattva) mà người ta gọi là khai tổ của tân-luận-lý ở xứ Ấn-Độ.
Trần Na sinh vào khoảng một ngàn năm sau khi Phật nhập diệt tức là vào khoảng thế kỷ thứ sáu của tây nguyên (công nguyên. NDH). Người chủ trương rằng: để tự ngộ chỉ có hiện lượng và tỷ lượng.
Hiện lượng gồm cảm giác (sensation) và tri giác (perception). Ta có quan niệm rõ rệt về một vật gì, tức phải có cảm giác về vật ấy, như là phải thấy màu nó, phải nghe mùi nó, phải biết vị nó, v.v. Nhưng mà có cảm giác rồi, phải ra ngoài những cảm giác, mới tìm được tri giác. Không có cảm giác thì không có tri giác. Mà không có tri giác thì cũng chưa có quan niệm (conception) được nghĩa là hiện lượng chưa thành.
Tỷ lượng gồm phán đoán (jugement) và suy lý (raisonnement). Chỉ sau khi có hiện lượng thì mới có thể có tỷ lượng được. Cho được có tỷ lượng phải biết phân biệt. Tỷ phải có ít nữa là hai vật. Trong hai vật ấy phải phân biệt được chỗ đồng, chỗ dị, mới tỷ được. Chỗ đồng trong Phật giáo gọi là Cộng tướng, chỗ dị gọi là Tự tướng. Lấy một thí dụ: như Ngũ uẩn. Ta vẫn biết Ngũ uẩn là Vô Thường. Vô Thường ấy là Cộng Tướng của Ngũ uẩn. Còn Ngũ uẩn là Tự tướng. Còn trong Ngũ uẩn lại lấy Sắc uẩn mà nói, thì Sắc uẩn là Cộng tướng, còn Sắc xứ là Tự tướng. Trong Sắc xứ lấy màu xanh mà nói, thì màu xanh là Tự tướng, Sắc xứ là cộng tướng. Trong những màu xanh lấy một cái hoa thêu trong một cái áo mà nói, thì màu xanh ấy là Tự tướng mà cái hoa thêu trong áo là Cộng tướng. Trong cái hoa thêu ấy lấy một phần thật nhỏ này là Tự tướng, còn cái hoa kia là Cộng tướng. Cứ như thế mà thâu hẹp lại mãi cho đến chỗ ly ngôn (không còn lời gì nói được), thì chỗ ly ngôn ấy là Tự tướng, còn phần thật nhỏ kia gọi là Cộng tướng. Trong chữ ly ngôn thì thánh trí ngầm hiểu bản chân, thánh trí ấy là Tự tướng mà cái gọi là ly ngôn kia là Cộng tướng.
Cộng tướng vốn là giả hữu, bởi giả trí ta tìm thấy. Tự tướng vốn là khả chân, thì hiện lượng dựa vào đó, và thánh trí chứng lượng được nó.
...
Cộng tướng duy có tỷ lượng là thấy được.
Cho nên nhứt thiết không có cái gì là không nhờ tỷ lượng mà biết được.
Sau khi ta tỷ lượng thì ta thấy được cái nghĩa. Nghĩa do tỷ lượng mà có. Trước khi ta tỷ lượng, ta phải dựa vào Cộng tướng. Nhưng mà Cộng tướng cũng do tỷ lượng mà có.
Tóm lại, hiện lượng hay chứng lượng cho ta biết Tự tướng của sự vật. Tỷ lượng cho ta biết Cộng tướng của sự vật. Cho nên Trần Na bảo rằng: "Vì (vị. NDH) tự khai ngộ, duy hữu hiện lượng cấp dữ tỷ lượng".25
Tiếp theo Phan Văn Hùm viết về Giới hạn và hiệu lực của tri thức, chứng minh Phật giáo nói tri thức chỉ do hiện lượng và tỷ lượng mà có nhưng không biết được bản thể.
Trần Na bảo rằng: "Hiện lượng và Tỷ lượng đều không từng được vật (nghĩa là không nắm bắt được vật tự thân (la chose en soi). Mắt trông thấy cái bình, là thấy cái sắc tướng của nó, chớ không phải là thấy bình tự thân. Nói về một tri căn (buddbindriyh) như thế. Nói về các tri căn khác cũng như thế. Như mũi biết được mùi của vật, không biết được vật tự thân. Vậy các tri thức thuộc về một vật góp lại cũng chỉ biết được sắc tướng của nó không biết được thực thể của nó.
Nói về hiện lượng như thế. Còn tỷ lượng thì dựa vào hiện lượng mà xem nghĩa, cũng không biết được thực thể. Như hiện lượng thấy màu, tỷ lượng dựa vào đó mà biết cái nghĩa của màu không sao biết được cái thể của màu, tức là không sao biết được cái thể của vật có màu ấy.
Biết được thể chỉ nhờ ở nơi "phi lượng". Cái thể vốn siêu qua nhận thức, Lý không biết được nó. Chỉ Tình là bảo rằng thể phải có mà thôi. Bởi Lý không biết, mà Tình rằng có, nên gọi là phi lượng. Phi lượng hàm ý nghĩa phi tri thức.
Mắt ta trông thấy màu trắng. Ta có cái cảm giác, rồi có tri giác về màu trắng đó (perception du blanc). Ta hiểu được nghĩa của màu trắng. Nhưng còn cái thực thể của màu trắng (la blanchélité) chỉ có phi lượng là hiểu nó thôi.
Tri thức của ta phải dựa vào cảm giác mà mới có. Cho nên tri thức bị cảm giác làm giới hạn cho nó. Nhưng cảm giác không phải là tri giác. Cho nên tri giác ngoài cảm giác.
Dựa vào cảm giác, cho nên tri thức lấy giới hạn nơi cảm giác. Ngoài cảm giác, cho nên tri thức lại không có giới hạn.
Như thế Phật giáo chủ trương không giống các học thuyết khác. Trong giới hạn vẫn có tri thức, mà ngoài giới hạn tri thức vẫn còn. Trong giới hạn thì hiện lượng và tỷ lượng biết được. Ngoài giới hạn thì phi lượng đem tri thức lại cho ta. Nhưng tri thức không thể cho biết cái mà ta biết bằng phi lượng, tức là cái bản thể. Cho nên nói phi lượng hàm ý nghĩa tri thức."26
Theo tôi, tóm lại, Phan Văn Hùm cho nhận thức luận Phật giáo kế thừa nhận thức luận lục lượng của phái Mimansa, nhưng chỉ chủ trương: Hiện lượng, tỷ lượng và phi lượng. Hiện lượng và tỷ lượng đều là kết quả của cảm giác mà cảm giác (nghe, nhìn, ngửi...) đều hữu hạn không thể đạt đến thực thể tức bản thể của sự vật (chose en soi) mà chỉ có phi lượng mới đạt đến bản thể sự vật. Theo Phan Văn Hùm phi lượng không phụ thuộc vào cảm giác. Phan Văn Hùm dẫn phái Mimansa và Trần Na. Nhưng phái Mimansa hình thành vào khoảng thế kỷ I/III công nguyên. Trần Na (Dingaga khoảng 440 đến khoảng 520) là đồ đệ của Thế Thân.
Như vậy lý luận hiện lượng, tỷ lượng, phi lượng đều của người đời sau Thích Ca giải thích về tư tưởng Thích Ca chứ không thể nói đó là nhận thức luận của Thích Ca ngót 1000 năm trước. Đây là nhận thức luận sau Đại Thừa.
Đáng chú ý Phan Văn Hùm giải thích phi lượng là Lý không nhận thức được mà chỉ Tình mới nhận thức được phi lượng. Tình là gì? Phan Văn Hùm không giải thích. Như vậy phi lượng hoặc là trực giác cảm tình hoặc là "thánh giáo lượng" trong lục lượng của phái Mimansa.
Theo tôi cái gọi là phi lượng chính là sự thăng hoa trừu tượng hóa các hiện lượng và tỷ lượng mà có. Đó là sự xuất hiện của tư duy trừu tượng, hình thành các khái niệm, phạm trù triết học khác nhau như vật chất, tinh thần v.v. hay như Không, Hữu... trong lý luận Phật giáo.
Tiếp theo là về Bản chất của tri thức, Phan Văn Hùm viết:
" Các học phái trong triết học Ấn Độ luận về vấn đề này đều bảo rằng những cái cực vi hòa hiệp lại làm đối tượng (objet) cho tri thức. Nghĩa là lìa tri thức ra đối tượng của tri thức vẫn có thật. Như thế là chủ trương một thứ thực tại luận chất phác (réalisme grossier).
...
Thuyết Duy Thức khác hẳn với Thực tại luận đã nói trên đây. Thuyết Duy Thức chủ trương rằng: cái dẫn tri thức đến cho ta, chỉ là tri thức của ta, chớ không phải nằm trong thể chất của sự vật. Điều ấy nói về A lại da thức đã tường rồi.
"Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức". Một câu ấy thật là ách yếu của Đại Thừa Phật giáo."27...
Cuối cùng Phan Văn Hùm trình bày Nhân minh luận của phái Nyaya (phái Chánh lý) xuất hiện khoảng thế kỷ III trước công nguyên nhưng hoàn chỉnh vào khoảng thế kỷ IV hay V sau công nguyên...
Trần Na đưa ra Nhân minh luận mới trong cuốn Nyaya Praveca Taraka Castra (Nhân minh nhập chánh lý luận), đưa ra phép tam chi thay vì phép ngũ chi của phái Nyaya.
1. Tông - Trên núi kia có lửa
2. Nhân - Bởi vì có khói
3. Dụ - Phàm chỗ có khỏi tất có lửa
4. Hiệp - Trên núi kia có khói
5. Kết - Cho nên biết là có lửa.
Trần Na giảm hai chi sau chỉ còn giữ ba chi: Tông, Nhân, Dụ.28
Tân nhân minh luận là nhận thức luận Đại Thừa phát triển nhưng không thể hiện trong triết học Phật giáo Việt Nam, ảnh hưởng của Trần Na chưa phát hiện ở nước ta.
Trong phần Thực tướng luận, Phan Văn Hùm cũng đề cập đến nhận thức luận Phật giáo.
"Thực tướng luận -
Thực tướng luận giải bày cho biết thực thể của vũ trụ như thế nào. Tức là nó đi tìm thực tại (le réel). Tôn giáo nào, triết học nào cũng không thể không luận đến vấn đề thực tại. Nhưng thực tại chỉ có lấy trực quan mà xem nó chớ không có ngôn ngữ văn tự gì diễn tả nó được. Cho nên các nền triết học phải dùng đến phương pháp tỷ dụ loại tự (méthode analogique) mà diễn tả thực tại.
Phật giáo về thực tại luận dùng ba phép: tiêu cực, tích cực và lý tưởng.
1. Tiêu cực thực tại luận. - Thuyết này cho rằng ngôn ngữ văn tự có diễn tả được chăng, là diễn tả hiện tượng giới, chứ về thực tại quyết là không thể nào diễn tả được. Nó lại cũng cho rằng: nói thực tại với hiện tượng là đồng, hoặc là khác, hoặc là một, hoặc là hai, đều cũng không đúng; nói thực tại là có, là không, là cũng có cũng không, là không có không không, đều cũng không đúng chân tướng của thực tại.
Thực tại vốn là không tịch.
2. Tích cực thực tại luận. - Thực tại chỉ có trực quan mà biết. Điều ấy đã đành. Nhưng biết rồi cũng phải làm sao mô tả nó cho được. Lòng người bao giờ cũng nghĩ đến chỗ này. Do đó phát sinh ra tích cực thực tại luận.
Tích cực thực tại luận của Phật giáo có hai lối. Một lối trừu tượng, cho rằng hiện tượng giới là mê vọng, rồi từ đó mà có cái quan niệm phản động lại, trừu tượng nghĩ ra thực tại, và diễn tả thực tại bằng những tiếng như Chân như, Chân tâm, Viên giác, Thắng nghĩa - Một lối cụ thể, tả thực tại bằng những tiếng Pháp thân (dharmakaya), Như lai (Tathagata), hoặc là Lục đại (mahabhuta).
Lại xét về chỗ quan hệ giữa thực tại và hiện tượng, thì tả thực tại bằng những tiếng Nhất như, Như như, hoặc là Pháp giới.
Những tiếng Trung đạo, Chân thiên, Chân đế, cũng chỉ về thực tại, khi xét đến phương diện hoạt động của nó. Còn khi xét về cá thể của nó, thì có những tiếng để tả tượng nó, như là: Pháp tính, Giác tính, Pháp tính.
Tóm lại dù cho dùng tiếng nào để tả thực tại, cũng cùng một ý, là nói rằng thực tại là thiện, là hay động.
3. Lý tưởng thực tại luận. - Thuyết này đứng về phương diện giả định mà đặt ra. Nói rằng thực tại là chung cuộc của sự giải thoát.
Gọi nó bằng lý tưởng thực tại luận là thủ cái nghĩa con người ở trong cõi hiện tượng, lấy lý tưởng mà nghĩ ra nó.
Lý tưởng thực tại luận phân ra hai thuyết. Một thuyết tiêu cực, một thuyết tích cực.
Thuyết tiêu cực là chủ trương của Tiểu Thừa giáo. Giáo phái này bảo rằng: "Chư hành vô thường". Nghĩa là vạn hữu có sinh có diệt, chuyển biến, chứ không phải thường trụ. Thoát cho được cái cảnh giới sinh diệt chuyển biến vô thường, mà đến cảnh giới thường tịch, không chuyển biến sinh diệt, là đến Niết Bàn. Thuyết như thế là hình dung cái trạng thái của tâm được nhất trí với thực tại. Nhưng mà hình dung một cách tiêu cực.
Tiểu Thừa giáo lại bảo rằng: "Chư hành vô ngã". Nghĩa là bảo rằng: tấm thân của ta chuyển động không định; già chết chẳng lường, lìa cho được chỗ chấp trước của cái bất định đó, mà diệt thân diệt trí, thì đến được cảnh giới vô vi, cảnh giới này gọi là Arhat (A la hán, hay là La hán, nghĩa là vô học: bởi đến đó thì vô pháp khả học). Thuyết như thế cũng lại là một thuyết tiêu cực. Thuyết trên hình dung cái trạng thái của Tâm được cùng với thực tại nhất trí. Thuyết dưới thì hình dung cái trạng thái của Thân được cùng với thực tại nhất trí.
Hai thuyết cũng đều là phủ định cái hiện tượng giới, mà ra ngoài hiện tượng giới, để, một đàng tìm thực tại ở nơi cảnh giới không tịch, một đàng tìm thực tại ở nơi cảnh giới vô vi.
Đối lại hai thuyết tiêu cực trên đây của Tiểu Thừa Phật giáo, có thuyết tích cực bảo rằng ngoài hiện tượng giới có viên mãn thực tại giới. Thực tại giới này khác với thực tại giới ở trong hiện tượng giới. Ấy gọi là Phật hay Tịnh thổ.
Kết luận về thực tướng luận. - Nguyên thủy Phật giáo, một mặt vì thời thế xui nên, một mặt vì nhân trí trình độ, toàn nhiên phủ định hiện tượng giới, dùng phương pháp tiêu cực mà mô tả thực tại, rồi lại vì tư tưởng tôn giáo mà xướng ra lý tưởng thực tại luận.
Duyên khởi luận cùng thực tướng luận, hai thuyết đó đeo đẳng với nhau mà khai triển, biểu lý (ngoài trong. NDH) nhau mà giải bày một vật là thực tại.
C. Quan hệ giữa hiện tượng và thực tại.
Ở trên đây nhiều chỗ đã nói đi nói lại chỗ quan hệ giữa hiện tượng và thực tại. Tưởng không cần phải có một chương riêng để lặp lại làm gì. Nhưng xin nhón ít lời để cho dễ rõ hơn.
Tiểu Thừa thuyết. - Cứ kể ra thì Tiểu Thừa giáo không đặt rõ vấn đề thực tại. Chỉ lúc giáo phái này toàn thịnh là có phân ra hai phương diện hiện tượng và thực tại, và bảo rằng thực tại là thường trú, còn hiện tượng là vô thường: thực tại với hiện tượng quan hệ nhau như nguyên tử với vật đã hóa thành (atome et corps).
Pháp tướng thuyết. - Pháp tướng tông bảo rằng thực tại là cái lý thể vô vi, hiện tượng là hữu vi. Hai cái quan hệ nhau, là do nơi thực tại hoạt động mà sinh ra hiện tượng.
Nhất tâm nhị môn thuyết. - Đại Thừa khởi tín luận bảo rằng Tâm là toàn thể vũ trụ.
Một Tâm ấy có hai mặt cùng biếu lý nhau, là hiện tượng và thực tại. Giữa hai giới hiện tượng và thực tại có Vô minh làm môi giới. Vô minh là gì, thì ở nơi thuyết Chân như duyên khởi đã nói rõ.
Thể tượng dung hiệp thuyết. - Thuyết này, như Thiên Thai tông bảo rằng thực tại là hiện tượng, hiện tượng là thực tại. Hai cái không lìa nhau, như sóng với nước (Tâm tức pháp, pháp tức tâm).
Kết luận. - Nguyên thủy Phật giáo về chỗ quan hệ giữa thực tại và hiện tượng chủ trương rằng pháp thể là hằng hữu, còn hiện tượng là do pháp thể tích tập mà ra. Đến khi nguyên thủy Phật giáo phân ra Thượng tọa và Đại chúng hai bộ, thì Đại chúng bộ phân tích pháp thể ra, bảo rằng cuối cùng pháp thể là Không.
Về sau Đại Thừa giáo bảo rằng hiện tượng giới là mê vọng, mới phản động (chống lại. NDH) lại tư tưởng đó, nghĩ ra Chân như mỹ thiện, tức là chỉ thực tại. Nhưng Chân như với hiện tượng quan hệ nhau như thế nào thì không nói rõ. Lần lần tư tưởng khai phát mới có những thuyết bảo rằng hai giới ấy quan hệ nhau như biểu lý, như thể tướng. Tư tưởng này là tư tưởng Nhất như.
Đến như đứng về phương diện tôn giáo, luận về giải thoát thì có những thuyết Niết bàn, A la hán, Phật đà, Tịnh độ, cho rằng những cảnh giới ấy là thường, lạc đối với hiện tượng giới."29
Như vậy tóm lại, Phan Văn Hùm đã diễn giải nhận thức luận Phật giáo của thời kỳ trước Đại Thừa và thời kỳ Đại Thừa một cách súc tích nhất.
- Thời kỳ trước Đại Thừa mà Phan Văn Hùm gọi là thời kỳ Tiểu Thừa thì trong thời kỳ đầu Phật giáo không đặt vấn đề thực tại; thời kỳ sau thì có lập luận về Thường và Vô Thường tức thực tại và hiện tượng. Đến khi phân liệt thành Thượng Tọa và Đại Chúng Bộ thì Đại Chúng Bộ cho Pháp thể là Không.
- Thời kỳ Đại Thừa thì cho hiện tượng là mê vọng, đưa ra Chân như chỉ thực tại. Có các thuyết Pháp tướng, Nhất tâm nhị môn, Thể Tượng dung hợp. Về sau hình thành tư tưởng Nhất như.
Phan Văn Hùm đưa ra nhận thức luận của phái Duy Thức của Đại Thừa thời toàn thịnh của thế kỷ thứ V sau công nguyên bằng cách dẫn Trần Na với lý luận về hiện lượng, tỷ lượng, phi lượng.
J. Takakusu không trình bày triết học Phật giáo thành Bản thể luận, Nhận thức luận, Giải thoát luận như Phan Văn Hùm, mà đặt một chương Những nguyên lý căn bản trong triết học Phật giáo bàn về 6 nguyên lý tổng quát đặc biệt chung cho hết thảy các tông phái Đại Thừa.
Như vậy, J. Takakusu chỉ bàn về triết học Đại Thừa.
Nguyên lý Duyên khởi được tôi dẫn và phần Bản thể luận. Bây giờ dẫn các nguyên lý Vô Ngã, Tương đối, Như thực, Viên Dung vào phần Nhận thức luận. Còn nguyên lý Giải thoát cứu cánh sẽ đưa vào phần Giải thoát luận.