Chương 8
Phòng Lớn có kích thước bằng hai phần ba diện tích của tiền sảnh. Phía trước có một lò sưởi khổng lồ bằng đá, các mặt của nó đều được chạm khắc bằng những viên ngọc cũng khổng lồ không kém. Ngọc khổng lồ theo đúng nghĩa đen.
Grayson sắp xếp cho Libby và tôi ngồi vào hai chiếc ghế bành có lưng tựa, sau đó cáo lỗi vì phải đi về phía trước căn phòng, nơi có ba quý ông lịch lãm mặc vest, lớn tuổi hơn anh, đang đứng nói chuyện với Zara và chồng bà.
Các luật sư , tôi chợt nhận ra. Sau đó vài phút, Alisa cũng nhập hội với họ, còn tôi thì lặng lẽ đưa mắt quan sát những người khác đang ở trong phòng. Một đôi vợ chồng người da trắng lớn tuổi, ít nhất cũng phải tầm sáu mươi. Một người đàn ông da đen, tầm bốn mươi tuổi, đeo quân hàm, đứng đấu lưng với tường và nghiêm túc duy trì ánh mắt theo dõi cả hai lối ra. Xander đang đứng cạnh một người, chắc hẳn người đó là một thành viên khác của Nhà Hawthorne. Người này lớn tuổi hơn, khoảng giữa độ tuổi hai mươi. Anh chàng này để tóc dài và kết hợp bộ vest của mình với một đôi bốt cao bồi giống hệt như chiếc xe máy ngoài kia, thời kỳ tốt đẹp của nó chỉ còn là dĩ vãng.
Nash, tôi nghĩ, nhớ lại cái tên mà Alisa từng nói với mình.
Cuối cùng, một người phụ nữ già nua cũng tham gia vào cuộc chiến. Nash đề nghị khoác tay bà ấy, nhưng thay vì đáp lại lời mời của Nash, bà ấy khoác tay Xander. Cậu ấy dẫn bà đến thẳng chỗ tôi và Libby. “Đây là Nan,” cậu ấy nói với chúng tôi. “Người phụ nữ huyền thoại.”
“Các cháu cứ tự nhiên.” Bà lão siết chặt vòng tay cậu. “Bà là bà cố của thằng nhóc con này.” Nan yên vị trên chiếc ghế trống ở bên cạnh tôi mà không gặp một chút khó khăn nào. “Già cỗi lắm rồi và xấu tính gấp đôi.”
“Bà dịu dàng lắm,” Xander vui vẻ trấn an tôi. “Và tôi là người được bà yêu quý nhất.”
“Cháu không phải người ta yêu quý nhất,” Nan càu nhàu.
“Cháu là người được tất cả mọi người yêu quý!” Xander cười toe toét.
“Cháu quả là giống với thằng ông bất trị của cháu,” Nan lại càu nhàu. Bà ấy nhắm mắt lại, và tôi thấy tay bà hơi run run. “Một thằng tệ bạc.” Nhưng tôi vẫn thấy có chút dịu dàng trong lời nói của bà.
“Ngài Hawthorne là con trai của bà ạ?” Libby nhẹ nhàng hỏi. Chị ấy có kinh nghiệm tiếp xúc với người lớn tuổi, và còn là một người rất giỏi trong việc lắng nghe.
Nan đón lấy cơ hội để khịt mũi thêm lần nữa. “Con rể.”
“Ông ấy cũng là người mà bà rất yêu quý,” Xander giải thích thêm. Có chút gì đó chua xót ẩn hiện trong cách cậu ấy nói. Đây không phải đám tang. Chắc hẳn họ đã đưa ông về nơi an nghỉ từ vài tuần trước rồi, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự đau buồn vẫn còn đang phảng phất và bao trùm lên nơi đây.
“Em ổn chứ, Ave?” Libby hỏi. Tôi nghĩ đến việc Grayson nói rằng khuôn mặt tôi rất dễ để lộ cảm xúc.
Tốt hơn là nên nghĩ về Grayson Hawthorne chứ không phải nghĩ về đám tang và nỗi đau buồn.
“Em ổn,” tôi trả lời chị ấy, nhưng thực lòng thì tôi không ổn chút nào. Đã hai năm trôi qua, việc mất đi người mẹ dấu yêu vẫn ập đến với tôi như một con sóng thần. “Em ra ngoài một lát,” tôi nói, cố nặn ra một nụ cười gượng. “Em cần hít thở chút không khí.”
Chồng của Zara chặn tôi lại trên đường ra ngoài. “Cháu đi đâu? Chúng ta sắp sửa bắt đầu rồi.” Ông ta khóa chặt khuỷu tay tôi.
Tôi vùng vẫy cánh tay mình để thoát khỏi tay ông ta. Tôi không quan tâm những người này là ai. Không ai có quyền được phép động tay vào người tôi. “Cháu được nghe kể là có bốn người cháu mang họ Hawthorne sẽ đến đây,” tôi đáp, giọng cứng rắn. “Theo như cháu thấy thì vẫn còn một người nữa chưa đến. Cháu sẽ trở lại trong vài phút. Ông thậm chí còn không nhận ra được rằng cháu đã ra ngoài đâu.”
Tôi dừng chân ở sân sau - nếu có thể gọi nó là sân. Mặt đất được quét dọn sạch sẽ không một hạt bụi. Có một đài phun nước. Một khu vườn dựng đầy những bức tượng. Một nhà kính. Và kéo dài về phía xa, xa hết tầm mắt tôi, là một mảnh đất . Một vài phần đã phủ kín cây xanh. Một số phần vẫn còn trống. Nhưng đứng đó rồi phóng tầm mắt ra xa rất dễ khiến ta tưởng tượng đến cảnh một người đi về nơi phía chân trời, và có thể người ấy sẽ không bao giờ quay trở lại được nữa.
“Nếu có là không và một lần là không bao giờ thì một tam giác có thể có bao nhiêu cạnh nhỉ?” Câu hỏi ấy vang lên trên đầu tôi. Tôi nhìn lên và thấy một chàng trai đang ngồi trên cao, vắt vẻo nơi mép ban công với lan can làm bằng sắt rèn. Say.
“Anh sẽ ngã đấy,” tôi nói với anh ta.
Anh ta nhếch mép. “Một đề nghị thú vị.”
“Đó không phải là một đề nghị,” tôi đáp.
Anh ta ném cho tôi nụ cười khẩy lười nhác. “Không việc gì phải xấu hổ khi đưa ra đề nghị với một người nhà Hawthorne.” Anh ta có mái tóc sẫm màu hơn màu tóc của Grayson, nhưng nhạt hơn của Xander và không mặc áo sơ mi.
Một quyết định đúng đắn giữa mùa đông giá rét đấy nhỉ, tôi chua chát nghĩ, nhưng không thể rời mắt khỏi khuôn mặt của anh ta. Thân mình anh ta gầy nhẳng, bụng thon gọn. Có một vết sẹo dài và mảnh chạy từ xương đòn kéo đến hông.
“Em hẳn là Cô gái Bí ẩn,” anh ta nói.
“Em là Avery,” tôi sửa lại. Tôi ra đây để thoát khỏi đám người nhà Hawthorne cùng với sự đau buồn của họ. Trên khuôn mặt của chàng trai trước mắt tôi không hề có dấu hiệu quan tâm, như thể cuộc đời này chỉ là một tấn trò hề, như thể anh ta không cảm thấy đau buồn nhiều như những người đang ở trong kia.
“Tùy em, muốn nói thế nào cũng được, C.B ạ,” anh ta vặn tôi. “Anh có thể gọi em là C.B, Cô gái Bí ẩn không?”
Tôi khoanh tay đáp: “Không.”
Anh ta đưa chân lên lan can rồi đứng dậy, thoáng chao đảo. Anh ta khiến tôi lạnh cả sống lưng. Anh ta đang đau buồn, và đang ở quá cao. Tôi không cho phép bản thân tự hủy hoại khi mẹ qua đời, nhưng điều đó không có nghĩa tôi không cảm nhận được tiếng gọi đầy nguy cơ từ trong sâu thẳm.
Anh ta chuyển trọng tâm cơ thể mình sang một bên chân và để chân còn lại thả lỏng tự do.
“Đừng!” Trước khi tôi có thể nói thêm bất cứ điều gì khác, chàng trai đã vặn người rồi nắm lấy tay vịn lan can, giữ cho cơ thể mình thẳng đứng khi chân đang lơ lửng trong không khí. Tôi có thể thấy rõ từng thớ cơ trên lưng anh ta căng lên, lăn tăn phập phồng trên bả vai khi anh ta hạ người... và rơi xuống.
Anh ta tiếp đất ngay bên cạnh tôi. “Em không nên ở ngoài này, C.B.”
Tôi không phải kẻ cởi trần vừa mới nhảy ra khỏi ban công. “Anh cũng không nên.”
Tôi tự hỏi, không biết anh ta có phát hiện ra tim tôi đang đập rất nhanh hay không: Tôi cũng muốn biết liệu tim anh ta có đang chạy đua như vậy không.
“Nếu tần suất anh làm những điều anh nên làm không nhiều hơn anh nói những điều anh không nên nó...” - Khóe môi anh ta nhếch lên - “... thì anh sẽ trở thành gì chứ?”
Jameson Hawthorne, tôi nghĩ. Ở khoảng cách gần, tôi có thể phân định được màu mắt của anh ta: một màu xanh lục, sẫm và vô hồn.
Anh ta cố tình nhắc lại. “Anh sẽ trở thành gì được nhỉ?”
Tôi ngừng nhìn vào đôi mắt của anh ta. Và cơ bụng nữa. Và cả mái tóc đang rối bù kia. “Bợm rượu,” tôi đáp, nhưng sau đó, vì có thể cảm nhận được bầu không khí khó chịu đang dần lan ra, tôi bổ sung thêm hai từ. “Và hai.”
“Gì cơ?” Jameson Hawthorne hỏi.
“Câu trả lời cho câu đố đầu tiên của anh,” tôi đáp. “Nếu có là không và một lần là không bao giờ , thì số cạnh của một tam giác sẽ... là... hai. ”
Tôi ném ra câu trả lời của mình, không buồn giải thích tại sao tôi lại đưa ra được đáp án ấy.
“Được lắm, C.B.” Jameson bước ngang qua tôi, đồng thời lướt nhẹ cánh tay trần của anh ta qua cánh tay tôi. “Được lắm.”