← Quay lại trang sách

Chương 1 (7)

Thời kỳ thứ ba là thời kỳ sau Long Thọ trước thời kỳ Vô Trước Thế-Thân tức khoảng cuối thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ IV công nguyên, trong khoảng 100 năm đó có các bộ kinh Thắng Man, kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Giải Thâm Mật, kinh Lăng Già.

1.- Kinh Thắng Man tức Kinh Thắng Man Sư Tử Nhất Thừa Đại Phương Quảng (Srimalasimhanada-sutra) của Thắng Man phu nhân. Kinh này bàn về Như Lai Tạng và Nhất Thừa. Cái Tâm thường ngày của chúng sinh bị bao nhiêu phiền não quấy nhiễu nên Như Lai Tạng bị lu mờ nhưng vẫn tồn tại. Tâm thường ngày với tâm thanh tịnh (Như Lai Tạng) là nhất tâm.

2.- Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana-sutra) một mặt thì kế thừa tư tưởng Không của kinh Bát Nhã, một mặt kế thừa tư tưởng Nhất Thừa của kinh Pháp Hoa. Đặc sắc của kinh này là "Pháp thân thường trụ", "Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính" và "Nhất Xiển-Đề thành Phật". Thích Ca Mầu Ni nhập Niết Bàn chỉ là ứng thân của Phật còn Pháp thân của Ngài vẫn thường trụ. Chúng sinh đều có Phật tính nếu tụ tập sẽ thành Phật. Kể cả Nhất Xiển Đề là kẻ không có thiện căn hay mất thiện căn nếu hồi tâm tu tập cũng có thể thành Phật.

Đây là bộ kinh Đại Thừa tổng kết cuộc đời và giáo lý của Phật theo quan điểm Đại Thừa.

3.- Kinh Giải Thâm Mật (Shandhinirmocanavyuha-sutra) là một kinh trọng yếu của pháp môn Duy Thức. Nội dung chính có 3 điểm. Một, A-lại-da-thức là thức cơ bản từ đó phát triển thành 5 thức, 5 căn... Hai, Tam tướng, Tam vô tính bàn về Biến-kế-sở-chấp tướng gọi là huyễn giác; Y-tha-khởi-tướng chỉ các tướng nương vào nhân duyên mà sinh; Viên-thành-thực-tướng là tướng bình đẳng chân như của mọi pháp. Tất cả 3 tướng đều vô tự tính. Tư tưởng Tam vô tự tính gần gũi tư tưởng Không trong kinh Bát Nhã.

4.- Kinh Lăng Già còn gọi là Nhập Lăng Già Kinh (Lankavatara-sutra) có nội dung chủ yếu là 5 pháp, 3 tính, 8 thức, 2 Vô ngã. Năm pháp là Danh, Tướng, Phân biệt, Chính trí và Như Như. Ba tính là Vọng-kế-tự-tính, Duyên-khởi-tự-tính, Viên-thành-tự-tính. Tám thức là A-lai-da-thức, ý, ý thức và tiền ngũ thức (tức Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỵ thức, Thiệt thức, Thân thức. NDH). Hai Vô ngã là Nhân vô ngã và Pháp vô ngã. Năm pháp, ba tính, tám thức và hai Vô ngã thu nhiếp tất cả mọi pháp.

Kinh Lăng Già được Bồ Đề Đạt Ma truyền lập Thiền Tông.

Bốn bộ kinh này phát triển tư tưởng Đại Thừa lên một bước nữa và tạo thành cơ sở thành lập một số tông Phật giáo Trung Quốc. Bản thể là Phật tính nhưng các kinh giải thích là Chân Như, là A-lại-da-thức, là Tâm với nội hàm đồng dị khác nhau dù đều Hữu Thần luận; nhận thức thế giới hiện tượng tuy đều là Không nhưng đồng dị khác nhau trong vấn đề Tướng và Tính; con đường giải thoát đều là theo hướng Phạm Ngã nhất như nhưng cũng đồng dị khác nhau mà đặc điểm chung đều thừa nhận Hữu-dư Niết Bàn, coi Vô-dư Niết Bàn là cõi Phật tịch tịnh. Tư tưởng Tâm được phát triển cao nhất với Thiền Tông tức Tâm tông.

Thời kỳ thứ tư tiếp theo là thời kỳ Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandha) là hai anh em sinh sống khoảng cuối thế kỷ thứ IV công nguyên. Tương truyền Vô Trước lên cung trời Đâu Xuất học bồ tát Di Lặc. Vô Trước để lại nhiều tác phẩm. Du-già-sư-địa-luận bàn về A-lại-da duyên khởi. Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận chủ trương Đại Thừa do Phật thuyết. Thập địa kinh luận bàn về Chân như duyên khởi. Trung biên phân biệt luận bàn về Trung Đạo. Nhiếp Đại Thừa Luận bàn về giáo lý Đại Thừa hơn giáo lý Tiểu Thừa, chủ yếu bàn về A-lại-da-thức duyên khởi...

Thế Thân sinh sau Vô Trước vốn theo Hữu Bộ của Tiểu Thừa, sau nghe lời khuyên của Vô Trước mà chuyển sang Đại Thừa. Ngài cũng để lại nhiều trước tác. Câu Xá Luận thì theo tư tưởng Tiểu Thừa. Tam Thập Tụng và Nhị Thập Luận bàn về Duy Thức. Các trước tác khác bàn về Phật tính, Chân như duyên khởi, Nhất Thừa, Tịnh Độ. Tịnh Độ Luận là tư tưởng pháp môn từ Tịnh Độ.

Vô Trước và Thế Thân chủ yếu luận bàn về A-lại-da-thức và thuyên thích các kinh có trước và các trước tác của Long Thọ.

Đặc điểm chung của Long Thọ, Vô Trước đều là những người theo Tân Bà la môn giáo rồi cải giáo theo Phật giáo Đại Thừa. Đó cũng là một trong những bằng chứng về sự thâm nhập Phật giáo với Bà la môn giáo biểu thị thành Hữu Thần luận với những đặc điểm riêng biệt. Vô Trước là người đầu tiên qui Phật giáo Đại Thừa về Thích Ca Mầu Ni tức chứng minh Đại Thừa là Phật giáo chính thống.

Thời kỳ thứ năm là thời kỳ Phật giáo Trung Quốc. Đến thời đại sau Vô Trước, Thế Thân thì Phật giáo Ấn Độ đi vào suy tàn, xuất hiện cao trào hình thành các tông Phật giáo Trung Quốc phát triển tư tưởng Đại Thừa Phật giáo của Ấn Độ vào khoảng Tùy Đường trong khoảng thế kỷ VI-VIII công nguyên. Hình thành nhiều tông mà chủ yếu là:

1. Thiền Tông do Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) lập vào khoảng năm 527-536 (trước thời Tùy), lấy Kinh Lăng Già 4 quyển, kinh Kim Cương làm kinh chính.

2. Thiên Thai Tông do Trí Khải lập vào thời Tùy, tôn Long Thọ làm sơ tổ, lấy kinh Pháp Hoa làm kinh chính nên còn gọi là Pháp Hoa tông.

3. Pháp Tướng Tông do Huyền Trang lập vào đời Đường cũng gọi là Duy Thức Tông, kế thừa học thuyết Duy Thức của Ấn Độ. Tông này biên soạn Thành Duy Thức luận trên cơ sở Duy Thức Tam Thập Luận của Thế Thân.

4. Hoa Nghiêm Tông do Pháp Tạng thành lập vào thời Đường lấy Kinh Hoa Nghiêm làm kinh chính.

5. Tịnh Độ Tông do Thiện Đạo lập vào thời Đường, lấy các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và A Di Đà làm kinh chính.

6. Mật Tông do Thiện Vô Úy (Subhakarasimha) thành lập vào thời Đường, tôn Long Thọ làm sơ tổ, lấy kinh Đại Nhất làm kinh chính.

v.v...53

Không thể đi sâu kinh Phật hơn nữa, qua các tư liệu trên có thể nhận thức triết học Phật giáo về 3 phương diện bản thể luận, nhận thức luận và giải thoát luận như sau.

Tôi cho rằng Thích Ca Mầu Ni tinh thông kinh điển Bà la môn giáo, theo thầy ngồi thiền tu khổ hạnh 6 năm theo kiểu Bà la môn giáo. Cuối cùng phát hiện Bà la môn giáo chủ trương Thần ý luận với Brahma là Đấng Sáng Tạo tối cao là sai, bèn bỏ Bà la môn giáo, tự mình tìm con đường nhận thức luận khác. Sau khi ngồi dưới gốc cây bồ đề 7 ngày đêm rà soát đúc kết tập đại thành các hệ tư tưởng đương thời, phê phán 62 tà kiến mà sau này Kinh Phạm Võng đã phản ảnh, cuối cùng tìm ra phương pháp "tư duy chính đáng" của riêng Ngài. Phương pháp nhận thức này bắt đầu bằng quan sát hiện tượng cá biệt con người Khổ vì Sinh Lão Bệnh Tử (hiện lượng) rồi khái quát ra bất kỳ ai kể cả bản thân Ngài đều không thoát khỏi Sinh Tử (Tỉ lượng). Rồi suy luận (phi lượng) ra rằng do Con Người gồm có ngũ uẩn tức vật chất (sắc) + tinh thần (thụ tưởng hành thức) luôn luôn diễn biến không ngừng trong vòng luân hồi, đưa ra kết luận về lý Vô Thường, Vô Tự Tính. Vô Thường thành bản thể luận Thích Ca Mầu Ni, phản đối lý thuyết Thường của Bà la môn giáo, phản đối sự tồn tại của Đấng Sáng Thế tối cao Phạm Thiên. Vì phản đối Phạm Thiên nên nhà nghiên cứu gọi là Vô Thần Luận, nhưng nên hiểu Vô Thần là không có đấng Sáng Thế tối cao. Đã Vô Thường, Vô Tự Tính thì nhận thức cuộc đời mỗi người như một sát na nhanh chóng trôi qua không thể nào nắm bắt được. Như vậy có thể hiểu Vô Thường, Vô Tự Tính thành không thực, thành ảo giác, thành vọng tưởng, thành mê vọng, thành Không. Nhưng hiện tượng giới tồn tại là một khách thể, không thể nói con người bằng xương bằng thịt có đủ 5 giác quan biết cảm nhận ngoại giới và suy nghĩ lại là ảo ảnh do mê vọng mà cho là Có. Cho nên nói Con Người là Vô Tự Tính nghĩa là nói Con Người triết học chứ không phải Con Người phàm trần. Cho nên Thích Ca Mầu Ni nói nếu cho là Con Người là thực thể thường tồn bất biến là chấp ngã. Vì vậy không nên hiểu Con Người Vô Tự Tính mà Thích Ca Mầu Ni phát hiện không phải là con người phàm tuy là con người phàm! Thích Cà Mầu Ni muốn nói Con Người bản thể chứ không phải nói Con Người hiện tượng. Con Người bản thể là trừu tượng hóa Con Người hiện tượng theo kích thước (dimension) triết học. Do Thích Ca Mầu Ni tuy có thuyết pháp, truyền miệng, không viết thành sách như các triết gia hiện đại cho nên các đồ đệ lý giải khác nhau. Chính đó là nguyên nhân căn bản của các cuộc kiết tập, của việc phân chia thành bộ phái, thành thừa, thành tông sau khi Thích Ca Mầu Ni tịch diệt. Và Thích Ca Mầu Ni cũng dự đoán sẽ có tình trạng lý giải khác nhau đó nên đã nói chưa từng nói một lời nào. Tất nhiên đó là lời của bồ tát Văn Thù, một thần linh hư cấu mà một đại sư nào đó mượn để nói. Dù sao, câu nói đó giải thích được tình trạng nhận thức bất đồng trong các đồ đệ trực tiếp và các môn đồ thế hệ sau dẫn đến tình trạng phân liệt nói trên. Từ ý kiến khác nhau của nhóm đến của tập đoàn là một quá trình lâu dài. Bất kỳ phái nào cũng tìm được căn cứ lý luận của mình trong cái gọi là lời thuyết pháp của giáo chủ Thích Ca Mầu Ni là do vậy. Đó là nguyên nhân cơ bản.

Nhưng sự phát triển tư tưởng Phật giáo trong mấy trăm năm còn có nguyên nhân khác nữa. Đối với Phật giáo Đại Thừa nói chung thì ảnh hưởng của Tân Bà la môn giáo vào khoảng mấy thế kỷ đầu công nguyên có ý nghĩa lý luận cực kỳ quan trọng. Chính vì ảnh hưởng này mà Đại Thừa chuyển thành Hữu Thần Luận, Thần hóa Thích Ca Mầu Ni dưới khái niệm Phật như Thần linh tối cao thường hằng, Phật thành bản thể của Con Người. Nhưng Phật khác Phạm Thiên. Phật không phải Sáng Thế Chủ như Phạm Thiên. Phật là Cứu Thế Chủ. Tuy nhiên cũng có phái như Duy Thức lại muốn giải thích A-lại-da-thức thành chủng tử sinh ra Con Người, phát triển đến phủ định lý luận ngũ uẩn.

Tóm lại trước Đại Thừa tức kể từ Thích Ca Mầu Ni đến khi Đại Thừa xuất hiện khoảng từ thế kỷ VI đến thế kỷ II trước công nguyên thì nhận thức luận và bản thể luận là lý luận Vô Thường, Vô Tự Tính, phản đối Thần ý luận Bà la môn giáo cho nên gọi là chủ nghĩa Vô Thần.

Đại Thừa thì chuyển thành lý luận Hữu Thần, Phật hóa Thích Ca Mầu Ni, đưa ra Thiên Phật, Tam Thân, Đại Ngã thường hằng. Phật cứu độ chúng sinh trong hiện thế qua hình tượng và hoạt động của các Bồ Tát - hình tượng người đã đủ tư cách thành Phật nhưng chưa vào Phật cảnh mà ở lại trần thế để cứu độ chúng sinh. Chúng sinh đều có Phật tính, Con Người là Tiểu Ngã. Cho nên gọi Đại Thừa là chủ nghĩa Hữu Thần hay Phiếm Thần.

Còn về giải thoát luận thì Thích Ca Mầu Ni phát hiện nguyên nhân Khổ là Dục. Dục với tính chất bản năng và tính chất xã hội gây nên nghiệp chướng phiền não. Chủ trương diệt Dục, nhập Niết Bàn, nơi "dập tắt" mọi Dục vật chất và tinh thần nên không có kiếp sống sau tức không luân hồi nữa. Sau khi tu hành chấm dứt Nghiệp rồi chết mới vào Niết Bàn "dập tắt" nên gọi là Vô-dư Niết Bàn. Cho rằng Con Người Khổ nên giải thoát hoàn toàn Con Người, không tái sinh Con Người nữa, loài Người vĩnh viễn không còn nữa, cho nên người ta cho đó là chủ nghĩa yếm thế, xuất thế.

Nhưng cơ bản tư tưởng giải thoát của Thích Ca Mầu Ni xuất phát từ lòng thương người, tính nhân bản sâu đậm này quán xuyến toàn bộ Phật giáo bất kỳ tông phái nào thời kỳ nào dù xuất thế tiêu cực hay nhập thế tích cực, dù Vô Thần hay Hữu Thần. Đó là sức sống của Phật giáo.

Đại Thừa thì cũng xuất phát từ Con Người Khổ nhưng đó là chủ nghĩa Hữu Thần nên cũng như mọi tôn giáo hữu thần khác đưa ra chủ nghĩa Thần cứu thế. Cứu thế tích cực là giải thoát hiện sinh, giúp con người vượt qua mọi khổ nạn thực tế. Và Con Người phải tu tập không gây nên Nghiệp chướng cho kiếp sau, cho nên có thể thuần thiện trong hiện thế trước khi chết vì vậy có khái niệm Hữu-dư Niết Bàn. Đại Thừa cho rằng Thích Ca Mầu Ni sau khi đắc đạo đã không còn phiền não nghiệp chướng nữa mà vẫn còn nhục thể tức còn sống thì đó là Hữu-dư Niết Bàn, đến khi Thích Ca Mầu Ni chết thì vào Vô-dư Niết Bàn. Có nhiều cách giải thích khác nhau mà Kinh Đại Bát Niết Bàn thì gọi là Niết Bàn và Đại Niết Bàn cũng cùng hàm ý như Hữu-dư Niết Bàn và Vô-dư Niết Bàn. Đại Niết Bàn là cõi Phật thường lạc ngã tịnh của chư Phật bao gồm cả người thành Phật. Lại có quan niệm về Tịnh Độ, về Tâm. Nội hàm Tâm cũng rất phức tạp nhưng đặc sắc nhất là Tâm của Thiền Tông. Nói chung giải thoát luận Đại Thừa là chủ nghĩa cứu thế tích cực nên dựa vào tha lực. Tuy nhiên Thiền Tông lại dựa vào tự lực.

Chính chủ nghĩa cứu thế tích cực này là nguyên nhân khiến cho Phật giáo Đại Thừa thâm nhập vào tâm linh đại đa số nhân dân, phù hợp với tính hướng thiện nhân bản nên phần nào có tác dụng đạo đức xã hội.

Trên đây là những nhận thức nông cạn của bản thân tôi, chắc chắn có nhiều điều bất cập vì kinh điển Phật giáo đồ sộ chưa từng có trong lịch sử kinh điển tôn giáo thế giới.

Ngay lần kiết tập thứ 4 đã biên soạn Tam Tạng thành 300.000 bài tụng, 6.600.000 lời. Năm 1932 Nhật Bản xuất bản Đại Chính Đại Tạng 13.520 quyển kinh. Năm 1984 Trung Quốc biên tập Đại Tạng 23.000 quyển kinh. Một đời người vị tất đã đọc được hết huống hồ vài chục năm!

Không những số lượng đồ sộ mà nội dung cực kỳ phong phú bao gồm tư tưởng về vũ trụ, về nhân sinh. Đến nay một số nhà vật lý hiện đại thấy trong đó những biểu hiện của vật lý học và thiên văn học hiện đại như về lượng tử, về Big Bang qua tư liệu về vi trần, tứ đại, nhân quả, duyên khởi v.v... Tất nhiên Phật giáo - dù tích tập tri thức vô số đại sư trí thức uyên bác trong hơn 1000 năm cũng không phải là trí thức vật lý và thiên văn học hiện đại. Nhưng theo tôi, các đại sư đã cảm nhận thấy những vấn đề vũ trụ và nhân sinh đó một cách cảm thụ không lý giải khoa học như hiện nay. Nhưng như vậy đã là đại tri thức vượt thời gian của họ. Với lòng tôn kính đối với kho tàng đại tri thức đó tôi mạo muội viết những dòng trên đây.

Trên đây đã trích dẫn, bình giải rất phức tạp, bây giờ tôi xin tóm tắt triết học Phật giáo một cách súc tích nhất để tiện theo dõi, coi như lời tổng kết đơn giản, đơn giản tất không đầy đủ. Trình bày dưới dạng bảng cho dễ theo dõi.

Trước Đại Thừa

Đại Thừa

- Bản thể luận

+ Vô Tự Tính

+ Duyên khởi luận

- Nghiệp cảm duyên khởi

+ Phật tính, Đại Ngã, A-lại-da-thức, Chân Như, Như lai tạng, Không

+ Duyên khởi luận:

- Chân Như duyên khởi của Đại Thừa Khởi Tín Luận

- Lục đại duyên khởi của Câu Xá luận

- A-lại-da duyên khởi của phái Duy Thức

- Bát Bất duyên khởi của Trung luận

- Pháp giới duyên khởi của Hoa Nghiêm Tông

- Như Lai Tạng duyên khởi của Kinh Thắng Man

- Nhận thức luận

+ Vô Thường

+ Vô Ngã

+ Tư duy chính đáng

Vô thần luận

+ Thường

- Phật, Chân Như, Pháp Thân, A-lại-da-thức

+ Tiểu Ngã/Đại Ngã

+ Bất khả tư nghi

Hữu thần luận

- Giải thoát luận

+ Vô-dư Niết Bàn

+ Chủ nghĩa cứu thế tâm cực xuất thế

+ Hữu-dư Niết Bàn, Đại Niết Bàn, Tịnh Thổ, Cực Lạc Quốc

+ Chủ nghĩa cứu thế tích cực nhập thế