Chương 22
Kết quả kiểm tra tủy, mà bác sĩ đã lấy vào giữa chiều Chủ nhật, không khả quan, nên họ muốn giữ Jonathan lại qua đêm và điều trị cho anh theo một biện pháp có tên là vincainestine, tức là đổi máu hoàn toàn, vốn Jonathan từng tiếp nhận biện pháp này một lần rồi.
Simone đến thăm anh lúc bảy giờ hơn. Họ đã báo cho Jonathan biết là cô có gọi đến một lần. Nhưng người nói chuyện với cô không hề báo biết chuyện anh phải ở lại qua đêm và Simone thấy ngạc nhiên.
“Thế - mai vậy,” cô ậm ừ, có vẻ không biết nói gì hơn.
Jonathan nằm gối cao. Bộ đồ ngủ của Tom đã được thay bằng một bộ đồ rộng rãi hơn, và cả hai cánh tay của anh đều cắm ống. Jonathan cảm nhận giữa Simone và anh có một khoảng cách khủng khiếp. Hay do anh tưởng tượng thôi? “Anh đoán là sáng mai. Đừng mất công đến làm gì, em yêu, anh sẽ gọi taxi. Buổi chiều thế nào? Gia đình em thế nào?”
Simone lờ câu hỏi của anh. “Chiều nay người bạn Ripley của anh đã ghé qua gặp em.”
“À thế à?”
“Anh ta thật - mở miệng ra là nói dối, khó lòng biết được có chi tiết nào đáng tin không. Có thể là không có gì đáng tin cả.” Simone liếc nhìn ra sau lưng, nhưng chẳng có ai hết. Jonathan nằm trên một trong nhiều chiếc giường trong phòng, không phải giường nào cũng có người nằm, nhưng hai bên Jonathan đều đã có người và một người còn có khách đến thăm.
Họ không được thoải mái nói chuyện.
“Georges sẽ thất vọng lắm vì tối nay anh không về nhà,” Simone nói.
Sau đó cô ra về.
Sáng hôm sau Jonathan về nhà, sáng thứ Hai, tầm mười giờ. Simone đang ở nhà, là quần áo cho Georges.
“Anh cảm thấy ổn chứ?... Họ có cho anh ăn sáng không?... Anh có muốn uống cà phê không? Hay trà nhé?”
Jonathan cảm thấy khỏe hơn nhiều - sau mỗi lần điều trị vincainestine thì người ta đều có cảm giác này, cho tới khi bệnh tình anh nghiêm trọng trở lại và phá hỏng máu một lần nữa, anh nghĩ. Jonathan chỉ muốn tắm một cái. Anh đi tắm, sau đó thay đồ mới, một chiếc quần nhung màu be cũ, hai chiếc áo len vì buổi sáng hôm nay trời lạnh, hoặc có thể chỉ là anh đang cảm thấy lạnh hơn bình thường. Simone đang là một chiếc váy len tay ngắn. Tờ báo sáng, Figaro, được gấp gọn trên bàn bếp với trang đầu nằm trên cùng, như thường lệ, nhưng vì các trang báo khá lỏng nên có thể thấy rõ ràng là Simone đã đọc nó.
Jonathan cầm tờ báo lên và vì Simone không thèm ngẩng mặt khỏi bàn là, anh đi vào phòng khách. Anh tìm được một bài báo dài hai cột ở góc dưới cùng trang hai.
HAI CÁI XÁC BỊ THIÊU RỤI TRONG Ô TÔ
Ngày viết bài là 14 tháng Năm, ở Chaumont. Một nông dân tên là Rene Gault, năm mươi lăm tuổi, đã phát hiện chiếc xe Citroen vẫn đang bốc khói vào sáng sớm hôm Chủ nhật, và đã thông báo cho cảnh sát ngay lập tức. Giấy tờ vẫn còn nguyên vẹn trong ví của hai cái xác cho biết họ là Angelo Lippari, ba mươi ba tuổi, nhà thầu, và Filippo Turoli, ba mươi mốt tuổi, nhân viên bán hàng, cả hai đều đến từ Milan. Lippari đã chết vì vỡ sọ, Turoli thì vì nguyên nhân không rõ, dù cảnh sát tin rằng anh ta đã bất tỉnh hoặc đã chết khi chiếc xe bị châm lửa thiêu. Hiện thời không có manh mối nào và cảnh sát đang tiến hành điều tra.
Jonathan đoán là sợi dây thòng lọng đã bị cháy rụi hoàn toàn, và rõ ràng Lippo đã cháy xém đến mức dấu hiệu bị thắt cổ cũng biến mất tăm.
Simone bước vào cửa, quần áo được gấp gọn trên tay. “Thế nào? Em cũng đã đọc bài báo đó. Hai người Ý.”
“Ừ.”
“Và anh đã giúp Ripley gây ra chuyện đó. Đó là cái mà anh gọi là 'dọn dẹp'.”
Jonathan không nói gì. Anh thở dài, ngồi xuống chiếc ghế sôpha Chesterfield xa hoa đang kêu cọt kẹt, nhưng anh vẫn ngồi khá thẳng lưng, không để Simone nghĩ rằng anh đang rơi vào thế yếu. “Phải làm gì đó để xử lý chúng mà.”
“Và thế là anh cần phải giúp một tay,” cô nói. “Jon - giờ Georges không có ở đây - em nghĩ chúng ta nên nói chuyện thêm về việc này.” Cô đặt quần áo lên giá sách cao đến eo ở cạnh cửa và ngồi xuống mép ghế bành. “Anh chưa nói sự thật cho em, và cả Ripley cũng không. Em tự hỏi không biết anh còn phải làm điều gì cho anh ta nữa.” Đến từ cuối cùng, giọng cô đã cao vút lên đầy kích động.
“Không gì cả.” Jonathan cảm thấy rất chắc chắn về chuyện đó. Và nếu Tom có nhờ vả gì thì anh cũng chỉ cần đơn giản từ chối là xong. Ở thời điểm này, mọi chuyện có vẻ khá đơn giản đối với Jonathan. Anh phải níu kéo Simone bằng mọi giá. Cô đáng giá hơn Tom Ripley, hơn tất cả những gì anh ta có thể chào mời anh.
“Em hoàn toàn không thể hiểu được. Anh biết mình đã làm gì không - tối qua. Anh đã giúp giết hai người đó, không phải sao?” Giọng cô nhỏ, run rẩy.
“Đó là vì để bảo vệ - những gì đã diễn ra trước đó.”
“Phải rồi, Ripley đã giải thích rồi. Vô tình anh lại đi cùng chuyến tàu với anh ta, từ Munich về đây, có đúng không? Và rồi anh - đã hỗ trợ anh ta - giết hai người?”
“Mafia,” Jonathan nói. Tom đã kể gì cho cô?
“Anh - một hành khách bình thường, hỗ trợ một vụ giết người? Anh nghĩ em tin được chuyện đó chắc, Jon?”
Jonathan im lặng, cố gắng suy nghĩ, cảm thấy khổ sở. Câu trả lời là không. Có vẻ em không nhận ra rằng chúng là mafia, anh muốn lặp lại câu đó. Chúng đã tấn công Tom Ripley. Một lời nói dối khác, ít nhất là về chuyện trên tàu. Jonathan mím môi và ngồi dựa vào lưng ghế sôpha êm ái. “Anh chẳng mong em tin chuyện đó. Anh chỉ có hai điều để nói thôi, lần cuối cùng, đó là những kẻ mà bọn anh đã giết cũng là tội phạm và kẻ sát nhân. Em phải thừa nhận điều đó.”
“Anh là cảnh sát chìm trong thời gian rảnh à? Vì sao anh lại được trả tiền cho điều đó, Jon? Anh... một kẻ sát nhân!” Cô đứng bật dậy, hai tay siết chặt lại. “Anh thật xa lạ đối với em. Cứ như em chưa từng hiểu rõ anh vậy.”
“Ôi Simone,” Jonathan nói và cũng đứng dậy theo.
“Em không thể thích anh... không thể yêu anh được nữa!”
Jonathan chớp mắt. Cô vừa nói ra câu đó bằng tiếng Anh.
Cô tiếp tục nói bằng tiếng Pháp: “Anh đang giấu giếm một chuyện gì đó, em biết. Và em thậm chí cũng không muốn biết nó là gì nữa. Anh hiểu chứ? Nó liên quan đến mối quan hệ khủng khiếp với Ripley, kẻ ghê tởm đó - và em tự hỏi đó là gì,” cô lại nói với vẻ châm chọc cay đắng. “Hiển nhiên đó là một chuyện quá ghê tởm nên anh không dám kể cho em, em không nên nghĩ thêm mới đúng. Chắc chắn anh đã giúp anh ta che giấu một tội lỗi nào khác và vì thế mới được trả tiền, vì thế nên anh đã rơi vào tròng của anh ta. Được lắm, em không muốn...”
“Anh không rơi vào tròng của anh ta! Em sẽ thấy!”
“Em đã thấy đủ rồi!” Cô ra ngoài, mang quần áo theo và đi lên gác.
Đến giờ ăn trưa, Simone nói không đói. Jonathan tự luộc cho mình một quả trứng. Sau đó anh ra cửa hàng, vẫn treo biển ĐÓNG CỬA bên ngoài, vì anh không chính thức mở cửa vào các ngày thứ Hai. Không có gì thay đổi từ chiều thứ Bảy ấy. Anh có thể thấy là Simone đã không đến đây. Jonathan đột nhiên nghĩ đến khẩu súng Ý, thường nằm trong ngăn kéo, giờ đang ở chỗ của Tom Ripley. Jonathan cắt khung và cắt kính, nhưng rồi mất hết nhiệt huyết khi đến phần đóng đinh. Anh sẽ làm gì với Simone đây? Nếu anh kể cho cô nghe toàn bộ câu chuyện như vốn có thì sao? Dẫu vậy, Jonathan biết là mình đang chống lại một linh hồn Công giáo về việc cướp đi mạng sống con người. Chưa kể đến việc Simone sẽ nhận thấy lời đề nghị ban đầu dành cho anh thật “Tuyệt vời! - Ghê tởm!” Thật tò mò làm sao khi lũ mafia là con chiên Công giáo trăm phần trăm nhưng lại không ngại chuyện giết người. Nhưng anh, chồng của cô, là chuyện khác. Anh không nên cướp đi tính mạng của người khác. Và liệu anh có thể bảo cô là anh đã “sai lầm”, đã hối hận không nhỉ - Vô vọng. Trước hết, anh cũng không thật sự tin rằng đó là một sai lầm, vậy sao phải nói ra một lời nói dối nữa?
Jonathan quay lại bàn làm việc với quyết tâm cao độ, lấy keo và đinh đóng vào khung tranh và gọn gàng gắn nó vào bằng giấy nâu ở phía sau. Anh gắn tên chủ tranh vào tấm khung. Sau đó anh rà soát lại các đơn đặt hàng cần xử lý của mình, và giải quyết thêm một bức tranh nữa, cũng giống như bức hồi nãy, nó không cần lót. Anh tiếp tục làm việc cho tới sáu giờ tối. Sau đó anh mua bánh mỳ và rượu vang, một vài lát thịt nguội từ một cửa hàng bán đồ chế biến sẵn, đủ thức ăn tối cho cả gia đình họ phòng trường hợp Simone chưa đi mua đồ.
Cô nói, “Em cũng hãi hùng lo sợ cảnh sát sẽ gõ cửa bất kỳ lúc nào, đòi gặp anh.”
Jonathan, đang sắp xếp bàn ăn, mất vài giây không nói gì. “Không có chuyện đó đâu. Vì sao chứ?”
“Không đời nào có cái gọi là không có manh mối. Họ sẽ tìm ra Ripley và anh ta sẽ khai anh cho cảnh sát.”
Jonathan chắc chắn cả ngày nay cô chưa ăn gì. Anh tìm được một ít khoai tây thừa - khoai tây nghiền - trong tủ lạnh, và tự mình chuẩn bị bữa tối. Georges từ phòng xuống.
“Họ đã làm gì Papa trong bệnh viện thế?”
“Cha đã thay toàn bộ máu mới,” Jonathan cười trả lời, gập hai cánh tay lại. “Nghĩ mà xem. Máu mới toàn bộ - hay ít nhất là tám lít.”
“Thế là bao nhiêu?” Georges cũng giang hai tay ra.
“Tám lần cái chai này,” anh nói. “Vì thế nên mới mất cả đêm, con yêu.”
Dù nỗ lực, Jonathan vẫn không thể xua đi vẻ ảm đạm, im lìm của Simone. Cô gẩy đồ ăn của mình và không chịu nói gì. Georges thì không thể hiểu. Nỗ lực của anh, thất bại, khiến anh thấy xấu hổ, và anh cũng im lặng trong khi uống cà phê, thậm chí còn chẳng thể nói chuyện với Georges.
Jonathan băn khoăn không biết cô đã nói chuyện với Gerard anh trai cô chưa. Anh dẫn Georges vào phòng khách xem tivi, bộ tivi mới được giao mấy ngày trước. Chương trình truyền hình - chỉ có hai kênh cả thảy - vào giờ này không có gì hấp dẫn đối với lũ trẻ, nhưng Jonathan hy vọng thằng bé sẽ ở lại với một trong hai người họ thêm một lúc nữa.
“Em đã nói chuyện với Gerard chưa?” Anh hỏi, không thể nhịn được.
“Tất nhiên là chưa. Anh nghĩ em có thể kể cho anh ấy... chuyện này à?” Cô đang hút thuốc lá, một chuyện mà cô hiếm khi làm. Cô nhìn cửa dẫn ra sảnh để chắc chắn là Georges không quay vào đây. “Jon - em nghĩ chúng ta nên dàn xếp để ly thân.”
Trên tivi, một chính trị gia người Pháp đang nói về syndicates, công đoàn.
Jonathan lại ngồi xuống ghế. “Em yêu, anh hiểu chứ. Chuyện đó khiến em sốc. Em có thể đợi vài ngày đã được không? Anh biết là, bằng cách nào đó, anh có thể khiến em hiểu. Thật đấy.” Anh nói đầy vẻ tin tưởng, vậy nhưng anh cũng nhận ra rằng chính bản thân còn chẳng tin, hoàn toàn không. Nó chẳng qua chỉ là bản năng bấu víu lấy cuộc sống cũ mà thôi, Jonathan nghĩ, anh bấu víu lấy Simone.
“Vâng, tất nhiên là anh sẽ nghĩ vậy. Nhưng em hiểu em. Em không phải là một thiếu nữ trẻ tuổi bốc đồng, anh biết mà.” Mắt cô nhìn thẳng vào anh, giờ không còn giận dữ nữa, chỉ mang vẻ kiên định và xa cách. “Em hoàn toàn không quan tâm tới toàn bộ số tiền hiện giờ anh có, không một xu. Em có thể tự sống tốt - với Georges.”
“Ôi, Georges - Chúa ơi, Simone, anh sẽ trợ cấp cho Georges!” Jonathan khó lòng tin được rằng họ lại đang nói với nhau những điều này. Anh đứng dậy, kéo Simone khỏi ghế một cách có phần thô bạo, và cà phê sánh khỏi tách của cô, tràn xuống đĩa. Jonathan ôm cô, định hôn cô nữa nhưng cô oằn người tránh.
“Đừng!” Cô bỏ thuốc lá ra và bắt đầu dọn dẹp bàn ăn. “Em xin lỗi phải nói rằng em cũng không muốn ngủ chung giường với anh.”
“À ừ, anh cũng cho là thế.” Và ngày mai cô sẽ đến nhà thờ để cầu nguyện cho linh hồn anh, Jonathan nghĩ. “Simone, em phải đợi một thời gian. Đừng vội nói những điều mà em không muốn.”
“Em sẽ không thay đổi đâu. Hỏi Ripley ấy. Em nghĩ anh ta cũng biết thế.”
Georges quay lại. Tivi đã rơi vào quên lãng, và thằng bé ngơ ngác nhìn cả hai người họ.
Jonathan dùng đầu ngón tay chạm nhẹ vào đầu Georges khi anh đi vào hành lang. Anh định đi lên phòng ngủ - nhưng đó không còn là phòng ngủ chung của họ nữa, mà rồi anh định làm gì ở đó? Tiếng tivi vẫn văng vẳng. Jonathan xoay một vòng trong hành lang, sau đó cầm áo mưa và khăn choàng cổ rồi ra ngoài. Anh đi tới đại lộ France và rẽ trái, đến cuối đường anh bước vào quán bar-cà phê ở góc phố. Anh muốn gọi điện cho Tom Ripley. Anh vẫn nhớ số điện thoại của anh ta.
“Xin chào?” Tom nói.
“Jonathan đây.”
“Anh thế nào?... Tôi đã gọi tới bệnh viên và họ bảo là anh phải ở lại qua đêm. Giờ anh ra viện rồi à?”
“Phải, mới sáng nay. Tôi...” Jonathan thở dốc.
“Có chuyện gì vậy?”
“Tôi có thể gặp anh một lát được không? Nếu anh nghĩ việc đó an toàn. Tôi - chắc là tôi có thể gọi taxi. Chắc chắn.”
“Anh đang ở đâu?”
“Quán bar mới ở góc phố, gần khách sạn l’Aigle Noir.”
“Tôi có thể đón anh. Không thích à?” Tom đoán là Jonathan vừa có một cuộc đối thoại không mấy dễ chịu với Simone.
“Tôi sẽ đi tới đài tưởng niệm. Tôi muốn đi bộ một chút. Tôi sẽ gặp anh ở đó.”
Ngay lập tức Jonathan cảm thấy khỏe lên. Đây là một hành động sai trái, hiển nhiên rồi, nó trì hoãn chuyện với Simone, nhưng trong thời điểm này thì chuyện đó không quan trọng. Anh cảm giác như một người đang bị tra tấn tạm thời được giải thoát khỏi sự đau đớn, và anh thấy biết ơn dẫu chỉ vài phút nhẹ nhõm này. Jonathan châm một điếu thuốc lá và chậm rãi đi dạo, vì Tom sẽ phải mất gần mười lăm phút mới đến được đây. Jonathan bước vào quán bar des Sports, ngay cạnh khách sạn l’Aigle Noir, và gọi một cốc bia. Anh cố gắng không nghĩ gì hết. Sau đó một suy nghĩ vẫn nảy ra trong đầu: Simone sẽ lý trí hơn. Ngay khi anh tỉnh táo cân nhắc về chuyện này, anh lại sợ cô sẽ không như vậy. Giờ anh đơn độc rồi. Jonathan biết rằng giờ anh chỉ còn lại một mình, đến cả Georges cũng đã xa anh phần nào, vì chắc chắn Simone sẽ nuôi thằng bé, nhưng anh còn nhận ra rằng mình vẫn chưa hoàn toàn cảm nhận được hết. Sẽ phải mất thời gian. Cảm giác vẫn đến chậm hơn là lý trí. Thỉnh thoảng là vậy.
Chiếc Renault sẫm màu của Tom theo sau một dòng xe lác đác ra khỏi rừng cây tối tăm vào dưới ánh sáng chói lọi quanh đài tưởng niệm Obelisque. Lúc đó là hơn tám giờ. Jonathan đứng ở góc phố, bên trái đường, bên phải của Tom. Anh sẽ phải quay một vòng để đi về nhà của mình - nếu họ tới chỗ anh. Jonathan thích về nhà của Tom hơn là ra quán bar. Anh dừng xe và mở chốt cửa.
“Chào!” Anh nói.
“Chào,” Jonathan nói, đóng sập cửa lại và ngay lập tức Tom lái xe đi. “Chúng ta có thể về nhà anh không? Tôi không thích đi tới một quán bar đông đúc.”
“Chắc chắn rồi.”
“Tôi vừa có một buổi tối tồi tệ. Cả một ngày tồi tệ, tôi e là vậy.”
“Tôi cũng đoán được. Simone à?”
“Có vẻ cô ấy đã quyết rồi. Ai có thể trách cô ấy đây?” Jonathan cảm thấy lúng túng, muốn hút một điếu thuốc lá, rồi nhận ra thậm chí hành động ấy cũng thật vô nghĩa, vậy nên anh không hút nữa.
“Tôi đã cố gắng hết sức,” Tom nói. Anh đang tập trung lái xe nhanh hết mức có thể mà không thu hút một cảnh sát lái xe máy nào, có vài người như vậy thường núp trong rừng ven đường quanh đây.
“À, do tiền - do hai xác người, Chúa lòng lành! Về tiền thì tôi đã giải thích là mình giữ tiền cược hộ bác sĩ Đức, anh biết đấy.” Jonathan chợt nhận ra lời giải thích đó thật lố bịch, cả về tiền lẫn về vụ cá cược. Theo một cách nào đó, số tiền ấy thật cụ thể, thật hữu hình, thật hữu dụng, nhưng không hữu hình hay ý nghĩa bằng hai người chết mà Simone đã nhìn thấy. Tom đang lái xe khá nhanh. Jonathan chẳng buồn quan tâm xem liệu họ có đâm vào cây hay văng ra khỏi đường không. “Nói đơn giản,” anh tiếp tục, “thì là do hai xác chết. Việc tôi đã giúp một tay - việc tôi đã giết người. Tôi không nghĩ cô ấy sẽ thay đổi suy nghĩ.” Một người sẽ được lợi lộc gì* - Jonathan muốn cười thật to. Anh chưa có cả thế giới nhưng cũng chưa đánh mất linh hồn của mình. Dẫu sao đi nữa, Jonathan cũng không tin vào linh hồn. Tư cách thì hợp lý hơn. Anh chưa đánh mất tư cách của mình, chỉ mất Simone. Dẫu vậy cô có đạo đức, mà đạo đức không phải là tư cách sao?
•
Một câu trong Kinh thánh: Một người sẽ được lợi lộc gì, nếu giành được cả thế giới mà đánh mất đi linh hồn.
Tom cũng không ngờ Simone sẽ thay đổi suy nghĩ về Jonathan, nhưng anh không nói gì. Có thể về đến nhà anh sẽ nói, vậy nhưng anh còn biết nói gì nữa? Vài lời an ủi, vài lời cổ vũ, vài lời hòa giải, khi mà anh thật sự không có niềm tin vào chúng? Vậy nhưng ai mà hiểu được phụ nữ? Thỉnh thoảng họ ra vẻ đạo đức, mạnh mẽ hơn đàn ông, nhưng vào những lúc khác - đặc biệt là với những kẻ lừa đảo chính trị và những tay quan chức ghê tởm mà thỉnh thoảng họ cưới phải - Tom thấy phụ nữ còn giỏi co dãn, giỏi lật mặt hơn đàn ông. Không may thay, Simone là một bức tranh của sự ngay thẳng. Không phải Jonathan nói rằng cô ta là một con chiên chăm chỉ đến nhà thờ sao? Nhưng suy nghĩ của Tom cũng dành một phần cho Reeves Minot. Anh ta đang lo lắng, mà theo anh thấy thì chẳng vì lý do cụ thể nào cả. Chưa gì Tom đã đến chỗ rẽ vào Villeperce, chậm rãi chạy xe qua những con phố yên tĩnh quen thuộc.
Sau những ngọn cây dương cao vút là Belle Ombre, một ngọn đèn đã bật sáng trước cửa - còn nguyên vẹn.
Tom vừa pha cà phê và Jonathan nói rằng mình cũng muốn một tách. Tom đun nóng cà phê lên và mang nó cùng một chai brandy ra bàn.
“Nói đến rắc rối,” Tom nói, “Reeves muốn tới Pháp. Hôm nay tôi đã gọi cho anh ta từ Sens. Anh ta đang ở một khách sạn tên là Three Bears ở Ascona.”
“Tôi vẫn nhớ,” Jonathan nói.
“Anh ta cứ tưởng tượng là mình đang bị theo dõi - bởi người đi đường. Tôi đã cố nói với Reeves - kẻ thù của chúng ta không phí phạm thời gian làm vậy đâu. Anh ta phải biết rõ chuyện đó chứ. Tôi cũng khuyên anh ta từ bỏ việc đến Pháp, dù là Paris. Chắc chắn không phải là đến chỗ tôi ở đây. Tôi không cho rằng Belle Ombre là nơi an toàn nhất trên thế giới, anh đồng ý không? Theo lẽ tự nhiên, tôi thậm chí còn chẳng dám bóng gió về chuyện tối thứ Bảy, không thì nó sẽ trấn an Reeves được một chút. Ý tôi là, ít nhất chúng ta cũng đã giải quyết được hai gã đã nhìn thấy chúng ta trên tàu. Tôi không chắc sự bình yên và tĩnh lặng này sẽ kéo dài bao lâu nữa.” Tom rướn người về phía trước, hai khuỷu tay đặt trên đầu gối, liếc nhìn dãy cửa sổ yên bình. “Reeves không biết gì về chuyện tối thứ Bảy hết, mà nếu biết thì anh ta cũng không nói gì. Cho dù có đọc báo thì chắc cũng không liên hệ được. Tôi cho là anh đã đọc báo ra hôm nay rồi chứ?”
“Rồi,” Jonathan nói.
“Không có manh mối. Đài radio cũng không nhắc đến, nhưng người dẫn chương trình tivi đã điểm qua tin tức đó. Không có manh mối.” Tom mỉm cười và với tay lấy một điếu thuốc lá nhỏ. Anh chìa hộp ra mời Jonathan, nhưng anh ta lắc đầu. “Một tin tức cũng tốt tương đương, đó là không có một câu hỏi nào từ dân làng ở đây. Hôm nay tôi đã mua bánh mỳ và tới cửa hàng bán thịt - đi bộ, thong thả chỉ để xem thế nào. Và tầm bảy rưỡi, Howard Clegg, một hàng xóm của tôi, đã đến đây. Mang cho tôi một túi nilông đựng phân ngựa từ một người bạn nông dân của anh ấy, người mà anh ấy thỉnh thoảng vẫn mua thỏ.” Tom rít thuốc lá và thả lỏng người, cười nhẹ. “Chính Howard là người đã đỗ xe lại ngoài nhà tôi tối thứ Bảy, nhớ không? Anh ấy nghĩ chúng tôi có khách, Heloise và tôi ấy, nên lúc đó không phải thời điểm thích hợp để giao phân ngựa.” Tom tiếp tục lải nhải, cố gắng lấp đầy thời gian, trong khi Jonathan, anh hy vọng, bớt căng thẳng. “Tôi đã kể với anh ấy là Heloise đi chơi vài ngày, và tôi đã gặp gỡ vài người bạn từ Paris, nên mới có một chiếc xe biển Paris đỗ bên ngoài. Tôi nghĩ mọi chuyện diễn biến khá tốt đẹp rồi.”
Đồng hồ trên lò sưởi điểm chín giờ với những tiếng kính coong lảnh lót.
“Dẫu vậy, quay lại chuyện Reeves,” Tom nói. “Tôi đang định viết thư cho anh ta, bảo rằng tôi có cơ sở để tin rằng tình hình đã chuyển biến tốt, nhưng có hai việc ngăn tôi làm vậy. Hiện thời Reeves có thể rời khỏi Ascona bất kỳ lúc nào, và thứ hai là mọi chuyện cũng chưa chuyển biến tốt với anh ta, nếu lũ điên đó vẫn muốn tóm được anh ta. Reeves đang dùng tên Ralph Platt, nhưng chúng biết tên thật và diện mạo của anh ta. Không còn chỗ nào để anh ta trốn ngoài Brazil, nếu lũ mafia muốn bắt anh ta. Và thậm chí Brazil...” Tom mỉm cười, nhưng không còn vui vẻ gì nữa.
“Nhưng không phải anh ta đã khá quen với chuyện đó rồi à?” Jonathan hỏi.
“Như thế này à? Không. Rất ít người, theo tôi nghĩ, có thể quen với lũ mafia và còn sống để kể lại chuyện đó. Họ có thể sống, nhưng sẽ không dễ chịu lắm đâu.”
Do Reeves tự làm tự chịu thôi, Jonathan nghĩ. Và chính anh ta đã lôi anh vào vụ này. Không, anh đã tự nguyện bước chân vào chuyện này, để mình bị thuyết phục - vì tiền. Và chính Tom Ripley là người - ít nhất đã cố gắng giúp anh lấy khoản tiền đó về, cho dù tất cả phát sinh là do anh ta, trò chơi chết chóc này. Suy nghĩ của Jonathan quay ngược về khoảnh khắc trên con tàu đi từ Munich tới Strassburg ấy.
“Tôi rất tiếc về chuyện Simone,” Tom nói. Cơ thể dài ngoằng của Jonathan rũ xuống ủ rũ, tay cầm cốc cà phê, dường như là hình ảnh minh họa của sự thất bại, giống một bức tượng. “Cô ấy muốn làm gì?”
“À...” Jonathan nhún vai. “Cô ấy nói về việc ly dị. Mang theo Georges, tất nhiên rồi. Cô ấy có một người anh trai, Gerard, sống ở Nemours. Tôi không biết cô ấy sẽ nói gì với anh trai - hoặc với gia đình cô ấy ở đó. Cô ấy đang sốc nặng, anh thấy đấy. Và thấy nhục nhã.”
“Tôi hiểu mà.” Heloise cũng đã thấy nhục nhã, Tom nghĩ, nhưng cô có khả năng suy nghĩ đa chiều tốt hơn. Heloise biết anh có nhúng tay vào việc giết người, phạm tội - mà đó có được coi là một tội không? Ít nhất là mấy vụ gần đây, vụ Derwatt, và giờ là lũ mafia ghê tởm? Tom tạm gạt câu hỏi đạo đức đó sang một bên và đồng thời cũng vô thức phủi một ít tro khỏi đầu gối. Jonathan định sẽ làm gì với bản thân anh ta nhỉ? Không có Simone thì anh ta sẽ không còn tinh thần nữa. Tom tự hỏi không biết mình có nên cố gắng khuyên nhủ Simone lần nữa hay không? Nhưng ký ức về buổi nói chuyện hôm qua làm anh nhụt chí. Tom không thích phải cố gắng giải thích cho cô ta lần nữa.
“Tôi xong đời rồi,” Jonathan rồi.
Tom dợm định lên tiếng nhưng anh ta ngắt ngang:
“Anh biết thừa là tôi đã xong hẳn với Simone rồi - hay phải nói cô ấy đã hết hẳn với tôi. Còn vấn đề muôn thủa là tôi còn sống được bao lâu nữa thì chịu. Sao phải dây dưa? Vậy nên Tom...” Jonathan đứng dậy. “Nếu có thể trợ giúp cho anh, dù phải đi tự tử, tôi cũng tùy anh sai khiến.”
Tom mỉm cười. “Brandy nhé?”
“Một ít thôi. Cảm ơn anh.”
Tom rót ra. “Tôi vừa dành vài phút để cố gắng giải thích lý do tôi nghĩ - tôi nghĩ nhé, là chúng ta đã qua phần trắc trở rồi. Với lũ điên đó. Tất nhiên nếu chúng tóm được Reeves - và tra tấn anh ta thì chúng ta vẫn chưa thoát khỏi nguy hiểm đâu. Anh ta có thể khai ra cả hai ta.”
Jonathan đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Đơn giản là nó chẳng có gì quan trọng với anh, nhưng tất nhiên với Tom thì khác. Tom muốn sống. “Tôi có thể giúp gì được không? Làm con mồi chẳng hạn? Vật hy sinh?” Anh bật cười.
“Tôi không muốn một mồi nhử nào cả,” Tom nói.
“Không phải anh từng nói lũ mafia có thể muốn đòi lại một ít nợ máu sao, để trả thù?”
Chắc chắn là Tom từng nghĩ vậy, nhưng không chắc mình từng nói hẳn ra. “Nếu chúng ta không làm gì hết - chúng có thể sẽ tóm Reeves và kết liễu anh ta,” anh nói. “Cái này gọi là để mọi chuyện diễn biến tự nhiên. Tôi không hề nhồi ý tưởng này - ý tưởng giết mafia - vào đầu Reeves và cả anh cũng không.”
Thái độ lạnh lùng của Tom khiến Jonathan nhụt chí phần nào. Anh ngồi xuống. “Thế còn Fritz thì sao? Có tin gì mới không? Tôi nhớ rõ về ông ấy đấy.” Jonathan cười, như thể đang nhớ lại những ngày hạnh phúc, Fritz đến căn hộ của Reeves ở Hamburg, tay cầm mũ, nở một nụ cười thân thiện và mang theo một khẩu súng nhỏ hữu dụng.
Tom phải thoáng nghĩ mới nhớ ra Fritz là ai: tay chạy việc, tay đưa thư kiêm tài xế taxi ở Hamburg. “Không. Hãy hy vọng Fritz đã quay về với đám bạn ở quê của ông ta, như Reeves nói. Tôi mong ông ta cứ ở lại đó. Có thể họ đã xong chuyện với Fritz rồi.” Tom đứng dậy. “Jonathan, hôm nay anh phải về nhà và nhận hậu quả về hành động của mình.”
“Tôi biết.” Dẫu vậy, Tom đã giúp anh cảm thấy khá hơn. Anh ta rất thực tế, kể cả về chuyện với Simone. “Buồn cười thật, vấn đề không còn là lũ mafia nữa mà là cách Simone - đối xử với tôi.”
Tom biết. “Tôi sẽ đi cùng anh, nếu anh muốn. Thử nói chuyện với cô ấy lần nữa.”
Jonathan lại nhún vai. Giờ anh đã đứng dậy, bồn chồn. Anh liếc nhìn bức tranh Tom từng giới thiệu tên là “Người ngồi trong ghế” của Derwatt treo trên lò sưởi. Anh nhớ tới căn hộ của Reeves, với một bức tranh Derwatt khác treo trên lò sưởi, có khi giờ đã bị hủy hoại. “Tôi nghĩ tối nay mình sẽ ngủ trên chiếc ghế Chesterfields - dù có chuyện gì xảy ra đi nữa,” Jonathan nói.
Tom nghĩ xem có nên bật tin tức lên nghe không. Dẫu vậy, thời điểm này không thích hợp để tiếp nhận tin tức mới, kể cả tin từ Ý. “Anh nghĩ sao? Simone có khả năng cấm cửa tôi. Trừ phi anh nghĩ tôi đi cùng thì chỉ làm mọi chuyện tệ hơn với anh.”
“Mọi chuyện nào có thể tệ hơn được nữa. Được thôi. Tôi mong anh đi cùng, vậy đấy. Nhưng chúng ta sẽ nói gì?”
Tom đút tay vào túi quần flannel xám cũ của mình. Trong túi phải của anh là khẩu súng Ý nhỏ mà Jonathan đã mang theo trên tàu. Tom đặt nó dưới gối mỗi khi đi ngủ kể từ đêm thứ Bảy. Phải rồi, biết nói gì đây? Anh thường hay dựa vào cảm hứng nhất thời, nhưng không phải anh đã cố gắng hết sức với Simone rồi sao? Anh còn biết nghĩ ra một khía cạnh tuyệt vời nào nữa của vấn đề này, để làm lóa mắt cô ta, che mờ đầu óc cô ta, khiến cô ta nhìn mọi thứ theo cách của họ đây? “Điều duy nhất có thể làm,” Tom trầm ngâm nói, “là cố gắng thuyết phục cô ấy là đến giờ tất cả đã an toàn. Tôi thừa nhận việc đó rất khó. Ngang với việc chạy trối chết cả đêm đấy. Nhưng anh biết đấy, phần lớn quan ngại của cô ấy là do lo lắng thôi.”
“Thế... mọi việc an toàn cả rồi chứ?” Jonathan hỏi. “Chúng ta không thể chắc chắn được phải không? - Tôi đoán là phụ thuộc cả vào Reeves.”