ÔNG ĐA TRÀ
Xuyên Khê là đất núi. Mi Sơn trùng điệp ở phía nam lúc đến đây bỗng nứt ra năm ngọn, như năm ngón tay trời. Trước mặt có Ngũ Sơn sừng sững. Sau lưng là dòng Thạch Thủy trong vắt bốn mùa. Nên người đời gọi đây là đất địa linh. Ông Đa Trà sinh ra ở đấy. Mười lăm tuổi, Đa còn theo cha cày ruộng. Thuở đó, dân Chang Lang thờ thần Cốc. Làm ăn được mất đều phải cúng thần. Với đất Xuyên Lâm thì thần Cốc có thờ ơ. Khói hương nguyện cầu chẳng bao giờ dứt, nhưng miếng ăn chẳng lúc nào no. Đa bỏ nhà lên Mi Sơn, lúc nghe ở đấy có ông thầy núi vừa truyền văn võ, vừa dạy cho cách làm ra cơm áo. Học trò không nhiều. Nhưng ở tận các nước Bắc Mân,Tân Tang…cũng có người tìm đến học. Vua Hiêu Lịch từng có chỉ chiếu triệu về kinh giúp vua, song ông ta nhất định không để cho người của triều đình gặp mặt. Ông Đa Trà đến đó thì thấy đã có Khưu Chiêu. Đa, Khưu thuở đó là đôi bạn thâm giao. Khưu ra thi, đỗ đạt, làm quan. Đa không muốn xa thầy, nên ở lại Mi Sơn. Thầy mất giữa lúc Chang Lang xảy ra binh lửa. Đa đau buồn bỏ nước ra đi.
Qua Đông Mân,thấy nhà vua đang cho xây lò đúc súng đạn và đích thân luyện tập binh lính, Đa nghĩ trước sau gì ông vua này cũng đi đánh chiếm nước khác. Đến Tây Miêu, muốn vào yết kiến vua, lại gặp lúc đại thiết triều. Sau mới rõ là vua đang họp triều thần bàn việc có nên để các bộ tộc người Miêu trên triền núi Nga Sơn được tiếp tục mặc quần một ống không. Sang Di Vang, Đa biết được nhiều điều lạ. Vua chỉ bận đồ cụt, để đầu trần, không bận áo bào, đội mũ rồng như ở Chang Lang, Tây Miêu.
Còn thuyền bè đến hàng vạn chiếc. Lượt đi, chở mũi tên đồng. Lượt về, chở gỗ quí, đá quí. Hỏi mới biết Tân Tang với Bắc Mân đang đánh nhau. Di Vang đem mũi tên đồng đổi gỗ quí của Tân Tang, và đổi đá quí của Bắc Mân.
Trong ba mươi năm, Đa đi được mười tám nước. Muốn đem sở học của mình ra giúp đời, để khuây nỗi thương tiếc thầy. Song, chẳng nơi nào thu hút được ông. Quay về Xuyên Khê thì song thân đã mất. Ngôi nhà cũ, mái đổ tường xiêu. Bấy giờ vua Hiêu Du đang xây lăng Vạn Tuế, trai tráng trong làng bị trưng về kinh cả. Dân làng vẫn đói khổ như xưa. Ân hận về việc đã bỏ quê hương ra đi, Đa lên núi Ngũ Sơn chặt cây làm lại nhà ở. Ngày đi hái thuốc chữa bệnh cho dân làng. Đêm ngồi chép sách.
Nghe Khưu Chiêu bỏ quan về chăn trâu, ông tìm đến thăm. Biết Đa đã viết xong Dụng Binh Thư và Thịnh QuốcThư, Khưu khuyên bạn nên mở trường dạy học trò để truyền hai cuốn sách lớn ấy. Nghe lời Khưu, Đa về Xuyên Khê treo bảng chiêu sinh. Nhưng bấy giờ sưu thuế nặng nề, ai cũng lo kiếm cái ăn, lòng dạ đâu nghĩ chuyện học hành. Năm năm treo bảng chiêu sinh, chẳng ai đến học. Mãi khi Khưu Luân thành thạo việc cày cuốc, mới đến làm học trò đầu tiên của ông.