← Quay lại trang sách

THẦY TRÒ

Đúng mười hôm sau, Luân gặp lại Xuyên ở nhà ông Đa Trà.

Cô cháu gái của quan vũ hầu nói:

-Chắc trời xui khiến, nên hai người lại được tiếp tục sống bên nhau.

Xuyên thẹn. Còn Luân thì ngờ Cơ đã rõ tình ý giữa mình và Xuyên.

Lúc từ biệt hai người để trở về kinh, Cơ còn nói:

-Xuyên Khê là đất địa linh. Nếu không gầy được nghiệp lớn, anh chị cũng thõa tình mong ước.

Cách dạy học trò của Đa có khác. Ngoài việc luyện cung kiếm, đọc Dụng Binh Thư và Thịnh Quốc Thư, Luân, Xuyên còn được nghe thầy kể những điều tai nghe mắt thấy lúc chu du thiên hạ, những điều chưa nói ở hai sách trên.

“ Nước Xua Lôi ở chỗ cuối đất cùng trời. Người đầu tiên ta gặp là một ông lão quắc thước. Liền bẻ cây vạch xuống đường hình nhà cửa lâu đài để tỏ mình muốn đến chốn kinh đô. Ông lão gật đầu, chỉ tay về hướng bắc. Nhưng chỉ đi được một đoạn thì thấy ông ấy chạy theo ta. Rồi trong lúc chưa kịp nói gì, ta đã bị ông nắm lấy tay lôi đi. Về đến nhà mới biết ông lão câm. Thông huyệt là cách chữa các bệnh thiên thời. Song, ta cũng rán thử. Năm ngày thông huyệt, ông lão bỗng nói được. Ngày, ta theo ông lão lùa dê lên núi Lao. Đêm về cùng nằm chung chiếu. Hai tháng đi chăn dê với ông già núi Lao, ta nói được tiếng Xua Lôi. Mới hay ông tên Thác, từng là quan thiếu phủ của triều vua Xua Lôi. “ Ta già đi chỉ vì ông vua ngọng ấy” Ông Thác bảo. Không vợ không con, ông Thác theo phò vua Xua Lôi đúng mười bảy năm, nếm đủ mùi cay đắng. Dân Xua Lôi sống nhờ nuôi dê. Thịt dê với sữa dê được mang sang Tân Tang, Bắc Mân đổi lấy gạo và vải mặc. Nhà vua nhàn du ở núi Lốt, biết có con thu lô ăn lá sỗng đẻ mỗi lứa ba mươi trứng, nở ra ba mươi con. “Cũng loài ăn lá nhưng đẻ nhiều hơn dê “ Vua nghĩ. Rồi truyền cho dân Xua Lôi lên núi Lốt, bứng hết cây sỗng về trồng trên các cánh đồng. “ Cho dê ăn lá ấy, ắt ta lợi to” Vua bảo. Ông Thác can gián: “Theo chỗ thần biết, tự thuở khai thiên lập địa đến giờ, chưa có giống dê nào đẻ trứng “ Vua nạt: “Đồ quan ngu. Do ăn lá khác, nên đẻ con. Giờ ăn lá sỗng thì đẻ trứng, rõ chưa” Rồi hạ ông Thác xuống bốn trật. Đã phò vua phải đến cùng, ông Thác nghĩ. Nên cắn răng ngồi lại ghế thái phủ. Dê chưa kịp đẻ trứng, đám sỗng chết sạch. Đền đài ở kinh đô Xua Lôi xây tự các triều trước, nên đều cũ. Nhà vua biết trên núi Lốt có thứ đá đỏ như màu ráng trời. “ Nếu dùng màu đá đó sơn phết lại thành quách, thì dưới gầm trời này, chẳng có đâu địch nổi kinh đô ta” Vua bảo. Rồi xuống lệnh trưng d ân. Kinh đô Xua Lôi nằm ở cương giới phía tây. Còn núi Lốt nằm tận phía đông. Trưng dân để xây lò nấu đá và chuyển đá về kinh. Ông Thác lại can vua: “Theo chỗ thần biết, thuở khai thiên lập địa có bà tiên đội đá vá trời, chứ chưa nghe ai nấu đá để sơn phết đền đài” Vua tức giận, lột hết chức tước ông Thác, cho xuống làm quân triều. Dân nấu đá chết dần chết mòn. Lò nấu xây bằng đất, nóng quá, đổ cả. Đá núi Lốt nấu trong bao nhiêu ngày, vẫn còn nguyên. Đến lúc ấy ông Thác thấy nghẹn ở cổ. Rồi câm luôn.”

Kể đến đây, thầy Đa Trà gọi Luân hỏi:

- Con sẽ làm gì nếu được ngôi vua?

Luân đáp:

-Thưa, một là làm sao trăm họ no đủ, không phải cạp đất mà ăn. Hai là khiến cho muôn dân được học hành, để không người nào còn u tối như vua Xua Lôi

-Được. Còn Xuyên thì sao?

Con gái quan vũ hầu bối rối:

-Thưa, xưa nay phận đàn bà con gái thường chỉ mới làm tới hoàng hậu.

-Nhưng ta giả sử con được làm vua kia?

-Nếu vậy, con chỉ biết khóc khi thấy muôn dân đói khổ.

Đa cười

-Luân chỉ mới được tai mắt của vua. Còn Xuyên, thì chắc chỉ mới được tấm lòng của vua.