CHUYỆN KỂ THỨ BA
Ông ấy đi rồi ta như chiếc bóng. Đêm nằm cứ xốn xang trong lòng. Trở dậy, lại thấy mình như ở giữa hoang tàn. Chẳng lẽ lại đi nói với lũ con Xuyên con Cơ. Ông ấy rời triều sáu năm, đủ để cho cháu thành nhơn. Còn ta, bao nhiêu lần định quyên sinh, rồi chẳng dám. Ta cũng vừa mới tìm được con Cơ đấy. Nghĩ đến đứa cháu côi cút, lại giật mình chuyện binh lửa. Cha Cơ là em ruột ta. Cũng một trong muôn ngàn kẻ cỡi ngựa cầm cung ngã xuống trong binh lửa năm xưa. Cơ thất lạc từ lúc lên ba.
Còn ông gìa ấy từ Mi Sơn chạy xuống. Cơ mất hết mẹ cha. Còn ông ấy mất cả vợ con với đôi mắt. Có phải trời run rủi không, đứa cháu bé bỏng của ta đã thành con gái nuôi ông lão mù lòa. Mười mấy năm sau ta gặp được Cơ giữa đất kinh thành. Hôm ấy là rằm tháng bảy. Hoàng thượng lệnh mở kho triều, phát gạo cho kẻ không nhà, để mọi người được vui chơi trong buổi xây xong Lăng Vạn Tuế. Cơ đã về với ta. Còn ông ấy lại ra đi. Kẻ ở nhờ nhà của triều đình đành để người không nhà ra đi. Cơ lăn xuống đường mà khóc. Được gặp một người, nhưng lại mất một người. Chắc cha cháu chưa nói với cháu điều này. Là bọn ta cứ thấy tiếc. Biết sẽ như vầy, nửa sợi lông cũng không để mất trong buổi ấy. Sao? Cháu khóc ư? Chuyện ấy nên để cho người già. Còn cháu là con trai, phải thử cho hết chí lớn như bọn ta, đến cuối, rủi chẳng được chi,mới khóc. Mà thôi. Ta vừa nói chuyện Lăng Vạn Tuế phải không? Chuyện ấy còn lạ hơn chuyện con Cơ. Hoàng thượng quyết định xây lăng. Ông Bồ Đài cũng quyết ngăn. Song, chỗ nhìn xa thấy rộng của quốc sư chỉ hữu ích đối với minh quân.
Tất nhiên, tới giờ vẫn chưa ai dám nói hoàng thượng là không minh quân. Ngay thái hậu Tương Linh cũng chỉ mới nói được như vầy “Không khéo vương nhi lại làm ta mau chết”. Mẹ chết?. Với hoàng thượng là chuyện quá bình thường. Đời người dưới mắt hoàng thượng là những mảnh phù sinh được tạm kết lại. Hoàng thượng quyết xây lăng, vì biết chắc mình sẽ chết. Sáu năm lo việc xây lăng, hoàng thượng có gầy đi, dẫu quan nội điện Hiêu Dật đã đích thân lo ăn uống thuốc thang cho vua. Ông quan nòi vương tộc ấy đã đáp tàu sang tận nước Di Vang tìm mua củ thoi. Mấy người ở tàu buôn Di Vang nói, biết cách chưng cất, thứ củ ấy là thuốc trường sinh. Một thời kinh thành náo động vì chuyện sâm thoi. Hoàng thượng là kẻ dũng cảm. Biết chắc mình sẽ chết, song, vẫn tìm cách để ngăn nó. Ta ở triều nên biết rõ. Một anh thợ Vân Muôi chuyên về điện đền đã vẽ họa đồ, rồi đứng coi ngó suốt sáu năm.
Lúc xây xong Lăng Vạn Tuế, người ấy nói “Thần đi làm nghề này ở nhiều nước. Nhưng chưa nơi đâu có lăng vua to bực ấy”. Hoàng thượng nghe thích qúa, thưởng riêng người ấy nghìn cân vàng. Nhưng chừng đó chẳng ăn thua so với số vàng đổ tượng vua. Nếu nay đem cân thử, thì pho tượng vua bằng vàng phải nặng gấp đôi ba trăm lần vua. Bữa thiết triều ấy có mặt ta. Quan điện đền Chuyên Chiết đã trình tấu khoản vàng đã chi dụng. Đúc tượng vua. Rồi làm áo quan cho vua. Sơn phết chỗ ngự của vua ở Hí Khúc Đình, ở Hiên Lãm Thúy với ngư hồ,và ở vườn thượng uyển.. Cháu biết không, ở vườn thượng uyển có một trăm lẻ tám cung phòng, tức có một trăm lẻ tám giường vua phết vàng. Gọp hết các khoản trên với khỏan thưởng riêng người thợ Vân Muôi là ba vạn tám ngàn cân. Bữa đó quan điện đền còn trình tấu lên vua số thần dân đã trưng dụng là bảy vạn rưỡi.
Đấy là số dân đi xây lăng còn sống trở về. Còn số đã chết ở kinh thành là hai vạn mốt. Còn điều này nữa, phải nói cho cháu biết. Hoàng thượng là kẻ sâu sắc, biết trước điều gì sẽ xảy ra lúc xây lăng. Tây Biên, Bắc Biên là các trấn trung du, cách kinh thành cả ngàn dặm. Chưa kể Nga Sơn, Mi Sơn và Hoắc Sơn là miền thượng du.
Thần dân các nơi ấy về đất kinh thành là miệt biển, gặp cảnh thủy thổ bất phục, tất phải có người chết trong lúc xây lăng. Nên vua đã cho làm sẵn chỗ chôn những người sẽ bỏ mình vì đại nghiệp. Mai ta sẽ dẫn cháu đi xem Lăng Vạn Tuế. Rồi qua thăm chỗ nằm của hai vạn mốt người Chang Lang đã không thể trở lại quê kiểng. Thiêng Liêng Chi Mộ. Nói nôm na là nấm mộ thiêng. Tên cái gò mả chung đấy cháu. Non sông gấm vóc có chỗ nào là không thiêng liêng đâu cháu