← Quay lại trang sách

Chương 1 (5) II. Sáu phái triết học

1/ Phái Nyaya (Chính lý phái). Nyaya có nghĩa là "tiêu chuẩn để rút ra kết luận" cho nên còn được gọi là "Tư biện học, trường phái lo-gic học duy nhất hình thành vào khoảng thế kỷ III trước công nguyên nhưng đến Aksapada Gotama (Aksapada = Túc Mục nghĩa là chân và mắt vì ông thường nhìn xuống chân), sống vào khoảng năm 50-150 công nguyên thì được tôn là thủy tổ. Tuy nhiên phải mãi đến thế kỷ IV-V công nguyên mới được nhiều người chú giải phát huy hoàn thiện. Tư tưởng của phái này thuộc đa nguyên luận, lấy kinh điển Nyaya-sutra làm căn cứ, gồm 538 câu. Về triết học phái này đưa ra 16 phạm trù.

1. Về phương điện nhận thức (Pramana = Lượng) thì gồm 4 loại:

- a/ Tri giác (Pratisksa = Hiện lượng)

- b/ Suy luận (Anumana = Tỷ lượng)

- c/ Loại tỷ (Upamana = Tỷ dụ lượng)

- d/ Chứng ngôn (Sabdha, Aplasruti = Thanh lượng, Thánh ngôn lượng)

2. Vế đối tượng nhận thức (Prameya = Sở lượng) bao gồm tất cả mọi hiện tượng vật chất và tinh thần cả thảy 12 loại:

1/ Linh hồn là thực thể độc lập, cá thể, vĩnh hằng.

2/ Thân thể là môi trường của hành động, cảm giác và tri giác.

3/ Cơ quan cảm giác: tai, mũi, lưỡi, mắt, da, tai.

4/ Đối tượng cảm giác: hương, vị, màu, sắc, xúc giác, âm thanh.

5/ Tri tính (giác) phạm vi tác dụng rộng. "Tri tính" thường được đồng nhất với khái niệm "Ngộ" (Upalabdhi) và "Thức" (Jnana).

6/ Tâm là cơ quan nằm giữa linh hồn và cơ quan cảm giác.

7/ Hành vi (nghiệp): Khẩu nghiệp, thân nghiệp, tâm nghiệp.

8/ Phiền não: tham, sân, si.

9/ Luân hồi.

10/ Quả báo.

11/ Khổ.

12/ Giải thoát.

3. Về những thành phần suy luận (Avayava = luận thức) thì gồm có:

- Tông (Pratijana = mệnh đề), ví dụ: trên núi có lửa.

- Nhân (Hetu = lý do), ví dụ: bởi vì trên núi có khói.

- Dụ (Udahadana = lệ chứng), ví dụ: phàm nơi nào có khói thì có lửa.

- Hợp (Upanaya = ứng dụng), ví dụ: hiện tại trên núi này đang có khói.

- Kết (Nigamana = kết luận), ví dụ: vậy trên núi này có lửa.

Nội dung nhận thức luận của Chính lý phái còn có các phương pháp xác định đúng sai, phương pháp tranh luận, v.v...

Về quan niệm nhân sinh, lấy phương châm lìa khổ tới chỗ giải thoát làm mục đích. Phái này cho rằng con người được sinh ra nơi trần thế có đầy rẫy sự khổ, mà nguyên nhân được sinh ra (Janma) là do tác nghiệp (Pravrtti), tác nghiệp làm cơ sở cho phiền não (Dosa), phiền não là căn bản của vô tri (Mithyajnana). Vậy nên muốn lìa khổ phải tiêu diệt vô tri, tiêu diệt vô tri tức là tới cảnh-giới ăn-vui giải-thoát (Nihsreyasa). Lý thuyết này tương tự với thuyết 12 nhân duyên trong Phật giáo. Về phương thức nghị luận, phái này chia làm 5 giai đoạn: Tông, Nhân, Dụ, Hợp, Kết thì sau này Trần Na cải tạo thành luận lý học Phật giáo.

2/ Phái Vaisesika (phái Thắng luận) chủ trương thuyết Thanh thường trụ (âm thanh thường còn) đứng trên lập trường tự nhiên triết học để giải thích vạn hữu. Khai tổ là Kanada (Ca-Na-Đà) tức Kanadabhuj có nghĩa là "Ông tiên ăn cơm". Kanada còn được mệnh danh là "Người theo thuyết nguyên tử" vì Kana còn có nghĩa là "nguyên tử". Ông sống vào khoảng thế kỷ II trước công nguyên. Tương truyền ông viết Vaisesika-sutra, gồm có 370 câu. Nhưng có nhà nghiên cứu cho kinh này hình thành vào khoảng thế kỷ I/II công nguyên, và đến khoảng thế kỷ V công nguyên về sau mới có nhiều nhà chú giải.

Về thuyết nguyên tử, phái này cho rằng thế giới mà con người tồn tại thực ra là do những nguyên tử (Paramanu = cực vi) vật chất tạo ra. Nguyên tử cực vi và không thể chia cắt được. Nguyên tử hình cầu (Parimandala) tồn tại vĩnh viễn, chẳng bao giờ thay đổi. Những vật xung quanh ta do nguyên tử tạo thành chỉ tồn tại tạm thời, luôn luôn biến đổi. Nguyên tử kết hợp theo cách sau đây: 2 nguyên tử kết hợp với nhau thành một "cặp bài trùng nguyên tử", cặp bài trùng này là nguyên tử con (Dvyanuka), nguyên tử con do hai nguyên tử cha mẹ sinh ra. Ba "cặp bài trùng" hợp lại thành nguyên tử cháu (Tryanuka). Nguyên tử cháu này nhỏ li ti như hạt bụi, mắt thường cũng có thể trông thấy được. Cứ như vậy cho đến 15, 16... ngày càng nhiều và hình thành thế giới muôn màu muôn vẻ mà con người sinh sống.

Hình thái cơ bản nhất mà nguyên tử tồn tại đó là bốn dạng vật chất: Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Địa màu xanh, vị đắng, không mùi, không có nóng lạnh. Thủy trong như pha lê, sờ có cảm giác lạnh, ẩm ướt. Hỏa sáng chói, sờ nóng. Phong vừa phải không nóng cũng không lạnh (Vaisesika-sutra.II.I, 1-4).

Vậy động lực gì thúc đẩy nguyên tử kết hợp với nhau để tạo ra thế giới này? Vaisesika cho rằng có một "qui luật không thể trông thấy" (Adrsta) tác động, buộc mọi vật trên đời phải tuân theo. "Quy luật không trông thấy" này được hiểu như là quy luật của giới tự nhiên, ví dụ như gió thổi, lửa nóng, nam châm hướng về phía bắc, động đất... (Vaisesika sutra. V.2-7, 13, 17). Về sau "qui luật không thể thấy" này được gán cho đạo đức ví dụ như thiện ác.

Về phương pháp nhận thức, Vaisesika sutra có nêu ra 6 phạm trù: Thực cú nghĩa, Đức cú nghĩa, Nghiệp cú nghĩa, Đồng cú nghĩa, Dị cú nghĩa và Hòa hợp cú nghĩa. Trước hết chỉ quan sát vạn hữu ở phần cụ thể, gạt bỏ phần tính chất, vận động và trạng thái, mục đích để đạt tới khái niệm thực thể của vạn hữu. Để thích ứng với nguyên lý đó, nên trước hết thành lập Thực-cú-nghĩa (Dravya Padartha). Gác bỏ khái niệm của thực thể và vận động chỉ quan sát về khái niệm tính chất hay thuộc tính của vạn hữu, để thích ứng với nguyên lý này nên thành lập ra Đức-cú-nghĩa (Guna Padartha). Chỉ thích ứng với nguyên lý thực tại để hợp với khái niệm vận động nên thành lập ra Nghiệp-cú-nghĩa (Karma Padartha). Tóm lại, vạn hữu đều do 3 nguyên lý "Thực, Đức, Nghiệp" (Thể, Tướng, Dụng) kết hợp lại mà thành lập. Căn cứ vào 3 nguyên lý ấy mà quan sát sự quan hệ trong nơi vạn hữu, nếu trường hợp 3 nguyên lý ấy cũng quan hệ với nhau nên thành lập ra Đồng-cú-nghĩa (Samanya Padhartha). Nếu 3 nguyên lý ấy ở trong trường hợp phản đối nhau, nên thành lập ra Dị-cú-nghĩa (Visesa Padartha). Năm nguyên lý kể trên nếu ở trong trường hợp liên kết với nhau, nên lại thành lập ra Hòa-hợp-cú-nghĩa (Samavaya Padhartha). Sáu nguyên lý kể trên tức là 6 phạm trù căn bản để thuyết minh và lý giải vạn hữu.

Về phương diện nhân sinh quan phái này cho con người được thành lập bởi 8 yếu tố. Trước hết là yếu tố "Atman", thực thể của nó thì bất sinh bất diệt. Thứ hai là "Ý" (Manas) (từ nay còn dịch thành Mạt-na thức, thức thứ 7 trong Bát thức. NDH), y là cơ quan liên lạc giữa Atman và ngũ căn, ngũ căn thì hoàn toàn do vật chất tạo thành: "Nhãn căn" do Hỏa-đại; "Nhĩ căn" do Không-đại; "Tỵ căn" do Địa-đại; "Thiệt căn" do Thủy-đại; "Thân căn" do Phong-đại tạo thành. Đối tượng của ngũ căn là ngũ trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Atman là trung tâm, còn các cơ quan khác chỉ phụ thuộc để nhận thức và hành động. Yếu tố sau hết là Nghiệp lực (Adrsta), bởi nghiệp lực huân tập nên bị luân hồi, muốn thoát khỏi luân hồi cần phải diệt nghiệp lực, muốn diệt nghiệp lực cần phải tu trì khổ hạnh để mong đạt tới cảnh giới thuần túy của Atman, đó là lý tưởng của giải thoát.33

Hai phái Nyaya và Vaisesika quan hệ mật thiết nhau.

3/ Phái Samkhya (phái Số-luận). Khai tổ là Kapia (Ca-Tỳ-La). Phái này chủ trương Nhị-nguyên-luận là tinh thần và vật chất. Vật chất là yếu tố để thành lập vạn vật, đối lập với vật chất là vô số linh hồn (tinh thần). Linh hồn thì hoạt động, tự do kết hợp với vật chất để tạo thành sinh vật. Bản chất của linh hồn thì thuần túy chủ quan, không biến động. Vật chất là khách quan luôn luôn biến hóa dao động, nương tựa 3 nguyên nhân là "Sattva" (Hỷ), "Rajas" (Ưu) và "Tamas" (Ám). Ba nguyên chất này còn gọi là 3 "Guna" (Đức). Căn cứ vào sự phối hợp của 3 đức này để thuyết minh hiện tượng vạn hữu. Thí dụ: ba đức ấy nếu cứ hai đức một chi phối lẫn nhau là động lực tạo thành 3 đức ấy đứng ở trạng thái bình hành là nguyên nhân tiêu diệt".34

Về nhận thức luận, Samkhya cổ điển khẳng định con người có thể nhận thức thế giới chung quanh. Có 3 phương pháp giúp con người nhận thức đúng đắn, đó là Tri giác, Suy luận và Kinh điển (hoặc tiếng nói của những bậc có quyền uy).

Tri giác (Hiện lượng) la "sự xác định của cảm quan khi tiếp xúc với bên ngoài".

Suy luận (Tỷ lượng) là từ cái đã biết suy ra cái chưa biết.

Kinh điển (Thánh ngôn lượng, Aptavacana) dựa vào Veda nhưng không cho Veda duy nhất đúng.

Mục đích của nhận thức không phải là để cải tạo thế giới bên ngoài mà chính là nhằm giải thoát nỗi khổ của con người. Samkhya cho rằng con người bản chất là khổ. Có 3 loại khổ.

1/ Khổ bên ngoài (Y ngoại khổ, Adhibhautika duhkha), khổ do người khác, do thú dữ tấn công...

2/ Khổ bên trong (Y nội khổ, Adhyatmika duhkha). Khổ bên trong còn chia làm hai loại: Khổ về sinh lý, đau đớn thể xác; Khổ về tâm lý, đau đớn về tinh thần.

3/ Khổ tự nhiên (Y thiên khổ, Adhivadika duhkha), khổ do thời tiết, khí hậu, sấm chớp, giông tố...

Muốn giải thoát khổ thì lĩnh hội 25 phạm trù (25 đế) theo thuyết trong nguyên nhân có kết quả, sẽ tìm thấy khổ là do sự kết hợp giữa Purusa và Prakrti ban đầu (về sau thể hiện ở tinh thần và thể xác). Do đó, phải tách rời tinh thần và thế xác như Purusa và Prakrti ban đầu, hoặc là tinh thần phải vượt lên thể xác như Purusa sáng tạo ra hết thảy mọi thứ trên đời chứ không phải ngược lại.

Kinh điển của phái Samkhya là Kinh Số luận (Samkhya sutra) thường được cho là tác phẩm của Kapila (350-250 trước công nguyên), gồm 6 quyển 265 tụng, có người cho không phải của Kapila. Có người cho kinh này hình thành vào thế kỷ VIII trước công nguyên, định hình vào thế kỷ IV công nguyên, về sau phát triển. Theo phái này Prakrti (tự tính) là bản nguyên của vũ trụ, là mẹ; Purusa (Thần ngã) là cha; tạo ra vạn hữu như mẹ và cha sinh ra con cái. Samkhya phát triển qua ba giai đoạn:

- Samkhya nguyên thủy: duy vật, vô thần.

- Samkhya cổ điển chủ yếu dựa vào Samkhya kanka (Số luận tụng) của Isvarakrsna (300-400 công nguyên): Nhị-nguyên-luận.

- Samkhya hậu kỳ chủ yếu dựa vào Samkhya sutra (Số luận kinh): duy tâm, hữu thần.

Thế giới quan của phái Samkhya nguyên thủy cho rằng vũ trụ ban đầu là Tự tính (Prakrti, Pradhana). Tự tính vốn là vật chất ban đầu (Mula-prakrti). Vật chất ban đầu chia làm hai phần: phần không biến đổi (Avyakta) còn được gọi là Thần ngã (Purusa) và phần biến đổi (Vyakta). Vật chất ban đầu có 3 thuộc tính (Đức, Guna): Sattva, Rajas, Tamas mà có người hiểu là Sáng, Động, Tối hay Lý, Tâm, Đức. Từ Thần ngã phối hợp với 5 nguyên tố Địa Phong Hỏa Thủy Không sản sinh ra Thống giác (Mahat), từ Thống giác sản sinh ra ý thức tự ngã hay còn gọi là Ngã mạn (Ahamkara). Tám nguyên tố trên được xem là biến thái của Tự tính (Prakrti). Từ biến thái này hình thành 10 cảm quan. Mười cảm quan chia thành 5 giác quan cảm giác và 5 cảm quan hành động. Năm cảm quan cảm giác là tai, thân, mắt, lưỡi, mũi; 5 cảm quan hành động là mồm, tay, chân, cơ quan bài tiết, cơ quan sinh dục. Mười cảm quan này do 5 nguyên tố thổ Hỏa, Không, Địa, Thủy, Phong tạo thành Tâm (Citta) sinh ra và tồn tại cùng với 10 cảm quan. Tương ứng với 5 giác quan là 5 nguyên tố tinh Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Khi nào vũ trụ kết thúc thì tất cả đều trở về với vật chất ban đầu tức Tự tính (Mula-prakrti).

Samkhya cổ điển giải thích sự sinh thành của vạn vật không giống như Samkhya nguyên thủy. Samkhya cổ điển cho rằng Thần ngã (Purusa) là tinh thần thuần túy, tồn tại độc lập song song với Prakrti. Do đó Samkhya cổ điển rơi vào nhị-nguyên-luận.

Samkhya hậu kỳ không còn xem Thần ngã là thực thể tinh thần độc lập tồn tại bên cạnh Prakrti. Thần ngã trở thành vị thần tối cao, trở thành Phạm Thiên, sáng tạo ra hết thảy. Samkhya đã tôn giáo hóa nên có người gọi là "Samkhya Ấn Độ giáo".35

Học thuyết Samkhya rất cao siêu và phức tạp vì đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, cho nên nhiều nhà nghiên cứu Đông Tây lý giải khác nhau nhiều khi mâu thuẫn nhau. Trên đây chỉ nhằm dẫn tư liệu để chứng minh nhận thức luận Samkhya một phần nào để đối chiếu với Phật giáo mà thôi.

4/ Phái Yoga (phái Du già). Trong Rig Veda, Yoga có từ căn Yuj có nghĩa là "cái ách" để tròng vào cổ con trâu, về sau hiểu là "liên hệ", "kết hợp"... Trong Kinh Phật sở hành tán cho là Arala Kalama và Uddaka Ramaputta, hai vị thầy đầu tiên của thái tử Siddhartha (tức Thích Ca) là những người đầu tiên sáng lập ra phái Yoga. Nhưng Patanjali (Bát-Tử-Xà-Lê) làm Yoga sutra (Du già kinh) vào khoảng thế kỷ I trước công nguyên, nên được coi là khai tổ của phái Yoga. Du-già kinh gồm có 4 chương 194 bài kinh. Về sau có nhiều người chú giải thêm vào. Phái Yoga ở Ấn Độ còn gọi là Yogacara (Du già hành phái) tức Duy Thức luận; Mật giáo ở Trung Quốc còn gọi là Du già tông.

Phái Yoga đưa ra Isvara (Tự Tại Thiên) làm vị thần chúa tể, là động lực tác động đến vật chất ban đầu hình thành vạn hữu.

Về nhận thức luận, phái Yoga chủ trương Tâm (Citta) có 5 tác dụng:

- Nhận thức chính xác (Chính tri, Pramana) có ba loai: tri giác, suy luận, kinh điển hoặc lời nói của những bậc quyền uy.

- Nhận thức sai lầm (Điên đảo, Viparyaya) là nhận thức không có căn cứ chính xác.

- Tưởng tượng (Phân biệt, Vikalpa) là loại nhận thức có thể đúng có thể sai.

- Mê ngủ (Thùy miên, Nirdra). Trong khi ngủ, Tâm vẫn hoạt động, giữa ngủ và thức liên quan chặt chẽ với nhau.

- Ký ức (Smrti) là sự tái hiện của tri giác, kinh nghiệm quá khứ chưa bị mất đi.

Phái Yoga cho rằng nhận thức là hoạt động của Tâm. Hoạt động của Tâm không phải chỉ do Tâm mà có, Tâm liên quan chặt chẽ với hành vi (nghiệp) của con người. Mọi hành vi trọng hiện tại không thể không liên quan với hành vi trong quá khứ, bởi vì một hành vi xảy ra bao giờ cũng lưu lại dấu vết trong Tâm. Dấu vết này sẽ biểu hiện ra bằng hành vi trong hiện tại hay tương lai. Chính hành vi đã tạo ra nghiệp chướng, điều bất hạnh của con người. Có 5 nguyên nhân: Vô minh(Avidya), Tự ngã ý thức (Asmita), Tham (Raga), Sân (Dvesa), Ham sống (Abhinivesa).

Phái này chú trọng tu thiền định để cầu giải thoát. Phương pháp thực tu gồm 8 điều (Bát chi hành pháp):

1. Cấm chế (yama) giữ 5 giới điều: Không sát sinh (Phi bạo lực, Ahimsa), không trộm cắp (Bất đạo, Asteya), không gian dâm (Bất dâm, Brahmacarya), không nói dối (Chân thực, Satya), không tham lam (Không giữ của riêng, Vô sở hữu, Aparigraha).

2. Khuyến chế (Niyama) cần phải làm 5 việc: 1/ Thanh tịnh (Sauca) tức giữ gìn thân thể sạch sẽ và ăn uống thanh tịnh, trong lòng thanh tịnh. 2/ Mãn định (Santasa) tức tri túc không mưu cầu những gì không nhất thiết phải có. 3/ Khổ hạnh (Tapas) chịu đựng được đói rét, cực khổ, trai giới. 4/ Tụng niệm (Isvadhiyaya) tức học tập kinh điển và niệm âm thanh thần thánh OM. 5/ Niệm thần (Svara pranidhana) luôn luôn tỏ lòng thành kính đối với thần thánh.

3. Tọa pháp (Asana) là cách ngồi để thân thể cường tráng. Có hàng chục thế ngồi về sau được hệ thống, phát triển trong Hatha Yoga. Thường gặp là thế hoa sen, kiết già, cát tường...

4. Điều tức (Pranayama) để làm chủ hô hấp để thiền định: hít vào, thở ra và nín thở một cách nhẹ nhàng không câu thúc.

5. Chế cảm (Pratyakara) tức chế ngự tư tưởng không cho phân tán, không để các giác quan bị mê hoặc. Tai không nghe tiếng ồn, mắt không thấy màu sắc... đang diễn ra bên ngoài, tức thống ngự ngũ căn. Tâm làm chủ được giác quan.

6. Chấp trì (Dharana) tức tập trung tư tưởng vào một điểm nào đó ví dụ như đan điền, tượng thần...

7. Tĩnh lự (Dhyana) tức thiền định để thống nhất cái tâm vào đối tượng bên ngoài làm cho chủ, khách thể hòa đồng.

8. Đẳng trì (Samadhi) tức Tam muội để tâm trở thành vắng lặng, như hư không, chỉ còn là cảnh giới sán lạn, tức là chứng được tam muội, trạng thái cao nhất của thiền định, chỉ còn là một "Thần ngã" giải thoát tự tại.

Tóm lại, Yoga là một tín ngưỡng dân gian 3000 năm trước và phát triển liên tục mãi đến ngày nay.36

5/ Phái Mimamsa (phái Nhĩ-Man-Tát, Di-Man-Tát) có nghĩa là "khảo cứu suy xét" vì khảo cứu kinh Veda, còn được gọi là phái Thanh thường trụ. Tương truyền người sáng lập phái này là Jimini (Jaimini) đã sáng tác Mimamsa Sutra. Nhưng có người cho Jimini không phải là tác giả kinh này mà kinh này hình thành vào khoảng đầu công nguyên đến thế kỷ III. Kinh này gồm có 12 thiên 60 chương 915 bài kinh. Về sau nhiều người chú giải.

Về mặt triết học, phái Mimamsa thừa nhận thế giới khách quan, cho rằng thế giới do cái gọi là "Phạm trù" (Cú nghĩa, Padarth) tạo ra. Phạm trù vừa có tính vật chất vừa có tinh thần. Các phái Mimamsa quan niệm về phạm trù không giống nhau, tuy nhiên tựu trung cả thảy có 9 phạm trù:

1. Thực thể: địa, phong, hỏa, thủy, không, thời gian, không gian, linh hồn (Ngã, Atman), Tâm...

2. Tính chất: sắc, hương, vị, xúc, số, lượng...

3. Vận động: hướng thượng, hướng hạ, co, duỗi...

4. Phổ biến.

5. Phi tồn tại.

6. Nội thuộc.

7. Tương tự.

8. Năng lực.

9. Số

Thuyết Thanh thường trụ của phái Mimamsa cho là thanh âm tồn tại vĩnh viễn. Đó là một phái trong triết học ngôn ngữ của Ấn Độ, nhấn mạnh mỗi câu mỗi chữ trong Veda đều là lời của thánh thần truyền đạt (thiên khải) cho nên mỗi câu mỗi chữ đều là chân lý. Nhưng Mimamsa cho rằng âm thanh có 3 đặc điểm: một là phát ra âm thanh, hai là bản thân nó có ý nghĩa nhất định, ba là nó đại diện cho sự vật nào đó. Mimamsa không quan niệm rằng mọi thanh âm đều là sự hiển hiện của Brahman, mỗi âm thanh đều có sự vật tương ứng với nó, nó tồn tại vĩnh viễn và lúc cần thì hiển hiện ra.

Về nhận thức luận, Mimamsa xác định rằng mục đích cao nhất của con người là nắm bắt cho bằng được cái gọi là "pháp" (dharma) của Veda. Mimamsa cho rằng chỉ trừ nhận thức theo kiểu nhớ lại cái gì trước đó thì mới không chính xác, còn tất cả mọi loại nhận thức đều chính xác. Sự vật khách quan được cảm giác của con người phản ảnh cho nên cái có được từ khách thể, chủ thể và quá trình nhận thức sao lại không thể tin cậy được? Không thể vì ảo giác nào đó mà phủ nhận giá trị của nhân thức. Ảo giác thực ra cũng là phản ảnh cái có thực chứ không phải là cái gì hoàn toàn không tồn tại. Sai lầm của việc nhìn dây thừng tưởng là con rắn thực ra là lầm lẫn giữa nhận thức cái đã qua và cái hiện tại. Mimamsa phản bác những ai cho rằng nhận thức do tri giác đem lại là không có thật. Mimamsa quan niệm rằng nguồn gốc và phương pháp nhận thức có được từ 6 cách sau đây:

1. Tri giác. "Tri giác sở dĩ có được là do tiếp xúc giữa đối tượng khách quan và giác quan" (Mimamsa sutra I.1,4). Quá trình nhận thức diễn ra như sau: sự vật bên ngoài tiếp xúc với giác quan, từ giác quan đến tâm rồi từ tâm đến linh hồn. Ấn tượng của sự vật bên ngoài hiện ra từ linh hồn. Theo Mimamsa có nhiều linh hồn chứ không phải một linh hồn.

2. Suy diễn là từ cơ sở tri giác, đem hiểu biết sự vật này suy ra hiểu biết về sự vật khác.

3. So sánh là từ kinh nghiệm tương tự ở sự vật này so sánh với sự vật khác. Sự so sánh này không tiếp xúc với giác quan.

4. Suy luận xác định (suy định) tức là dựa vào một giả thiết không có thực tế để nhận thức một hiện tượng nào đó.

5. Chứng ngôn không phải là nhận thức do giác quan đem lại mà đó chính là ngôn ngữ thiên khải từ Veda mà ra. Mimamsa vừa thừa nhận nhận thức có được từ Veda vừa thừa nhận ngôn ngữ của những người đáng tin cậy.

6. Phi tồn tại (vô thể lượng, abhava) là nguồn gốc có được từ một thực thể có tính phủ định, nguồn gốc nhận thức này không tiếp xúc trực tiếp với giác quan và cũng không có đặc tính gì cả".37

Phan Văn Hùm trình bày thuyết Lục lượng như sau:

1. Hiện lượng = Pratiyaksala tức như évidence trong triết học Tây phương.

2. Tỷ lượng = Anumana.

3. Thí dụ lượng = Upamana, tức analogie, như muốn biết con bò rừng ra sao lấy con bò nhà mà thí dụ.

4. Nghĩa chuẩn lượng = Arthapatti tức signification, như nói: pháp vô ngã, thì chuẩn định mà biết rằng: pháp vô thường.

5. Thánh giáo lượng = Sabda.

6. Vô thể lượng = Abhava: chữ abhava nghĩa là vắng mặt (absence). Như thấy trời không mây đoán biết đất ruộng tất khô.38

Tóm lại, phái Mimamsa thừa nhận thế giới là tồn tại khách quan mà con người có thể nhận thức được. Phương pháp nhận thức là Lục lượng, một loại lô-gíc mà sau này Trần Na phái Duy Thức trong Phật giáo sẽ tiếp thu và phát triển.

6/ Phái Vedanta (phái Phệ Đàn Đà). Vedanta nghĩa là "kết thúc của Veda" hay "mục đích cuối cùng của Veda", chủ yếu nghiên cứu các Upanisad. Khai tổ là Badarayana (Bà-Đạt-La-Da-Na) sống vào khoảng đầu công nguyên, tác giả của Vedanta sutra; nhưng người ta cho kinh này hình thành vào khoảng năm 200-450 công nguyên, gồm 4 thiên 16 chương, 555 bài kinh. Nội dung chủ yếu nói về Brahman và Atman, phê phán các thuyết Samkhya, Vaisesika, một số phái Phật giáo (Duy Thức...), luận về nguồn gốc của nhận thức...

Vedanta chủ trương Brahman là vị "Thần Chúa tể tối cao" (Paramesvara) còn gọi là "Ngã tối cao" (Paramatman). Brahman là Mẹ của thế giới (yoni), là nguyên nhân cuối cùng của sự hình thành, diễn biến và diệt vong của muôn vàn hiện tượng trên đời. Brahman là chất liệu và cũng là động lực của thế giới. Vedanta quan niệm Atman (Tiểu ngã, cá ngã) là tồn tại có thực. Atman còn được gọi là "Thần ngã" (Sarira), "Sinh mệnh ngã" (Jiva), là cơ thể đang sống. Atman thuộc về tinh thần, về hiểu biết, là chủ thể nhận thức, chủ thể hành động. Atman không sinh, không diệt, tồn tại vĩnh viễn. Atman vừa là Brahman vừa không phải là Brahman. Tu hành sẽ đưa Atman trở về Brahman, đó là giải thoát vĩnh viễn. Vedanta cũng chia thành nhiều phái. Có phái cũng dùng Tri giác, Suy diễn và Chứng ngôn làm phương pháp nhận thức nhưng lý giải nội dung không hoàn toàn giống với phái Mimamsa.39

Trên đây đã trích dẫn, lược thuật, tập hợp một số tư liệu về Lục sư, Lục phái. Không phải nhằm nghiên cứu toàn diện Lục sư và Lục phái mà chỉ tập hợp một số tư liệu liên quan nhận thức luận để so sánh với nhận thức luận Phật giáo. Tư liệu của mấy nhà nghiên cứu dẫn trên không hoàn toàn nhất trí vì cũng phản ảnh nhận thức của từng người đối với các khái niệm, phạm trù, tư tưởng trong tư tưởng Lục sư và Lục phái nói riêng trong Veda, Brahman và Upanisad nói chung.

Theo tôi, về phương diện nhận thức luận thì có 4 giai đoạn chủ yếu:

- Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn các Veda khoảng 2000 hay 1500 trước công nguyên, nhận thức luận là nhận thức về cái Thiêng của Tự nhiên. Đối tượng nhận thức là Tự nhiên, mang tính chất trực quan và kinh nghiệm dẫn đến thuyết Vạn vật hữu linh.

- Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn các Brahmana và Upanisad khoảng 800 năm hay 700 năm trước công nguyên, nhận thức mang tính lý giải Veda nâng cao phát triển thành nhận thức về một Đấng Tối Cao Sáng Tạo thế giới. Đối tượng nhận thức là từ Tự nhiên đến Con Người do Đấng Tối Cao sáng tạo, mang tính Thần ý luận, hình thành Brahma và đạo Bà la môn.

- Giai đoạn thứ ba: giai đoạn các phái Sa môn khoảng 600 năm trước công nguyên phản đối Bà la môn giáo mà trong đó Phật giáo nổi trội nhất. Đối tượng nhận thức là Con Người sinh vật và xã hội với chủ đề Khổ và Giải thoát. Bản thể luận mang tính chất Vô Thần luận tức không thừa nhận có Đấng Tối Cao sáng tạo Con Người. Kinh bản trong thời gian này được cho là của Phật giáo nguyên thủy vẫn lấy trong Tam Tạng nhất là Tam Tạng Pali và một số kinh bản của các phái, nhưng rất khó tách biệt về niên đại do được biên tập muộn màn chủ yếu trong khoảng đầu công nguyên.

- Giai đoạn thứ tư: giai đoạn Tân Bà la môn giáo và Phật giáo Đại Thừa khoảng 200 năm hay 100 trước công nguyên. Tam Tạng Phật giáo định hình và thành văn bản phản ảnh nhận thức Đại Thừa về cả con Người lẫn Tự nhiên. Bản thể luận chuyển sang Hữu Thần luận bao quát cả vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan. Các sử thi như Mahabharata, Ramayana, các Purana (Vãng Thế Thư) phản anh bộ ba Brahma thần Sáng Tạo, Vishnu thần Bảo hộ, Siva thần Phá hoại. Phật giáo và Bà la môn giáo thâm nhập vào nhau.

Trong giai đoạn 3 và 4, lý luận nhận thức vẫn viện dẫn các khái niệm đã có trong giai đoạn 1 và 2, chủ yếu là giai đoạn 2. Có thể nói Lục sự, Lục phái và Phật giáo đều phát triển các tư tưởng của các Upanisad. Các Upanisad không thống nhất thì các phái minh giải và phát triển cũng không thống nhất. Cho nên ngay cùng một khái niệm mà các phái giải thích khác nhau. Như về Atman chẳng hạn, hoặc cho là Đại Ngã đồng nhất với Brahman, đồng nhất với Bản Thể hoặc cho là Tiểu Ngã đồng nhất với vạn hữu, đồng nhất với hiện tượng... trên đây đã dẫn giải.

Nhiều khái niệm cơ bản của Phật giáo nguyên thủy như Khổ, Dục, Diệt, Niết Bàn, Tứ đại, Ngũ uẩn, Nghiệp, Vô minh, Hành, Lục xứ, Sinh tử... đều đã xuất hiện trong các Upanisad và Lục phái, Lục sư, chẳng qua lý giải khác nhau dẫn đến kết luận khác nhau mà thôi.

Do tình hình tư liệu kinh Phật cũng như các công trình nghiên cứu phức tạp cho nên tôi không xem nhận thức luận như của Phật giáo nói chung mà cũng không phân biệt thành Phật giáo nguyên thủy, Bộ phái, Tiểu Thừa, Đại Thừa mà chỉ phân thành Phật giáo trước Đại Thừa và Đại Thừa lấy ranh giới vào khoảng đầu công nguyên.

Trước tiên hãy bàn về nhận thức luận của bản thân Thích Ca Mầu Ni.

Các nhà nghiên cứu tương đối nhất trí Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên là cống hiến của riêng bản thân Thích Ca Mầu Ni.

Khi Thích Ca Mầu Ni bắt đầu xuất gia vào Tuyết Sơn thì đã tinh thông kinh điển Bà la môn giáo. Hai ông thầy dạy cho cách ngồi thiền và suy tư tức dạy cho phương pháp tập trung tư tưởng và phương pháp nhận thức. Về phương điện nhận thức, theo K. Taiken trong Kinh Quá-khứ-Hiện-Tại-nhân-quả và kinh Phật Sở Hành Tán đều chép Arala Kalama từng nói với Thích Ca Mầu Ni về lịch trình của sự sống, chết. "Thứ tự do ông (Arala) đưa ra là: Minh Sơ - Ngã Mạn - Si Tâm - Nhiễm Ái - Ngũ Vì Trần Khí (ngũ duy) - Ngũ Đại (nhục thể) - Phiền Não - Sinh Lão Tử Ưu Bi Khổ Não".40 K. Taiken cho rằng như vậy cũng không khác gì Số-Luận-Sư, Mười hai nhân Duyên Quan của Phật cũng có thể đã bắt nguồn từ đấy.

Tư liệu này cho thấy đối tượng nhận thức ngay từ ban đầu của Thích Ca Mầu Ni là Con Người Khổ chứ không phải Tự nhiên Thiêng.

Đối tượng nhận thức là Con Người là của cả phong trào sa môn sau Upanisad, không riêng gì Thích Ca Mầu Ni.

Vấn đề cơ bản là Sinh Tử. Trong kinh Phật đã nói về 4 lần ra vườn hoa hay ra cửa thành của Thái tử Tất Đạt Đa.

Theo Trường Bộ Kinh thì Thái tử Tất Đạt Đa đi xe ra vườn hoa gặp một ông già. Thái tử hỏi, người đánh xe giải thích già nghĩa là không bao lâu nữa sẽ chết. Thái tử lại hỏi: Ta đây cũng không thoát khỏi già ư? Người đánh xe khẳng định Thái tử cũng như anh ta không ai thoát khỏi già. Lần thứ hai, Thái tử gặp người bệnh. Cũng có cuộc đối thoại tương tự và người đánh xe lại khẳng định Thái tử cũng như anh ta không ai thoát khỏi bệnh. Lần thứ ba, gặp hỏa táng người chết. Lại cũng một cuộc đối thoại tương tự mà người đánh xe cũng khẳng định anh ta và Thái tử cũng không thoát khỏi chết. Lần cuối cùng gặp một tu sĩ. Tu sĩ giải thích cho Thái tử ông ta là người thoát ly gia đình xả thân cho đời sống tôn giáo, đời sống yên tĩnh, làm việc tốt, đức hạnh đáng kính, không làm hại người khác, tốt với mọi hữu tình. Thái tử nhận định tu sĩ là một siêu nhân vì đức hạnh toàn thiện.

Xin lưu ý dù các nguồn tư liệu khác nhau kể cả các phù điêu Phật giáo đều nêu ra 4 cuộc gặp gỡ dẫn đến nhận thức của Thích Ca về Con Người Khổ là: Lão-Bệnh-Tử-Tu chứ không phải Sinh-Lão-Bệnh-Tử.

Khi ngồi dưới gốc cây Bồ đề thì Thích Ca suy nghĩ những gì? Kinh Tạp A Hàm đã ghi lại lời Thích Ca Mầu Ni giải thích cho đồ đệ như sau:

"Các Tỳ khưu! Xưa kia, khi ta còn là Bồ Tát, chưa thành chính giác, ta tự nghĩ: Cõi đời này thật do những nỗi lo khổ (kiccha) ràng buộc; sinh, già, chết để rồi lại sinh ra, và vẫn chưa biết thoát ly cái khổ của già, chết thì làm sao biết được cái khổ già, chết để thoát ly? Lúc đó ta tự hỏi: Nhờ đâu có già, chết? Do đâu có già, chết?

Bấy giờ nhờ sự tư duy chính đáng (Yon so manasikara) mà ta phát tri hiểu biết đích thực (abhisamaya) như vầy: Nhờ có sinh mà có già, chết; do sinh làm duyên mà có già, chết.

Lúc đó ta lại tự nghĩ: Nhờ đâu mà có sinh, có hữu, có ái, có thụ, có xúc, có lục nhập, có danh sắc, cho đến do đâu mà có danh sắc?

Bấy giờ nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát tri hiểu biết đích thực như vầy: Do có thức mà có danh sắc, nhờ thức làm duyên mà có danh sắc.

Rồi ta lại tự hỏi: Do đâu mà có thức, lấy gì làm duyên mà có thức?

Bấy giờ ta tự nghĩ, thức này là vật có thể trở lại, vượt lên trên danh sắc, chỉ nhờ vào đó (chúng sinh) có già, sinh, chết, và tái sinh, tức lấy danh sắc làm duyên mà có lục nhập, lấy lục nhập làm duyên mà có xúc v.v... như vậy thuần là nguyên nhân của khổ uẩn.

Lớn thay những nguyên nhân ấy! Thế là với ta, chưa từng nghe pháp ấy mà sinh mắt, sinh trí, sinh tuệ, sinh sáng, sinh ánh sáng.

Bấy giờ ta lại tự nghĩ, làm thế nào không có già, chết? Cái gì diệt thì già, chết diệt?

Rồi nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy: Không sinh thì không già, chết; sinh diệt thì già, chết diệt.

Lúc đó ta lại tự nghĩ, làm thế nào có được không sinh, không hữu, không thủ, không ái, không thụ, không xúc, không lục nhập, không danh sắc, cho đến cái gì diệt thì danh sắc diệt?

Rồi nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy: không có thức thì không có danh sắc, thức diệt thì danh sắc diệt.

Bấy giờ ta lại tự nghĩ: Làm thế nào để không có thức? Cái gì diệt thì thức diệt?

Rồi nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy: Không có danh sắc thì không có thức, danh sắc diệt thì thức diệt.

Lúc đó ta lại tự nghĩ, cái đạo mà ta vừa ngộ có thể đạt được, tức là, danh sắc diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, do danh sắc diệt mà lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, cho đến... như vậy là thuần diệt những khổ uẩn.

Lớn thay sự tiêu diệt ấy! Thế là, với ta, chưa từng nghe pháp ấy mà sinh mắt, sinh trí, sinh tuệ, sinh sáng, sinh ánh sáng. Điều này cũng giống như một người đang tha thẩn trong cánh đồng hoang bỗng phát hiện con đường mòn của người xưa đã đi và cứ đi theo lối mòn ấy mà thấy được làng mạc và thành quách của người xưa và nhà cửa của người xưa với vườn, sân, rừng cây, ao sen và tường hoa v.v..."41

Đoạn văn trên đây dẫn theo K. Taiken, tôi nhấn mạnh các phạm trù sinh, hữu, ái, thụ, xúc, lục nhập, danh sắc, thức. Đó là 8 nhân duyên, không phải 9, 10 hay 12 như trong các kinh Phật khác.

Đoạn văn này tóm tắt cô đọng và rõ ràng nhất nhận thức luận của Thích Ca Mầu Ni (đành chấp nhận như vậy để nghiên cứu).

Đối tượng nhận thức của Thích Ca Mầu Ni là "nỗi lo khổ ràng buộc sinh, già, chết để rồi lại sinh ra". Và Thích Ca Mầu Ni nhấn mạnh lặp đi lặp lại nhiều lần "nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực". Tư duy chính đáng tức đúng đắn đó dẫn đến kết quả "thế là, với ta, chưa từng nghe pháp ấy mà sinh mắt, sinh trí, sinh tuệ, sinh sáng, sinh ánh sáng", khẳng định đây là phát minh độc đáo của Thích Ca Mầu Ni sau 49 ngày tập trung tư tưởng suy nghĩ dưới gốc cây bồ đề, một phát kiện chưa từng ai đã có!

Trong tư liệu về bốn lần gặp gỡ nói lên tác động đầu tiên do quan sát được Con Người lão tử mà dẫn đến ý thức về Vô thường. Nếu nói theo ngôn ngữ lục lượng thì đây là hiện lượng và tỷ lượng. Hiện lượng là nhìn thấy một người bệnh, một người già, một người chết. Rồi so sánh con người đó với bản thân và người khác để đi đến nhận thức chung Con Người là đều phải trải qua sinh lão bệnh tử thì đó là tỷ lượng. Nhận thức của Tất Đạt Đa đến đó. Và khi thấy con người tu sĩ cũng là hiện tượng và rút ra kết luận xuất gia thì không phải là tỷ lượng mà là Thánh lượng chăng. Đó là vấn đề thứ nhất, vấn đề, sự kiện cơ bản khiến cho Tất Đạt Đa suy nghĩ về Sinh Tử. Ngồi thiền theo kiểu Tuyết Sơn và đã được Arala Kalama dạy về nguyên nhân sinh tử mà Tất Đạt Đa không chấp nhận, bèn từ giã Tuyết Sơn đến ngồi dưới gốc cây bồ đề tự mình suy nghĩ chính đáng mới có kết luận về 8 nguyên nhân sinh tử. So sánh 8 nguyên nhân đó với các nguyên nhân mà Arala Kalama dạy và với các lập luận về sinh tử của Lục sư Lục phái sẽ thấy sáng tạo riêng của Thích Ca Mầu Ni.

K. Taiken đã giải thích mối liên quan đó như sau:

"Nếu quả thật như thế thì duyên-khởi-quan của Phật rốt cuộc cũng chỉ là sản vật đã được cải tạo từ giáo thuyết trên đây mà thôi. Tức Vô minh là Minh sơ gọi khác đi; Hành là tên khác của Ngã mạn; Thức là Si tâm đã được nhất-ban-hóa; Ái, Thủ là Nhiễm ái; Hữu tức Ngũ vi trần khí và Ngũ đại và Xúc, Thụ là Tham dục sân huệ. Duy có điều đáng tiếc như đã nói ở trên, là không biết có thật tiên A-La-La (Arala. NDH) đã dựng thuyết này để truyền dạy cho những người tu hành ở thời đại Phật không, từ xưa, chưa có một sự ghi chép nào đã có thể chứng minh về điểm này, cho nên người ta không biết rõ mối liên lạc của nó. Dù sao thì điều đó cũng cho thấy thuyết này được lưu hành khoảng trước hay sau thời đại Phật, và, như thế, dĩ nhiên nó cũng là một tài liệu rất trọng yếu."42

Có hai vấn đề.

Một, nếu K. Taiken nói tư liệu đó không đủ tin cậy thì có tư liệu nào đáng tin cậy 100% đâu! Ngay đoạn tư liệu dẫn về Thích Ca Mầu Ni suy nghĩ dưới gốc cây bồ đề đã chắc gì đáng tin cậy vì thuyết nhân duyên đã nhiều vấn đề với 9, 10, 12 chi mà ở đây lại thêm một tư liệu chỉ có 8 chi! Nên đành phải tin dùng để nghiên cứu vậy.

Thứ hai, các khái niệm trong hệ thống của Arala Kalama và Thích Ca Mầu Ni đều đã có trong một số tư tưởng của Lục Sư, Lục Phái. Ngã mạn có trong phái Samkhya, chữ Phạn là Ahamkara có nghĩa là "ý thức tự ngã". Còn các khái niệm Tâm, Ái, Ngũ đại, Tham, Dục thì thấy khá phổ biến trong các tư tưởng từ thời đại Upanisad về sau. Vấn đề là mỗi phái định nội hàm của các khái niệm đó như thế nào và liên kết thành hệ thống như thế nào. Trên đây khi lược thuật tư tưởng Lục Sư, Lục Phái đã quan tâm đến vấn đề này.

Nếu giải thích như K. Taiken thì duyên khởi quan của Thích Ca Mầu Ni chỉ là biến tướng của duyên khởi luận Arala Kalama, không có gì là sáng tạo độc đáo như Thích Ca Mầu Ni đã khẳng định "chưa từng nghe pháp ấy" chỉ nhờ "sự tự duy chính đáng mà ta phát tri hiểu biết đích thực". Hóa ra, không có Phật giáo của Thích Ca Mầu Ni!

Thử phân tích duyên khởi luận Arala Kalama đối chiếu với duyên khởi luận 8 chi của Thích Ca Mầu Ni nói trên.

1. Minh sơ. Nếu giải thích là Vô minh như K. Taiken thì trong hệ 8 chi nói trên cũng như trong hệ 9 chi của Kinh Đại Duyên và hệ 10 của Kinh Đại Bổn đều không có chi Vô Minh. Chi Vô Minh chỉ có trong hệ 12 chi.

2. Ngã mạn. K. Taiken giải thích là Hành thì trong cả 3 hệ 8, 9, 10 chi đều không có Hành. Hành (sankara) là ý chí, nguyên động lực thúc đẩy hoạt động; trong hệ 12 thì Hành xếp sau Vô Minh. Cho nên nói Ngã Mạn là Hành cũng có thể được nhưng nội hàm không hoàn toàn giống nhau, vì Ngã mạn chỉ khẳng định ý chí, còn Hành diễn đạt hành động do ý chí thúc đẩy.

3. Si Tâm. K. Taiken giải thích là Thức. Có từ điển giải thích Si = Moha tức Vô minh. Si có nghĩa là tối tăm ngu si không nhận thức được. Tâm = Citta đã thấy trong phái Samkhya và Yoga là cái chỉ tổng thể tinh thần. Vậy cho Si Tâm là Thức liệu có đúng không? Dù sao chi Si Tâm không có trong các hệ 8, 9, 10, 12 của Phật giáo.

4. Nhiễm ái. K. Taiken giải thích là Ái, Thủ. Trong hệ 8 chi của tư liệu trên thì Ái là chi thứ 3, không có chi Thủ; trong hệ 9 chi thì Thủ là chi thứ 4, Ái thứ 5; trong hệ 10 chi thì Thủ là chi thứ 7; Ái là chi thứ 6.

5. Ngũ vi trần khí. K. Taiken giải thích là Hữu. Trong hệ 8 chi thì Hữu là chi thứ 2; trong hệ 9 chi là chi thứ 3; trong hệ 10 chi là chi thứ 8. Ngũ vi trần khí tức Ngũ duy = Panca tanmatrani của phái Samkhya chỉ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Trong các hệ 8, 9, 10 chi đều không có chi này. Nhưng trong hệ 8 chi có hai chi thứ 5 và thứ 6 là Xúc và Lục nhập; trong hệ 9 chi thì có chi thứ 7 là Xúc, không có chi Lục nhập; trong hệ 10 chi thì có chi thứ 3, thứ 4 là Lục nhập và Xúc. Lục nhập chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là cơ năng tiếp xúc với ngoại giới mà có lục trần (lục cảnh) Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. So với Arala Kalama thì Ngũ Duy chỉ đề cập Ngũ căn chưa có căn thứ 6: ý căn. Như vậy Ngũ Duy chỉ mới nói đến năm giác quan và năm công năng của nó: mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi nhận ra hương, lưỡi nhận biết vị, thân (tức da) cho biết xúc giác. Đó là cảm giác thuộc phản ánh luận đơn giản và cụ thể. Chưa có quan niệm về ý căn dẫn đến nhận thức về Pháp tức tư duy trừu tượng hình thành các khái niệm. Như vậy rõ ràng so với Arala Kalama thì nhận thức của Thích Ca Mầu Ni đã phát triển hơn, đã đưa ra ý và Pháp mang tính tư duy trừu tượng thoát khỏi phản ánh luận đơn thuần của Ngũ Duy.

6. Ngũ đại. K. Taiken giải thích Ngũ đại là nhục thể, là Xúc. Ngũ đại là Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không trong phái Samkhya. Trong Phật giáo thì dùng Tứ đại là Địa, Thủy, Hỏa, Phong cấu thành Sắc trong Ngũ uẩn. Trong hệ 8 chi có Danh Sắc là chi thứ 7; không có chi Ngũ đại; trong hệ 9 chi thì Danh Sắc thuộc chi thứ 8, không có chi Ngũ đại; trong hệ 10 chi thì Danh Sắc là chi thứ nhất, cũng không có chi Ngũ đại. Danh Sắc (Numarupa) gồm có Danh và Sắc. Danh là Thụ, Tưởng, Hành, Thức, chỉ tinh thần. Sắc là Địa, Thủy, Hỏa, Phong tức Tứ đại chỉ vật chất. Như vậy Danh Sắc chỉ Con Người sinh vật + Con Người tinh thần. Còn Ngũ uẩn thì các thánh tổ Con Người nói riêng hay chúng sinh nói chung. Tuy Phật giáo nói chúng sinh gồm mọi hữu tình tức động vật nhưng thực chất là nói về Con Người. Thích Ca Mầu Ni là một nhà Nhân học chứ không phải nhà Sinh vật học. Chính vì ngộ nhận Thích Ca Mầu Ni là nhà Sinh vật học cho nên mới có công án con chó có Phật tính hay không của Thiền Tông. Và cho lập luận chúng sinh bình đẳng của Phật giáo là mọi sinh vật đều bình đẳng tức con chó cũng bình đẳng với con người; trong khi thực chất Thích Ca Mầu Ni nói về sự bình đẳng của mọi người phản đối thuyết 4 đẳng cấp bất bình đẳng của Bà la môn giáo. Chính vì vậy khái niệm Danh Sắc cao cấp hơn, khoa học hơn khái niệm Ngũ Đại.

7. Tham Dục Sân Huệ. K. Taiken giải thích là Thụ. Trong hệ 8 chi thì Thụ là chi thứ 4; trong hệ 9 chi là chi thứ 6; trong hệ 10 chi thì là chi thứ 5. Thụ (Vedana) chỉ ảnh hưởng ngoại giới đối với vật chất và tinh thần con người nên giải thích Tham Dục Sân Huệ là đúng. Nhưng dùng các từ Tham Dục Sân Huệ là chỉ một số ảnh hưởng cụ thể đó trong khi Thụ là một khái niệm tổng quát, khoa học hơn.

8. Sinh lão tử ưu bi khổ não. K. Taiken không giải thích. Trong hệ 8 chi thì sau Lục nhập là Danh Sắc rồi Thức. Không có sinh lão tử ưu bi khổ não. Trong hệ 10 chi thì đó là chi thứ 10: Do duyên sinh, lão tử ưu bi khổ sầu não sinh.

Trình bày trên đây không phải luận bàn về duyên khởi luận Phật giáo đã bàn trong phần Bản thể luận. Trên đây chỉ đối chiếu so sánh để thấy sự dị đồng giữa tư tưởng Arala Kalama và Thích Ca Mầu Ni trong hai đoạn văn đã dẫn.

Kết luận: Không thể nói duyên khởi luận của Thích Ca Mầu Ni là một "sản vật đã được cải tạo" từ giáo thuyết của Arala Kalama. Tuy nhiên không thể nói duyên khởi luận của Thích Ca Mầu Ni hoàn toàn không liên quan gì đến giáo thuyết của Arala Kalama, hơn nữa không phải hoàn toàn không liên quan gì đến Lục sư, Lục Phái.

Nhận thức luận của Thích Ca Mầu Ni tập đại thành và thăng hoa thành một nhận thức luận riêng độc đáo, Thích Ca Mầu Ni gọi nhận thức luận của mình là "tư duy chính đáng" tức không phải là tư duy không chính đáng như tư duy của các "tà giáo" mà Ngài phê phán trong Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả... Kinh Phạm Võng phê phán 62 tà thuyết. Kinh Sa Môn Quả phê phán 6 nhà ngoại đạo. Phê phán là bước thứ nhất của tập đại thành. Phê phán nhận thức luận của các phái khác hình thành nhận thức luận của mình là con đường mà Thích Ca Mầu Ni đã đi trong 49 ngày đêm ngồi trầm tư (thiền định) dưới gốc cây bồ đề. Với sự rời bỏ Tuyết Sơn, Thích Ca Mầu Ni đã nhận thức được tư tưởng Bà la môn giáo không "chính đáng" tức không đúng. Nhưng chỉ sau 49 ngày đêm suy tư Ngài mới sáng tạo ra nhận thức luận mới đoạn tuyệt hoàn toàn với Bà la môn giáo sáng lập Phật giáo.

"Tư duy chính đáng" là nghiên cứu về Con Người dưới hai kích thước: sinh vật học và xã hội học. Về phương diện sinh vật học, Sinh lão bệnh tử hay nói gọn là Sinh Tử là kết luận quan sát cá thể và toàn thể loài Người đều nằm trong một quá trình diễn tiến không ngừng. Sinh rồi Tử, Tử rồi Sinh, như một qui luật không thể nào chống lại được. Từ đó rút ra tính Vô Thường của hữu tình. Và Con Người Khổ vì không cưỡng lại được qui luật Vô Thường đó. Từ đó đưa đến những lý luận về Vô Tự Tính, Vô Ngã. Về phương diện xã hội, Con Người thông qua Lục căn (tức chủ thể) tiếp xúc với Lục cảnh (tức khách thể tức ngoại giới tức xã hội) mà dẫn đến Ái, Dục đam mê thanh sắc hương vị mà hành động tạo Nghiệp dẫn đến trầm luân trong biển Khổ luân hồi. Con Người Khổ vì không cưỡng lại được Ái Dục. Muốn giải thoát Khổ thì phải Diệt: Danh sắc diệt thì Thức diệt, Danh sắc diệt thì Lục nhập diệt, Lục nhập diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thụ diệt, Thụ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thi Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sinh diệt, Sinh diệt thì Lão Tử ưu bi khổ sầu não diệt.

Quá trình nhận thức luận cơ bản như thế, nhưng do nhiều nguyên nhân dẫn đến những hệ duyên khởi khác nhau về số chi và thậm chí cả về trật tự trước sau của một số chi.

"Lớn thấy sự tiêu diệt ấy!" Thích Ca Mầu Ni đã thốt ra như vậy.

Đó là khía cạnh nhận thức luận của triết học Phật giáo thể hiện trong Tứ điệu đế và Thập nhị nhân duyên.

Vì những lý do thư tịch học cho nên tôi xem đây là nhận thức luận Phật giáo trước Đại Thừa. Tóm tắt như sau:

- Nhận thức luận trước Đại Thừa: từ nhận thức cá thể đến nhận thức toàn thể Con Người Khổ về mặt sinh vật học và xã hội học rồi nhờ "tư duy chính đáng" mà phát hiện tính Vô Thường, Vô Tự Tính của Con Người, biểu hiện tôn giáo thành Nghiệp cảm duyên khởi và Niết Bàn tận diệt.

- Nhận thức luận Đại Thừa thì do tiếp thu tư tưởng Tân Bà la môn giáo mà hình thành việc Phật hóa Thích Ca Mầu Ni. Nhận thức luận mang tính Hữu thần luận. Biểu hiện cụ thể trong các duyên khởi luận A lại da thức, Chân Như, Pháp giới. Xuất hiện các lý luận về Thức A lại da, về Chân Như, về Phật tính, về Chủng tử, về Tiểu Ngã/ Đại Ngã, về Vô Dư và Hữu Dư Niết Bàn... rất phong phú của các đại sư Đại Thừa. Biểu hiện tôn giáo là sự hình thành các tông Phật giáo Đại Thừa. Nếu không có sự phát triển nhận thức luận này thì chắc chắn Phật giáo của Thích Ca Mầu Ni diệt vong.