Chương 14
“Tôi tưởng cô nói công ty của cô đã phong tỏa chuyện này rồi cơ mà.” Oren đưa mắt nhìn Alisa. Chị ấy cau có nhìn ông, gọi liên tiếp ba cuộc điện thoại - hai trong số đó là bằng tiếng Tây Ban Nha - rồi mới quay trở lại đáp lời đội trưởng đội vệ sĩ của tôi. “Thông tin bị rò rỉ không phải do chúng tôi.” Đôi mắt chị ấy hướng về phía Libby. “Nó rò rỉ từ bạn trai của cô.”
Libby trả lời lí nhí như muỗi kêu. “Bạn trai cũ của tôi.”
♟
“Tôi xin lỗi.” Libby đã xin lỗi ít nhất hàng chục lần. Chị ấy đã kể cho Drake nghe mọi chuyện - di chúc, các điều kiện thừa kế và cả nơi chúng tôi đang ở. Tất cả mọi chuyện. Tôi hiểu tại sao chị ấy lại làm như thế. Chắc hẳn anh ta đã nổi điên lên khi chị ấy đi mà không nói gì. Chị ấy phải cố gắng để xoa dịu anh ta. Và ngay khi chị ấy kể cho anh ta nghe về khoản tiền, chắc chắn anh ta đã yêu cầu được đi cùng chị ấy. Có khi anh ta còn bắt đầu lên kế hoạch để tiêu số tiền của nhà Hawthorne như thế nào. Và Libby, Chúa phù hộ cho chị ấy, nói với anh ta rằng số tiền đó không phải để cho họ tiêu, rằng nó không phải của anh ta.
Anh ta đã đánh chị ấy. Chị ấy bỏ anh ta. Anh ta đi gặp đám nhà báo. Và giờ thì họ đang ở đây. Đám đông nhào vào chúng tôi khi Oren dẫn tôi ra ngoài từ cửa phụ.
“Cô ấy đây rồi!” Một giọng nói hét lên thất thanh.
“Avery!”
“Avery, ở đây!”
“Avery, bạn cảm thấy như thế nào khi trở thành thiếu niên giàu có nhất nước Mỹ?”
“Cảm giác khi trở thành tỷ phú trẻ nhất thế giới thế nào?”
“Tại sao bạn lại quen biết Tobias Hawthorne?”
“Có đúng bạn là con ngoài giá thú của Tobias Hawthorne không?”
Tôi bị nhét vào chiếc SUV. Cửa xe đóng lại, át đi âm thanh hỗn loạn đặt câu hỏi từ đám phóng viên. Đi được nửa đường, tôi nhận được một tin nhắn - không phải từ Max, mà là từ một số lạ.
Tôi mở tin nhắn ra xem, đập vào mắt tôi là ảnh chụp màn hình của một dòng tiêu đề tin tức. Avery Grambs: Người thừa kế của gia tộc Hawthorne là ai?
Đi kèm bức hình ảnh là một dòng tin nhắn ngắn gọn.
Này, Cô gái Bí ẩn. Em chính thức nổi tiếng rồi đấy.
♟
Bên ngoài cổng Nhà Hawthorne còn đông những tay săn ảnh hơn, nhưng một khi chúng tôi vượt qua được đám người ấy, phần còn lại của thế giới như thể biến mất tăm mất dạng. Không có bữa tiệc chào mừng nào cả. Không thấy Jameson đâu. Grayson cũng thế. Không một người nhà Hawthorne nào xuất hiện. Tôi đi tới cánh cửa lớn phía trước - nó đã bị khoá. Alisa biến mất phía sau nhà. Khi chị ấy cuối cùng cũng xuất hiện trở lai, mặt chị ấy hiện rõ vẻ đau đớn. Chị ấy đưa tôi một chiếc phong bì lớn.
“Về mặt pháp lý,” Alisa cất lời, “gia đình Hawthorne buộc phải giao chìa khóa cho em. Nhưng thành thực mà nói...” Chị ấy khẽ nheo mắt lại. “Gia đình Hawthorne hơi cổ quái.”
“Đó là một thuật ngữ pháp lý à?” Oren hỏi khô khốc.
Tôi xé toạc chiếc phong bì và thấy quả thật gia đình Hawthorne có để lại cho tôi chìa khóa - nhưng là cái nào trong đống hàng trăm chiếc chìa khóa này thì không ai nói cho tôi biết cả.
“Chị có biết chìa nào trong số này là của cửa trước không?” Tôi hỏi. Chúng không phải những chiếc chìa khóa bình thường. Chúng quá khổ và được làm một cách công phu. Tất cả đều trông giống như đồ cổ, và không chiếc nào giống chiếc nào - từ kiểu dáng, kim loại đến độ dài và kích cỡ đều khác nhau.
“Em sẽ tìm ra thôi,” ai đó nói.
Ánh mắt tôi lập tức hướng lên trên, nhưng thứ tôi thấy chỉ là hệ thống liên lạc nội bộ.
“Thôi ngay cái trò chơi này đi, Jameson,” Alisa ra lệnh. “Nó không dễ thương như em nghĩ tẹo nào đâu.”
Không một lời hồi đáp.
“Jameson?” Alisa thử lại lần nữa.
Một khoảng im lặng kéo dài, và rồi một giọng nói vang lên: “Anh tin em, C.B.”
Hệ thống liên lạc nội bộ bị ngắt. Alisa thở hắt ra một hơi dài đầy bực bội. “Chúa hãy cứu con khỏi đám người nhà Hawthorne này đi.”
“C.B?” Libby hoang mang hỏi.
“Cô gái Bí ẩn,” tôi giải thích. “Theo như những gì em biết thì đó là ý tưởng đặt biệt danh của Jameson Hawthorne.” Tôi chuyển sự chú ý của mình sang chùm chìa khóa trên tay. Giải pháp rõ ràng chỉ có thể là thử tất cả. Giả sử một trong số những chiếc chìa khóa này mở được cửa trước, cuối cùng tôi cũng gặp may. Nhưng may mắn có vẻ như vẫn chưa đủ. Tôi đã là cô gái may mắn nhất thế giới rồi.
Một phần nào đó trong tôi muốn mình phải xứng đáng với nó.
Tôi lật qua lật lại chùm chìa khóa, nghiên cứu kỹ lưỡng những hình chạm khắc ở trên thân khóa. Táo. Rắn. Hình vòng xoáy làm liên tưởng đến xoáy nước. Có chìa khóa hình chữ cái trong bảng chữ cái, với lối viết kiểu cổ điển và lạ mắt. Có chìa khóa hình số và cả chìa khóa hình dạng đặc biệt, một chiếc hình nàng tiên cá và bốn chiếc có hình bốn con mắt khác nhau.
“Ôi?” Alisa chợt thốt lên. “Em có muốn chị gọi điện thoại không?”
“Không ạ.” Tôi chuyển hướng sự chú ý của mình từ chùm chìa khóa sang phía cửa. Thiết kế rất đơn giản, theo phong cách nghệ thuật hình khối - chẳng ăn nhập với bất cứ chiếc chìa nào ở đây. Chắc hẳn sẽ phải là thứ gì đó rất dễ, tôi nghĩ. Rất đơn giản. Một giây sau, một ý nghĩ song song đột nhiên nảy ra trong đầu tôi. Không đủ đơn giản.
Tôi đã học được điều này khi chơi cờ: Chiến lược càng phức tạp thì khả năng đối thủ tìm kiếm những lời giải đơn giản càng ít. Nếu bạn có thể liên tục khiến đối thủ chỉ chăm chăm nhìn vào quân Mã của mình thì bạn có thể thắng họ chỉ với một con tốt. Hãy xem xét các chi tiết. Xem xét thật kỹ những chi tiết phức tạp. Tôi chuyển trọng tâm từ thân của chìa khóa sang phần thực sự đi vào ổ khóa. Mặc dù kích cỡ tổng thể của các chìa khóa khác nhau, nhưng phần đầu khóa tra vào ổ lại hoàn toàn tương tự nhau về mặt kích thước.
Không chỉ có kích cỡ tương tự, tôi nhận ra điều đó khi quan sát hai chiếc chìa khóa đặt cạnh nhau. Hình dạng khóa - những rãnh răng cưa quyết định khóa có xoay được hay không - cũng giống hệt nhau. Tôi cầm một chiếc chìa khóa khác lên. Hoàn toàn giống nhau. Tôi bắt đầu kiểm tra toàn bộ chùm chìa khoá, so sánh hai chìa khóa cạnh nhau, từng cặp một. Giống nhau. Giống nhau. Giống nhau hết.
Trong chùm chìa khóa này không có đến một trăm chiếc. Tôi lật xem chúng càng nhanh thì càng chắc chắn về điều đó. Chỉ có hai chiếc thôi; hàng chục bản sao của chiếc chìa khóa giả được ngụy trang để trông thật khác nhau, nhưng rồi...
“Cái này.” Cuối cùng tôi cũng tìm thấy chiếc chìa khóa có hình dạng khóa khác với đống còn lại. Hệ thống liên lạc nội bộ kêu vang, nhưng nếu quả thật Jameson vẫn đang ở đầu bên kia thì anh ấy chẳng thèm nói một lời nào cả. Tôi di chuyển đến gần cửa hơn, tra chìa khoá vào ổ, adrenaline [1] chạy rần rần trong mạch máu khi ổ khóa xoay.
Eureka [2] !!
“Sao em biết chìa nào là đúng?” Libby hỏi tôi.
Câu trả lời đến từ hệ thống liên lạc nội bộ. “Đôi khi,” Jameson Hawthorne cất lời, nghe có vẻ trầm ngâm một cách kỳ lạ, “những thứ có vẻ bề ngoài khác nhau lại có phần cốt lõi giống nhau.”
Adrenaline là một hoóc-môn có tác dụng trên thần kinh giao cảm, được sản xuất bởi cơ thể khi ta sợ hãi, tức giận hay thích thú, làm cho nhịp tim đập nhanh hơn và cơ thể chuẩn bị cho những phản ứng chống lại nguy hiểm.
Câu nói nổi tiếng của nhà bác học Archimedes khi phát hiện ra lực hấp dẫn, có nghĩa là “Tìm ra rồi!”