CHUYỆN KỂ THỨ HAI
Thuở ta vào triều, có ai muốn bậy bạ cũng không được.Vua Hiêu Lịch như thể vị thánh sống. Mà hoàng hậu Tương Linh cũng rất lạ đời. Có bao giờ con nghĩ vợ vua đi nấu bếp không? Hoàng hậu là con nhà trâm anh thế phiệt.Thân phụ là quan đại tể hầu của tiên triều Hiêu Minh, tức vua cha Hiêu Lịch. Chang Lang ta chưa có trường học cho con các triều thần. Nên quan đại tể hầu đã gửi con gái sang nước Di Vang theo đuổi nghiệp văn võ. Sức ngồi được ghế văn hầu vũ hầu. Nhưng không. Bà Tương Linh chỉ muốn làm vợ vua. Con có tin chuỵện này không? Lúc vua Hiêu Lịch tiếp sứ Vân Muôi, hoàng hậu Tương Linh đã nghĩ ra một trăm mười chín món đãi khách, để tỏ rõ quốc hồn quốc túy Chang Lang. Cho đến khi đưa các món vào miệng ăn, tiên đế vẫn còn thầm khen quan nấu bếp của triều.
Bỗng hoàng hậu bước ra giữa tiệc:
-Nghe đại quan từ quí quốc sang, Tương Linh tôi phải đích thân lo bữa yến tiệc.
Chẳng để vị phó vương Vân Muôi kịp nói gì, bà lần lượt kể tên từng món, rồi gút lại:
-Một trăm mười chín là tách ra để nói. Thật ra, yến tiệc hôm nay chỉ là một trong muôn ngàn món mỹ vị của đất nước Chang Lang. Đây là món ăn lông biết cánh, thưa
đại quan
Hoàng hậu nói xong, rút vào hậu sảnh.
Phó vương Vân Muôi ngẩn ngơ một lúc.
-Ai vậy, thưa hoàng thượng?
-Vương phi của ta đó.
Hiêu Lịch đáp.
Bấy giờ ta vừa đánh thắng Vân Muôi. Song, vì nước nhỏ, nên ta phải giử kẽ. Quốc vương Chang Lang phải đích thân tiếp phó vương Vân Muôi. Hòang hậu Tương Linh đã bù vào chỗ yếu đó. Phó vương Vân Muôi là tay sành sỏi, lại nghĩ ăn lông biết cánh theo cách của mình, nên trước khi về nước, đã sai đem nghìn lạng vàng đút lót bà vương phi, với ý đồ để bà hòang tài giỏi ấy không gây khó dễ trong việc giao thiệp buôn bán. Bà Tương Linh im lặng nhận. Rồi sai tì nữ mang thư cùng số vàng kia lại chỗ dịch xá trao cho tay phó vương. “Tương Linh tôi vô cùng khâm phục sức hiểu biết của quí quan. Đất nước Chang Lang nhận được sự chia xẻ như thế ở ngài đã đáng nghìn vàng rồi “
Hiêu Lịch thế. Hoàng hậu Tương Linh thế. Hỏi ai dám bậy bạ. Tiên đế nằm xuống, mọi thứ lập tức khác đi. Lúc đầu ta không tin. Bỡi bọn họ hầu hết là những tay cự phách trong cuộc chiến chống Vân Muôi, những bậc trung nghĩa đối với tiên triều.. Vậy mà giờ khác hết. Thuở ta ngồi ghế vũ hầu rồi văn hầu, Đam Chuyết là anh quan giữ sổ bộ ở triều. Nghe đồn ông ta miệt mài sách vở. Muốn chép sử, nhưng chưa được cuốn nào. Hồi đó con mới lên tám, đã biết gì đâu. Hiêu Du lên ngôi mới năm hôm, quan giữ sổ bộ Đam Chuyết đã bước lên ghế tể hầu. Người có quyền nạt nộ hết thảy các quan triều, trừ vua, con rể của mình. Cảnh triều chính vừa qua như trò cỡi ngựa chưn đưng của lũ con hồi nhỏ. Mới là ngựa đã nhảy lên làm người. Lúc chống Vân Muôi, vì dốt cả văn võ, Nhữ Bột với Hiêu Dật chỉ được vào lính nấu cơm. Họ cũng can trường thật. Binh lính đến đâu, bếp ăn phải theo đến đó. Giặc yên, vua Hiêu Lịch điểm công, thăng quan cho họ. Dật thăng cơ trưởng đội cấm vệ nội điện. Bột thăng cơ trưởng đội phòng vệ ngọai thành. Hiêu Du vừa lên ngôi, người ta thấy Dật leo lên ghế nội điện, Bột leo ghế ngọai điện. Dật là người trong hoàng tộc, vua cử lo việc giữ ngân khố với hầu trầu cho vua là phải. Dật thăng quan to, bạn chí thiết của Dật là Bột tất cũng phải được quan to. Nghe đâu ta về quê được ba hôm thì vua cho Dật kiêm luôn ghế văn hầu để cầm đầu đám quan văn. Thế là hết. Không, cũng còn chứ chưa hết. Người giữ được trước sau như một, nay cũng hiếm như sao buổi sớm. Theo ta, nay ở triều còn có thống binh Viên Cưu và vũ hầu Vưu Trấp. Tất nhiên không kể quốc sư Bồ Đài với thái hậu Tương Linh. Trấp là chỗ chí thiết với ta. Từng cùng ta vào sinh ra tử trong cuộc chiến chống Vân Muôi. Thuở ấy, Trấp dưới quyền ta.Ta thống binh. Còn Trấp đốc binh. Bọn ta đã cùng nhường củ moi cho binh lính, canh cho nhau ngủ trên núi Mi Sơn. Quả là tay trang kiệt một thời. Một mình Trấp cỡi ngựa đi đầu, theo sau là đám quân quyết tử. Chính Trấp đã đốc binh đẩy lùi đội quân Vân Muôi vào chiếm kinh thành thuở ấy. Thắng trận trở về, Trấp hay ra vợ con đã chết trong binh lửa, chỉ sót lại mỗi đứa gái út Vưu Xuyên, mới hơn một tuổi. Bọn ta quí nhau ở chỗ đều trung liệt với triều đình. Còn thương nhau vì đồng cảnh ngộ. Mẹ Vưu Xuyên cũng sớm lìa trần như mẹ con. Trấp cũng buồn cho chính sự như ta. Ta bỏ triều, Trấp chẳng có lời chi. Con còn nhớ hôm ấy không? Ta dắt con. Còn Trấp thì dắt Xuyên. Lúc đó là trời vừa sáng. Cửa tây kinh thành chẳng có ai, ngoài cha con Trấp với cha con ta. Trấp im, khóc. Rồi dắt Xuyên quay lại. Ta cũng im. Rồi dắt con đi. Trấp là dân kẻ chợ, dân gốc kinh thành. Ta biết Trấp khóc vì chẳng có ruộng vườn để về như ta.