Chương 34
Tôi đã hỏi Alisa về bản di chúc. Tôi nửa mong đợi chị ấy sẽ nhìn tôi như thể tôi bị điên, nhưng ngay sau lần thứ hai tôi nhắc đến từ màu đỏ , biểu cảm của chị ấy đã có sự biến chuyển. Chị ấy nói với tôi rằng chị ấy có thể sắp xếp cho tôi một buổi xem Di chúc Đỏ, nhưng trước tiên, tôi phải làm một việc cho chị ấy đã. Và việc đó hóa ra là gặp gỡ nhóm tạo mẫu đang bận rộn lôi lôi kéo kéo đồ đạc, như thể mang cả kho hàng Saks Fifth Avenue [1] vào trong phòng ngủ của tôi vậy. Chị tạo mẫu trông vô cùng nhỏ bé và gần như chẳng hề nói năng gì.
Người đàn ông cao cỡ mét chín kia thì thao thao bất tuyệt về những điều mà ông ta quan sát được. “Em không thể mặc màu vàng, và tôi cũng khuyên em là nên loại bỏ những từ màu cam và màu kem ra khỏi từ điển của em, còn đâu em có thể lựa chọn bất kỳ màu nào khác.” Ba chúng tôi đang ở trong phòng tôi, cùng với Libby, mười ba giá quần áo, hàng chục khay trang sức, và nguyên một salon chăm sóc sắc đẹp di động được dựng lên trong phòng tắm. “Tông sáng, tông màu phấn, tông đất hài hòa. Em thích trang điểm đồng màu không?”
Tôi nhìn xuống bộ quần áo mà mình đang mặc: Áo phông xám và chiếc quần bò thoải mái thứ hai của tôi. “Em thích đơn giản.”
“Đơn giản là một lời nói dối,” người phụ nữ tạo mẫu lẩm bẩm. “Nhưng đôi khi cũng đẹp.”
Bên cạnh tôi, Libby khịt mũi và cố nén cười. Tôi lườm chị ấy. “Chị có vẻ tận hưởng quá nhi?” Tôi mỉa mai, sau đó quét mắt đánh giá bộ đồ chị ấy đang mặc. Một chiếc váy dài màu đen, vẫn có chất Libby, nhưng phong cách này chỉ hợp khi ghé chơi một câu lạc bộ đồng quê thôi.
Tôi đã nói với Alisa là đừng gây áp lực lên chị ấy. “Chị không cần phải thay đổi cách...” Tôi bắt đầu càm ràm, nhưng Libby ngắt lời tôi.
“Họ đã mua chuộc chị, bằng những đôi ủng.” Chị ấy ra hiệu về phía bức tường đằng sau. Rất nhiều đôi ủng đang được xếp hàng dài ở đó, tất cả đều bằng da, có màu tím, đen và xanh lam; trong số ấy có bốt đến mắt cá chân, bốt lửng, thậm chí còn có cả một đôi cao đến đùi.
Libby bình thản bổ sung. “Ngoài ra, còn mấy sợi dây chuyền lồng ảnh rùng rợn này nữa.” Nếu một mảnh trang sức có thể trông giống như bị ám thì Libby chấp nhận chôn chân ở đó được đấy.
“Chị chấp nhận để họ thay đổi diện mạo của mình chỉ để đổi lấy mười lăm đôi bốt và vài sợi dây chuyền lồng ảnh rùng rợn ư?” Tôi nói, cảm thấy hơi bị phản bội.
“Và thêm vài chiếc quần da mềm cực mềm,” Libby nói thêm. “Hoàn toàn xứng đáng mà. Chị vẫn là chị, chỉ là... quyến rũ hơn thôi.” Tóc của chị ấy vẫn là màu xanh lam. Màu móng của chị ấy vẫn là màu đen. Và chị ấy không phải người nhóm tạo mẫu đang tập trung vào.
“Chúng ta bắt đầu với mái tóc trước nhé,” nhà tạo mẫu nam đứng bên cạnh tôi tuyên bố, nhìn chằm chằm vào mấy lọn tóc ngứa mắt của tôi. “Chị nghĩ sao?” Anh ấy hỏi chị gái của mình.
Không có câu trả lời nào đáp lại vì người phụ nữ tạo mẫu đã biến mất đằng sau một trong những giá treo quần áo. Tôi có thể nghe thấy âm thanh cô đang lật từng lớp quần áo, sắp xếp lại thứ tự của chúng.
“Tóc dày. Không quá xoăn, cũng không quá thẳng. Em có thể chọn một trong hai kiểu.” Trông bề ngoài và cách nói chuyện của người đàn ông cao lớn này thật giống như anh ta đang chơi ở vị trí trung vệ đuôi của một đội bóng bầu dục, chứ không phải đang đưa ra lời khuyên cho tôi về kiểu tóc. “Phải dài hơn cằm em ít nhất năm phân, nhưng không được quá giữa lưng. Tỉa vài lớp tóc chắc sẽ không gây ảnh hưởng gì.” Anh ấy liếc sang nhìn Libby. “Tôi nghĩ cô nên từ luôn đứa em gái này nếu cô bé đòi cắt mái.”
“Tôi sẽ xem xét lời khuyên đó,” Libby nghiêm nghị. “Em sẽ khốn khổ nếu mái tóc của em không đủ dài để cột đuôi ngựa đấy,” chị ấy quay sang nói với tôi.
“Đuôi ngựa.” Nó khiến tôi có cái nhìn phán xét hơn, như một trung vệ phòng thủ. “Em ghét tóc em và muốn nó bị hành hạ à?”
“Em không ghét nó,” tôi nhún vai. “Chỉ là em không quan tâm thôi.”
“Lại là một lời nói dối nữa.” Người phụ nữ xuất hiện trở lại sau giá treo quần áo. Trên tay chị ấy là một cơ số những móc treo quần áo, và tôi thấy chị ấy đang treo chúng lên, trưng ra từng món một trên giá treo gần nhất. Kết quả là ba bộ quần áo khác nhau ra đời.
“Cổ điển.” Chị ấy gật đầu về phía chân váy màu xanh lạnh băng, phối cùng một chiếc áo phông tay dài. “Tự nhiên.” Nhà tạo mẫu di chuyển về phía lựa chọn số hai - một chiếc váy hoa suông thướt tha được kết hợp từ hơn chục sắc thái đỏ hồng khác nhau. “Thời trang học đường cá tính.” Lựa chọn cuối cùng là một chân váy da ngắn màu nâu, ngắn hơn tất cả mọi chiếc váy ngắn, và cũng có lẽ bó hơn tất cả. Cô ấy phối nó với một chiếc áo sơ mi có cổ màu trắng và một chiếc áo len dáng dài màu xám thạch thảo.
“Cái nào vẫy gọi em nhất?” Nhà tạo mẫu nam hỏi. Câu hỏi đó khiến Libby khịt mũi thêm lần nữa. Chị ấy chắc chắn đang rất thích thú với diễn biến này.
“Tất cả chúng đều ổn,” tôi nhìn chằm chằm vào chiếc váy hoa. “Cái đó làm em thấy ngứa ran người.”
Hai nhà tạo mẫu có vẻ đau đầu. “Các lựa chọn trang phục thường ngày thì sao?” Anh ấy đau đớn hỏi chị mình. Cô ấy biến mất, rồi lại xuất hiện trở lại với ba bộ đồ khác, bổ sung cho ba bộ đầu tiên. Quân legging đen, áo sơ mi đỏ và một chiếc áo len dáng dài đến đầu gối màu trắng, phối với bộ cổ điển . Một chiếc sơ mi ren màu xanh biển và quần xanh lá cây đậm được phối cùng với bộ hoa dị thể, và áo len cashmere dáng rộng cùng quần bò rách được treo bên cạnh chân váy da.
“Cổ điển. Tự nhiên. Thời trang học đường cá tính.” Chị tạo mẫu nhắc lại các lựa chọn của tôi.
“Em có chút bài xích những chiếc quần màu mè,” tôi nói. “Nên là loại cái đó đi ạ.”
“Đừng chỉ nhìn vào quần áo không thôi,” người đàn ông dẫn dắt. “Hãy xem xét kỹ lưỡng.”
Đảo mắt bực tức với một người to lớn gấp đôi mình có lẽ không phải một sự lựa chọn khôn ngoan lắm.
Nhà tạo mẫu nữ băng qua chỗ tôi. Cô ấy đi đứng nhẹ nhàng, như thể đang nhón chân đi qua một thảm hoa mà không làm hỏng một bông hoa nào. “Cách em ăn mặc, cách em làm tóc, điều đó không hề ngu ngốc hay nông cạn. Những thứ này...” Cô ấy chỉ tay về giá treo đồ phía sau. “Nó không chỉ là quần áo. Nó là cả một thông điệp. Em không chỉ quyết định mình sẽ mặc gì, mà còn quyết định cả hình ảnh của em sẽ mang đến câu chuyện gì. Em có phải một cô gái ngây thơ, trẻ trung và ngọt ngào không? Em muốn ăn mặc để chứng minh với thế giới thượng lưu giàu có và hào nhoáng này rằng em sinh ra là để dành cho nó, hay em muốn ăn mặc theo chuẩn mực, giống mọi người nhưng vẫn khác biệt, trẻ trung nhưng lại đầy đanh thép?”
“Tại sao em lại phải kể một câu chuyện nào đấy chứ?” Tôi hỏi.
“Bởi vì nếu cậu không tự kể câu chuyện của mình thì người khác sẽ thay cậu kể nó.” Tôi quay lại thì thấy Xander Hawthorne đang đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm một đĩa bánh nướng. Cậu ấy tiếp tục. “Trang điểm cũng giống như trò tiêu khiển tạo ra những cỗ máy Rube Goldberg [2] , là một công việc tốn nhiều năng lượng.”
Tôi muốn nheo mắt lại để đe doạ cậu ấy, nhưng Xander và đống bánh nướng của cậu ấy miễn nhiễm với mọi ánh nhìn.
“Cậu thì biết gì về trang điểm chứ?” Tôi càu nhàu. “Nếu tớ là con trai, tớ sẽ chỉ có hai giá đồ trong phòng này thôi, tối đa đấy.”
“Và nếu tớ là White” - Xander đáp trả đầy ngạo mạn - “thì người ta sẽ không nhìn tớ như thể tớ có một nửa dòng máu nhà Hawthorne đâu. Bánh nướng không?”
Lời nói của cậu ấy khiến tôi nhụt chí. Tôi thật lố bịch khi nghĩ rằng Xander không biết cảm giác bị đánh giá, hoặc bị buộc phải sống theo những quy tắc khác nhau là như thế nào. Đột nhiên, tôi tự hỏi cậu ấy lớn lên trong căn nhà này ra sao. Lớn lên là một người của nhà Hawthorne.
“Tớ có thể lấy một chiếc bánh nướng vị việt quất không?” Tôi hỏi - chính xác hơn là phiên bản hòa bình của tôi đã làm điều đó.
Xander đưa cho tôi một chiếc bánh nướng vị chanh. “Đừng cố vượt lên chính mình làm gì.”
♟
Sau một lúc nghiến răng lựa chọn, cuối cùng tôi cũng chọn lựa chọn số ba. Tôi ghét từ thời trang học đường gần bằng với không thích phải khẳng định mình có cá tính , nhưng đến cuối cùng, tôi chẳng thể giả vờ như mình mắt to và ngây thơ được, và tôi vô cùng nghi ngờ rằng nếu tôi cứ cố để hành xử như thể thế giới này hòa hợp với thiên nhiên thì tôi sẽ thấy ngứa ngáy lắm - không phải ngứa ngáy theo nghĩa đen, mà là ngứa ngáy trong lòng.
Nhóm tạo mẫu quyết định giữ tóc dài cho tôi nhưng cắt tỉa nó thành nhiều lớp và tạo kiểu xoăn sóng nước. Tôi đã hy vọng họ gợi ý tôi nhuộm highlight, nhưng họ lại đi ngược với mong muốn ấy: chỉ có những lọn tóc nhuộm màu tối hơn và đậm hơn so với màu nâu khói bình thường của tôi. Họ tỉa gọn lông mày của tôi nhưng vẫn để dày. Tôi được hướng dẫn về những điểm tốt của chế độ chăm sóc da mặt phức tạp và phải hứng chịu một trận phun kèm nén khí để nhuộm da nâu, nhưng họ chỉ trang điểm nhẹ cho tôi thôi: Mắt và môi, không có gì hơn. Nhìn bản thân trong gương, tôi gần như có thể tin rằng cô gái đang nhìn mình chằm chằm kia thực sự thuộc về căn nhà này.
“Chị nghĩ sao?” Tôi hỏi, quay sang nhìn Libby.
Chị ấy đang đứng gần cửa sổ, ngược sáng. Tay chị ấy đang ôm chặt chiếc điện thoại, mắt dán vào màn hình.
“Lib?”
Chị ấy nhìn lên, biểu cảm sốc nặng của chị ấy là đủ để tôi nhận ra tất cả.
Drake. Anh ta đang nhắn tin cho chị ấy. Chị ấy đang nhắn lại đấy à?
“Trông em tuyệt lắm.” Libby khen chân thành, bởi vì chị ấy lúc nào cũng thực lòng với tôi. Luôn luôn như vậy. Chân thành, nghiêm túc và hơi quá lạc quan.
Anh ta đã đánh chị ấy, tôi tự nhủ. Anh ta đã bán đứng chúng tôi. Chị ấy sẽ không quay lại với anh ta đâu.
“Trông cậu tuyệt đấy,” Xander hùng hồn tuyên bố. “Trông cậu không giống người có khả năng dụ dỗ một ông già đưa cho cậu hàng tỷ đô-la lắm, vậy là tốt rồi.”
“Thật thế ư, Xander?” Zara âm thầm tuyên bố sự hiện diện của bà ấy, không phô trương ồn ào. “Không ai tin Avery đã quyến rũ ông cháu đâu.”
Câu chuyện của bà ấy - hình ảnh của bà ấy - lơ lửng giữa ranh giới của quyền lực và nghiêm túc. Nhưng tôi đã xem buổi họp báo của bà. Tôi biết mặc dù Zara quan tâm đến danh tiếng của bố mình, nhưng bà ấy không có bất kỳ sự ràng buộc cụ thể nào với tôi. Tôi trông càng tệ hại thì càng có lợi cho bà ấy. Trừ khi trò chơi thay đổi.
“Avery.” Zara ném cho tôi một nụ cười lạnh như gam màu mùa đông băng giá mà bà ấy đang mặc trên người. “Tôi có thể nói đôi lời chứ?”
Saks Fifth Avenue, ban đầu là A. Saks & Co., là một chuỗi cửa hàng bách hóa sang trọng của Mỹ, có nguồn gốc từ cửa hàng A. Saks & Co. của Andrew Saks được mở tại khu mua sắm F Street của Washington vào năm 1867.
Cỗ máy Rube Goldberg là hệ thống dây chuyền phản ứng phức tạp được thiết kế từ những vật đơn giản nhất. Có rất nhiều loại Rube Goldberg Machines, từ rất “nghiêm túc” như hệ thống tạo thành từ 1200 linh kiện đồng hồ của nghệ nhân Nhật Bản cho đến vui vẻ như một câu chuyện cổ tích.